Mục tiêu nghiên cứu: nhằm đánh giá thực trạng sử dụng thuốc sốt rét tự điều trị trong chương trình
phòng chống sốt rét hiện nay và hiệu quả giảm mắc sốt rét cho nhóm người ngủ rẫy được cấp thuốc Aterakin tự
điều trị.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: là cộng đồng dân ngủ rẫy trên 15 tuổi với thiết kế nghiên cứu
cắt ngang và nghiên cứu can thiệp có đối chứng.
Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu tỷ lệ đến nhận thuốc tự điều trị sốt rét của người dân khi ngủ rẫy chiếm
55,64% (CI95% từ 52,01%-59,23%). Thuốc cấp tự điều trị sốt rét gồm 53,22% là artesunat, 30,79% là
chloroquin và 15,59% là thuốc Arterakin. Người dân đến nhận thuốc tự điều trị ở y tế thôn bản chiếm 62,77%.
Tỷ lệ sử dụng thuốc tự điều trị sốt rét đủ ngày theo hướng dẫn chiếm tỷ lệ 24,18%. Nguyên nhân không uống
thuốc đủ ngày là do 43,10% người hết triệu chứng sốt, 22,41% trở về nhà uống tiếp, 12,07% không nhớ và
22,41% không muốn uống tiếp. Cấp thuốc Arterakin tự điều trị làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTSR. Năm 2008, tỷ lệ
KSTSR ở nhóm can thiệp là 3,31% giảm so với nhóm đối chứng là 7,56%. Năm 2009, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở
nhóm can thiệp là 2,73% giảm so với nhóm đối chứng là 7,69% (p<0,05). Hiệu quả giảm mắc của biện pháp ở
người Kinh có sự khác biệt có ý nghĩa, trong khi ở người Ba Na không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
Khuyến nghị: Nghiên cứu cũng đưa ra khuyến cáo nên truyền thông giáo dục về biện pháp cấp thuốc tự
điều trị để người dân đến nhận thuốc khi đi ngủ rẫy, theo dõi tình trạng bệnh và việc sử dụng thuốc tự điều trị
sau khi đi rẫy về, cung cấp các thuốc tự điều trị ngắn ngày và đào tạo lại y tế thôn bản theo dõi bệnh tại thôn bản.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của biện pháp cấp thuốc Arterakin tự điều trị sốt rét cho người ngủ rẫy tại hai huyện Tây Sơn và Vĩnh Thạnh tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 58
HIỆU QUẢ CỦA BIỆN PHÁP CẤP THUỐC ARTERAKIN TỰ ĐIỀU TRỊ SỐT
RÉT CHO NGƯỜI NGỦ RẪY TẠI HAI HUYỆN TÂY SƠN
VÀ VĨNH THẠNH TỈNH BÌNH ĐỊNH
Hồ Văn Hoàng*, Triệu Nguyên Trung*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm đánh giá thực trạng sử dụng thuốc sốt rét tự điều trị trong chương trình
phòng chống sốt rét hiện nay và hiệu quả giảm mắc sốt rét cho nhóm người ngủ rẫy được cấp thuốc Aterakin tự
điều trị.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: là cộng đồng dân ngủ rẫy trên 15 tuổi với thiết kế nghiên cứu
cắt ngang và nghiên cứu can thiệp có đối chứng.
Kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu tỷ lệ đến nhận thuốc tự điều trị sốt rét của người dân khi ngủ rẫy chiếm
55,64% (CI95% từ 52,01%-59,23%). Thuốc cấp tự điều trị sốt rét gồm 53,22% là artesunat, 30,79% là
chloroquin và 15,59% là thuốc Arterakin. Người dân đến nhận thuốc tự điều trị ở y tế thôn bản chiếm 62,77%.
Tỷ lệ sử dụng thuốc tự điều trị sốt rét đủ ngày theo hướng dẫn chiếm tỷ lệ 24,18%. Nguyên nhân không uống
thuốc đủ ngày là do 43,10% người hết triệu chứng sốt, 22,41% trở về nhà uống tiếp, 12,07% không nhớ và
22,41% không muốn uống tiếp. Cấp thuốc Arterakin tự điều trị làm giảm tỷ lệ nhiễm KSTSR. Năm 2008, tỷ lệ
KSTSR ở nhóm can thiệp là 3,31% giảm so với nhóm đối chứng là 7,56%. Năm 2009, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở
nhóm can thiệp là 2,73% giảm so với nhóm đối chứng là 7,69% (p<0,05). Hiệu quả giảm mắc của biện pháp ở
người Kinh có sự khác biệt có ý nghĩa, trong khi ở người Ba Na không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
Khuyến nghị: Nghiên cứu cũng đưa ra khuyến cáo nên truyền thông giáo dục về biện pháp cấp thuốc tự
điều trị để người dân đến nhận thuốc khi đi ngủ rẫy, theo dõi tình trạng bệnh và việc sử dụng thuốc tự điều trị
sau khi đi rẫy về, cung cấp các thuốc tự điều trị ngắn ngày và đào tạo lại y tế thôn bản theo dõi bệnh tại thôn bản.
Từ khóa: Tự điều trị
ABSTRACT
THE EFFECTIVENESS OF STANDBY-ARTERAKIN TREATMENT FOR PLOT-HUT POPULATION IN
TAY SON AND VĨNH THANH DISTRICTS, BINH DINH PROVINCE
Ho Van Hoang, Trieu Nguyen Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 58 - 64
The study objectives: were to evaluation the situation of the usage of standby-treatment Arterakin of Plot-
Hut population and to evaluate effectiveness of the usage of standby-treatment Arterakin in Plot-Hut population.
Study design: The cross-sectional study and interventional study (providing Arterakin for plot-hut population
more than 15 ages).
Results of the study: showed that the proportion of receiving the standby-treatment drugs of plot-hut
population 55.64% (CI95%: 52.01%-59.23%). The stanby antimalarials were artesunate (53.22%), chloroquine
(30.79%) and Arterakin (15.59%). The people coming and receiving the standby antimalarials at village health
workers were 62.77%. The full dose usage of the standby-treatment drugs following the regimens of Ministry of
Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn
Tác giả liên lạc: TS. Hồ Văn Hoàng ĐT: 0914004629 Email:ho_hoang64@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 59
Health was 24.18%. The reasons of not full dose usages were due to fever clearance (43.10%), coming back home
and continuing (22.41%), not remember (12.07%) and dislike to continue (22.41%). The standby Arterakin has
decreased malaria parasite rate for plot-hut population. In 2008, malaria parasite rate of interventional goup was
3.31%, lower than that of control group (7.56%). In 2009, malaria parasite rate of interventional goup was
2.73%, lower than that of control group (7.69%). The malaria parasite rate decreased with the significant
difference at Kinh community, but not significant difference at Ba Na community.
Recommedation: The study recommended that we should provide the health education on the standby
treatment drugs in order to the people coming and receiving antimalarials at the commune health station or
village health workers when going to and sleeping overnight in the plot hut areas, following the malaria patients
and the usage of the drugs after coming back home from the plot huts, retraining the village health workersand
also providing the short antimalarials.
Key word: Standby-treatment
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình hình sốt rét nhiều vùng trên thế giới
cũng như ở Việt Nam có xu hướng giảm, nhưng
nguy cơ mắc sốt rét ở một số vùng có dân giao
lưu với rừng hoặc có hoạt động đi rừng, ngủ rẫy
là rất cao và đáng quan tâm(3, 8).
Kết quả điều tra về sốt rét trong thời gian
gần đây cho thấy nhóm có nguy cơ mắc sốt rét
cao là những người thường xuyên có hoạt động
và ngủ trong rừng, trong nhà rẫy(3, 4, 5, 6, 7). Hiện
nay, phun tồn lưu nhà ở và tẩm màn với hoá
chất diệt muỗi là các biện pháp chính được sử
dụng để phòng chống véc tơ sốt rét ở Việt Nam.
Hai biện pháp này đều có hiệu quả cao trong
phòng chống sốt rét cho cộng đồng dân sống cố
định. Tuy nhiên, để bảo vệ cho những người có
hoạt động và ngủ trong rẫy, thì cả phun tồn lưu
và tẩm màn là rất khó thực hiện vì ở trong rừng
họ thường ngủ trong những ngôi lều tạm thời
hoặc thậm chí ngủ ngoài trời.
Để bảo vệ đối tượng này, Bộ y tế và Dự án
Quốc gia phòng chống sốt rét đã có chính sách
cấp thuốc tự điều trị khi đi xa cơ sở y tế, tuy
nhiên việc quản lý thuốc cũng như sử dụng của
người dân chưa được đánh giá đầy đủ(1). Mục
tiêu của đề tài này nhằm:
Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc sốt rét tự
điều trị trong chương trình phòng chống sốt rét
hiện nay.
Đánh giá hiệu quả giảm mắc sốt rét cho
nhóm người ngủ rẫy được cấp thuốc Aterakin
tự điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại 2 huyện Tây
Sơn (2 xã Bình Tường, Vĩnh An) và Vĩnh Thạnh
(Vĩnh Hòa, Vĩnh Thuận) tỉnh Bình Định. Đây là
2 huyện có nhiều người dân làm rẫy và ngủ rẫy.
Đối tượng điều tra là người có ngủ rẫy trên
15 tuổi
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp mô tả dịch tễ học:
- Thiết kế nghiên cứu cắt ngang: xác định tỷ
lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét, tỷ lệ nhận thuốc
và sử dụng thuốc tự điều trị của người dân có
hoạt động ngủ rẫy tại 2 xã được chọn. Cỡ mẫu
tính toán theo công thức nghiên cứu cắt ngang
mô tả.
Thiết kế can thiệp
So sánh hiệu quả của việc cấp thuốc
Arterakin tự điều trị có hướng dẫn cho người
ngủ rẫy. Hai nhóm nghiên cứu gồm:
Nhóm can thiệp: chọn người ngủ rẫy tại
huyện Tây Sơn, cấp dihydrroartemisinin-
piperaquin có hướng dẫn.
Nhóm đối chứng: chọn người ngủ rẫy tại
huyện Vĩnh Thạnh, các biện pháp cấp thuốc
theo quy định của chương trình.
Kỹ thuật và công cụ nghiên cứu
Xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 60
(KSTSR) theo phương pháp nhuộm giêm sa,
Khám lâm sàng phát hiện bệnh nhân sốt rét.
Phỏng vấn trực tiếp người ngủ rẫy
Phương pháp thống kê y sinh học
Phần mềm EPI INFO để phân tích số liệu
Thời gian nghiên cứu
2008-2010
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng sử dụng thuốc sốt rét tự điều trị
trong chương trình phòng chống sốt rét
hiện nay
Tỷ lệ người dân ngủ rẫy đến nhận thuốc tự
điều trị khi đi ngủ rẫy
Bảng 1: Tỷ lệ người dân ngủ rẫy đến nhận thuốc tự
điều trị
TT Điểm điều tra Điều tra
Nhận
thuốc
% CI 95%
1 Tây Sơn 375 204 54,40 49,21-59,52
2 Vĩnh Thạnh 378 215 56,88 51,72-61,93
Tổng 753 419 55,64 52,01-59,23
Điều tra cơ bản 753 người hoạt động ngủ rẫy
cho thấy có 419 người đến nhận thuốc sốt rét
mang theo tự điều trị trong thời gian ngủ rẫy
chiếm 55,64%. Tại huyện Tây Sơn tỷ lệ người
ngủ rẫy nhận thuốc tự điều trị là 54,40%, tỷ lệ
này tại huyện Vĩnh Thạnh là 56,88%.
Loại thuốc nhận khi đi rừng ngủ rẫy
Bảng 2: Tỷ lệ người dân ngủ rẫy đến nhận thuốc tự điều trị
TT Điểm điều tra Số nhận thuốc
Loại thuốc
artesunat Arterakin chloroquin
SL % SL % SL %
1 Tây Sơn 204 98 48,04 67 32,84 39 19,12
2 Vĩnh Thạnh 215 125 58,14 0 0.00 90 41,86
Tổng 419 223 53,22 67 15,99 129 30,79
Phân tích 419 đối tượng ngủ rẫy nhận thuốc
tự điều trị cho thấy có 53,22% nhận thuốc
artesunat; 30,79% người nhận thuốc chloroquin
và 15,59% nhận thuốc Arterakin.
Nơi đến nhận thuốc tự điều trị của người
ngủ rẫy
Bảng 3: Nơi đến nhận thuốc tự điều trị của người đi ngủ rẫy
TT Điểm điều tra Số có nhận thuốc
Y tế xã Y tế thôn bản
Số người % Số người %
1 Tây Sơn 204 72 35,29 132 64,71
2 Vĩnh Thạnh 215 84 39,07 131 60,93
Tổng 419 156 37,23 263 62,77
Phân tích nơi đến nhận thuốc tự điều trị cho
thấy tỷ lệ người dân đến nhận thuốc tự điều trị
ở y tế thôn bản là 62,77%, tỷ lệ người dân đến
nhận thuốc ở y tế xã (37,23%) ở cả 2 huyện.
Sử dụng thuốc tự điều trị sốt rét của người dân ngủ rẫy
Bảng 4: Tỷ lệ uống thuốc và số ngày sử dụng thuốc tự điều trị của người dân
TT Loại thuốc
Số nhận
thuốc
Số có uống 1 ngày 2 ngày 3 ngày 4-<7 ngày
SL % SL % SL % SL % SL %
1 Arterakin 223 86 38,57 18 20,93 41 47,67 27 31,40 0 0
2 Chloroquin 129 42 32,56 17 40,48 15 35,71 10 23,81 0 0
3 Artesunat 67 25 37,31 7 28,00 12 48,00 4 16,00 2 8,00
Tổng 419 153 36,52 42 27,45 68 44,44 41 26,80 2 1,31
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ có uống
thuốc tự điều trị trong thời gian ngủ rẫy là
36,52%. Tỷ lệ sử dụng đủ 3 ngày (đủ ngày) đối
với Arterakin là 31,40%, đối với chloroquin là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 61
23,81%. Đối với artesunat chỉ có 8% sử dụng đến
ngày thứ 4-<7, không có trường hợp nào uống
đủ 7 ngày, số còn lại chỉ uống từ 1-3 ngày.
Nguyên nhân không uống thuốc đủ ngày khi ngủ rẫy
Bảng 5: Phân tích nguyên nhân không uống thuốc tự diều trị đủ ngày
Phân tích nguyên nhân không uống thuốc
đủ ngày cho thấy có 43,10% hết sốt, 22,41% trở
về nhà uống tiếp, 12,07% không nhớ và 22,41%
không muốn uống tiếp.
Đánh giá hiệu quả giảm mắc sốt rét của Arterakin đối với người đi rẫy
Hiệu quả giảm tỷ lệ KSTSR ở nhóm dân ngủ rẫy được cấp Arterakin
Bảng 6: So sánh tỷ lệ nhiễm KSTSR ở các nhóm nghiên cứu
Kết quả phân tích kết quả sau 2 lần điều
tra theo dõi hiệu quả biện pháp cấp thuốc
Arterakin tự điều trị có hướng dẫn cho thấy tỷ lệ
KSTSR ở nhóm can thiệp giảm so với trước can
thiệp và giảm so với nhóm đối chứng (p<0,05).
Vào thời điểm theo dõi lần 1 (năm 2008), tỷ
lệ KSTSR sau can thiệp ở nhóm can thiệp là
3,31% giảm so với trước can thiệp (8,16%) và
giảm so với nhóm đối chứng là 7,56%. Theo dõi
lần 2 vào tháng 10 năm 2009 cho thấy tỷ lệ
KSTSR sau can thiệp ở nhóm can thiệp là 2,73%
giảm so với trước can thiệp (6,90%) và giảm so
với nhóm đối chứng (7,56%).
Tỷ lệ BNSR qua các lần điều tra ở 2 nhóm dân ngủ rẫy
Bảng 7: So sánh tỷ lệ BNSR ở các nhóm nghiên cứu
Theo
dõi
Thời gian
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
p
Điều tra BNSR % SRAT/TV Điều tra BNSR % SRAT/TV
1
Trước đi rẫy 7-9/2008 245 22 8,98 0/0 241 23 9,54 0 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2008 242 9 3,72 0/0 238 20 8,40 0 <0,05
2
Trước đi rẫy 7-9/2009 261 20 7,66 0/0 252 22 8,73 0 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2009 256 9 3,52 0/0 247 20 8,10 0 <0,05
Kết quả theo dõi số bệnh nhân sốt rét tại các
nhóm nghiên cứu qua 2 lần điều tra cho thấy số
bệnh nhân sốt rét (BNSR) ở nhóm cấp thuốc
Arterakin giảm so với trước can thiệp và so với
nhóm đối chứng. Cả 2 thời điểm theo dõi không
có trường hợp sốt rét ác tính và tử vong nào xảy
ra.
Phân tích số mắc ở thời điểm theo dõi lần 1
(năm 2008), tỷ lệ BNSR sau can thiệp ở nhóm
can thiệp là 3,72% giảm so với trước can thiệp
(8,98%) và giảm so với nhóm đối chứng ( 8,40%)
Theo dõi lần 2 vào tháng 10 năm 2009 cho
thấy tỷ lệ BNSR sau can thiệp ở nhóm can thiệp
là 3,52% giảm so với trước can thiệp (7,66%) và
TT Điểm điều tra
Uống không
đủ ngày
Hết sốt Trở về nhà uống tiếp Không nhớ Không muốn uống tiếp
SL % SL % SL % SL %
1 Tây Sơn 52 22 42,31 12 23,08 6 11,54 12 23,08
2 Vĩnh Thạnh 64 28 43,75 14 21,88 8 12,50 14 21,88
Tổng 116 50 43,10 26 22,41 14 12,07 26 22,41
Theo
dõi
Thời gian theo dõi
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
p
Điều tra KSTSR (+) % Điều tra KSTSR (+) %
1
Trước đi rẫy 7-9/2008 245 20 8,16 241 21 8,71 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2008 242 8 3,31 238 18 7,56 <0,05
2
Trước đi rẫy 7-9/2009 261 18 6,90 252 20 7,94 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2009 256 7 2,73 247 19 7,69 <0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 62
giảm so với nhóm đối chứng (8,10%).
Phân tích tỷ lệ nhiễm KSTSR ở người Kinh có hoạt động ngủ rẫy
Bảng 8: So sánh tỷ lệ nhiễm KSTSR ở người Kinh có hoạt động ngủ rẫy
Theo dõi Thời gian
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
P
Điều tra KSTSR (+) % Điều tra KSTSR (+) %
1
Trước đi rẫy 7-9/2008 97 8 8,25 101 9 8,91 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2008 96 1 1,04 99 8 8,08 <0,05
2 Trước đi rẫy 7-9/2009 102 6 5,88 112 8 7,14 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2009 98 2 2,04 109 9 8,26 <0,05
Phân tích tỷ lệ nhiễm ở người Kinh qua 2 lần
theo dõi cho thấy tại nhóm cấp Arterakin tỷ lệ
KSTSR giảm so với trước và so với nhóm đối
chứng. Tỷ lệ nhiễm KSTSR tại 2 điểm nghiên
cứu trước can thiệp là không có khác biệt ý
nghĩa thống kê (p>0,05). Tuy nhiên sau khi can
thiệp tỷ lệ nhiễm KSTSR tại điểm can thiệp
giảm, điều tra lần 1 năm 2008 cho thấy tỷ lệ
nhiễm tại nhóm can thiệp là 1,04% giảm so với
8,08% tại nhóm đối chứng, điều tra lần 2 năm
2009 cho thấy tỷ lệ nhiễm tại nhóm can thiệp là
2,04% giảm so với 8,26% tại nhóm đối chứng, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
Phân tích tỷ lệ nhiễm KSTSR ở người Ba Na có hoạt động ngủ rẫy
Bảng 9: So sánh tỷ lệ nhiễm KSTSR ở người Ba Na có hoạt động ngủ rẫy
Theo
dõi
Thời gian
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng P
Điều tra KSTSR (+) % Điều tra KSTSR (+) %
1
Trước đi rẫy 7-9/2008 148 12 8,11 140 12 8,57 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2008 146 7 4,79 139 10 7,19 >0,05
2
Trước đi rẫy 7-9/2009 159 12 7,55 140 12 8,57 >0,05
Sau đi rẫy về 10-12/2009 158 5 3,16 138 10 7,25 >0,05
Phân tích kết quả điều tra vào các thời điểm
theo dõi khác nhau cho thấy tỷ lệ nhiễm KSTSR
(+) của người Ba Na tại nhóm can thiệp giảm so
với nhóm đối chứng. Kết quả sau can thiệp lần 1
năm 2008 cho thấy tỷ lệ nhiễm tại nhóm can
thiệp là 4,79% giảm so với 7,19% tại nhóm đối
chứng, theo dõi lần 2 năm 2009 tỷ lệ nhiễm tại
nhóm can thiệp là 3,16% giảm so với 7,25% tại
nhóm đối chứng; tuy nhiên tỷ lệ giảm tại cả 2
thời điểm đều chưa có sự khác biệt về ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
BÀN LUẬN
Cho đến nay rất ít báo cáo điều tra về tỷ lệ
người dân đến nhận thuốc khi họ đi rừng ngủ
rẫy mặc dù đã có hướng dẫn từ năm 2003. Trên
thực tế vẫn có người dân đến nhận thuốc tự
điều trị, trong những trường hợp này cán bộ y tế
xã hoặc y tế thôn bản cấp 1 liều thuốc sốt rét.
Tuy nhiên mỗi nơi cấp một loại thuốc, sau khi
trở về ít khi người dân đến báo cáo lại có sử
dụng thuốc hay không. Tại các điểm điều tra
trong nghiên cứu này tỷ lệ người dân đi rừng
ngủ rẫy đến nhận thuốc tự điều trị là 55,56%.
Kết quả này cho thấy vẫn còn tỷ lệ rất cao không
đến nhận thuốc mặc dù chính sách thuốc tự
điều trị đã được ban hành từ năm 2003 kèm theo
những biện pháp truyền thông giáo dục để
người dân đến nhận thuốc. Theo điều tra tại một
số cộng đồng dân ngủ rẫy tại miền Trung-Tây
Nguyên (2005) thì tỷ lệ người dân đến nhận
thuốc chỉ chiếm <50%(3). Tình trạng vẫn còn tỷ lệ
cao người dân không nhận thuốc có thể do bệnh
sốt rét giảm, người dân chủ quan; cũng có thể
do công tác truyền thông chưa đạt hiệu quả cao
nên không thay đổi được thái độ và hành vi của
người dân
Về thuốc được cán bộ y tế cấp nhiều nhất là
chloroquin chiếm tỷ lệ 53,22%, so với điều tra
năm 2010 tại Vĩnh Thạnh tỉnh Bình Định tỷ lệ
cấp thuốc Arterakin chiếm tỷ lệ đến 60%. Đây là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 63
do năm 2009, Bộ y tế có hướng dẫn cho phép
tuyến xã cấp thuốc này cho người dân khi đi
rừng ngủ rẫy, hơn nữa thuốc có hiệu quả, ít tác
dụng phụ so với chloroquin. Các hướng dẫn về
thuốc tự điều trị không chỉ rõ cấp thuốc nào nên
cán bộ y tế có thể cấp các loại thuốc khác nhau.
Tuy nhiên Arterakin là loại thuốc dùng ngắn
ngày (3 ngày), hiệu quả cao nên cán bộ y tế
thường chọn thuốc này(1). Người dân đi ngủ rẫy
đến nhận thuốc ở y tế thôn bản chiếm tỷ lệ
62,77% cao hơn so với đến Trạm y tế xã (30%).
Điều này là do người dân ở các xã này có thôn
rất xa trạm y tế nhưng gần với y tế thôn bản
hơn. Người dân rất ít khi dùng đủ liều, đối với
thuốc có liệu trình 3 ngày như Arterakin cho
thấy chỉ có 31,405% uống đủ 3 ngày; đối với
artesunat chỉ có 1,31% uống 4-7 ngày. Trong số
các trường hợp không uống đủ liều có đến
43,10% không uống tiếp do hết sốt, 22,41% trở
về nhà uống tiếp, 12,07% không nhớ để uống
tiếp và 22,41% không muốn uống tiếp. Như vậy
trong việc cấp thuốc tự điều trị nên sử dụng các
loại thuốc ngắn ngày, tốt nhất là loại thuốc điều
trị ngắn ngày như arterakin (liều 3 ngày).
Kết quả điều tra cơ bản cho thấy tỷ lệ nhiễm
KSTSR ở người dân có hoạt động ngủ rẫy là
8,16% (Tây Sơn) và 8,71% (Vĩnh Thạnh) cao hơn
nhiều so với tỷ lệ KSTSR theo thống kê số liệu ở
khu vực miền Trung-Tây Nguyên (0,69%). Một
số điều tra trong những năm trước đây tại một
số điểm có dân đi rừng, ngủ rẫy cho thấy tỷ lệ
nhiễm cũng rất cao: Ngọc Lây (Kon Tum) 8,85%,
Dak Rin (Kon Tum) 6,80%, Ia O (Gia Lai) 7,08%,
Sơn Thái (Khánh Hoà) là 29,77%, Khánh Thượng
(Khánh Hòa) 8,16%, Thanh (Quảng Trị) 6,77%(3).
Áp dụng biện pháp cấp thuốc tự điều trị cho
thấy đã giảm tỷ KSTSR ở nhóm có cấp thuốc với
hướng dẫn của cán bộ y tế. Năm 2008, tỷ lệ
KSTSR ở nhóm can thiệp là 3,31% giảm so với
nhóm đối chứng là 7,56%. Theo dõi năm 2009, tỷ
lệ KSTSR ở nhóm can thiệp là 2,73% giảm so với
nhóm đối chứng là 7,56% (p<0,05). Tỷ lệ KSTSR
ở nhóm người kinh giảm so với nhóm đối
chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kế (p<0,05),
tuy nhiên tỷ lệ KSTSR ở nhóm người Ba Na
giảm so với nhóm đối chứng không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Như vậy hiệu quả cấp thuốc
tự điều trị cho người Ba Na còn hạn chế, có thể
do người Ba Na uống thuốc thường không đủ
liều hoặc không sử dụng thuốc.
KẾT LUẬN
Thực trạng sử dụng thuốc sốt rét tự điều trị
trong chương trình phòng chống sốt rét
hiện nay
Tỷ lệ đến nhận thuốc tự điều trị sốt rét của
người dân mang theo khi ngủ rẫy chiếm 55,64%
(CI95% từ 52,01%-59,23%). Tỷ lệ nhận thuốc tại
huyện Tây Sơn là 54,40%, tại huyện Vĩnh Thạnh
là 56,88%.
Thuốc cấp tự điều trị sốt rét gồm 53,22% là
artesunat, 30,79% là chloroquin và 15,59% là
thuốc Arterakin cho người dân mang theo tự
điều trị trong thời gian ngủ rẫy.
Người dân đến nhận thuốc tự điều trị ở y tế
thôn bản là 62,77% cao hơn so với tỷ lệ 37,23%
nhận thuốc ở y tế xã.
Tỷ lệ sử dụng đủ 3 ngày đối với Arterakin là
31,40%, đối với chloroquin là 23,81%, đối với
artesunat không có trường hợp nào uống đủ 7
ngày.
Tỷ lệ sử dụng thuốc tự điều trị sốt rét đủ
ngày theo hướng dẫn chiếm tỷ lệ 24,18%.
Nguyên nhân không uống thuốc đủ ngày là
do 43,10% người hết triệu chứng sốt, 22,41% trở
về nhà uống tiếp, 12,07% không nhớ và 22,41%
không muốn uống tiếp.
Hiệu quả giảm mắc sốt rét của Arterakin
đối với người đi rẫy
Cấp thuốc Arterakin tự điều trị làm giảm tỷ
lệ nhiễm KSTSR. Năm 2008, tỷ lệ KSTSR ở nhóm
can thiệp là 3,31% giảm so với nhóm đối chứng
là 7,56%. Năm 2009, tỷ lệ nhiễm KSTSR ở nhóm
can thiệp là 2,73% giảm so với nhóm đối chứng
là 7,56% (p<0,05).
Hiệu quả giảm mắc đối với người Kinh: Tỷ
lệ nhiễm KSTSR ở nhóm cấp thuốc Arterakin
giảm so với nhóm đối chứng, sự khác biệt có ý