Quá trình sửa soạn và tạo dạng ống tủy bằng dụng cụ cầm tay hay dụng cụ quay đều tạo ra một lớp mùn trên thành ống tủy, gồm vụn ngà, đuôi nguyên bào ngà, vi khuẩn và các sản phẩm của vi khuẩn. Lớp mùn này cản trở tác dụng kháng khuẩn của dung dịch bơm rửa và các thuốc đặt trong ống tủy. Ngoài ra, nó còn ngăn cản sự khít kín của xi măng trám bít vào thành ống tủy. Để loại bỏ lớp mùn có thể sử dụng các chất chelat hóa, siêu âm, laser nhưng hiện chưa có phương pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn lớp mùn. Mục tiêu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục đích tìm ra một phương pháp bơm rửa thích hợp để đạt được hiệu quả loại bỏ lớp mùn tốt nhất trong điều kiện thực hành lâm sàng tại Việt Nam. Đối tượng & phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 20 chân răng cửa hàm trên đã được sửa soạn ống tủy bằng trâm quay Protaper. Các răng được chia thành 4 nhóm áp dụng 4 phương pháp bơm rửa khác nhau (1) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút, (2) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và 1 ml dung dịch EDTA 17%, (3) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và bơm rửa siêu âm trong 2 phút, (4) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và 1 ml dung dịch EDTA 17%, và bơm rửa siêu âm 2 phút. Sau đó các chân răng được tách đôi để quan sát thành ống tủy bằng kính hiển vi điện tử quét. Mỗi chân răng được chụp 2 ảnh có độ phóng đại 1200 lần ở vị trí 1/3 chóp và 1/3 giữa. Mức độ mùn ngà được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 3. So sánh sự khác biệt giữa các nhóm bằng test Kruskal Wallis và Mann Whitney. Kết quả: tại vị trí phần ba chóp, bề mặt thành ống tủy nhóm 4 có mức độ mùn ngà thấp hơn có ý nghĩa so với các nhóm còn lại. Kết luận: Phương pháp bơm rửa kết hợp dung dịch sodium hypochlorite 2,5%, EDTA dạng lỏng và siêu âm cho hiệu quả loại bỏ lớp mùn tốt hơn các phương pháp không kết hợp.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của các phương pháp loại bỏ lớp mùn trong điều trị nội nha, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 197
HIỆU QUẢ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP LOẠI BỎ LỚP MÙN
TRONG ĐIỀU TRỊ NỘI NHA
Huỳnh Hữu Thục Hiền*
TÓM TẮT
Quá trình sửa soạn và tạo dạng ống tủy bằng dụng cụ cầm tay hay dụng cụ quay đều tạo ra một lớp mùn
trên thành ống tủy, gồm vụn ngà, đuôi nguyên bào ngà, vi khuẩn và các sản phẩm của vi khuẩn. Lớp mùn này
cản trở tác dụng kháng khuẩn của dung dịch bơm rửa và các thuốc đặt trong ống tủy. Ngoài ra, nó còn ngăn cản
sự khít kín của xi măng trám bít vào thành ống tủy. Để loại bỏ lớp mùn có thể sử dụng các chất chelat hóa, siêu
âm, laser nhưng hiện chưa có phương pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn lớp mùn.
Mục tiêu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục đích tìm ra một phương pháp bơm rửa thích hợp để đạt
được hiệu quả loại bỏ lớp mùn tốt nhất trong điều kiện thực hành lâm sàng tại Việt Nam.
Đối tượng & phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 20 chân răng cửa hàm trên đã được sửa soạn ống
tủy bằng trâm quay Protaper. Các răng được chia thành 4 nhóm áp dụng 4 phương pháp bơm rửa khác nhau (1)
dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút, (2) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và 1 ml
dung dịch EDTA 17%, (3) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và bơm rửa siêu âm trong 2 phút,
(4) dung dịch sodium hypochlorite 2,5% trong 3 phút và 1 ml dung dịch EDTA 17%, và bơm rửa siêu âm 2
phút. Sau đó các chân răng được tách đôi để quan sát thành ống tủy bằng kính hiển vi điện tử quét. Mỗi chân
răng được chụp 2 ảnh có độ phóng đại 1200 lần ở vị trí 1/3 chóp và 1/3 giữa. Mức độ mùn ngà được đánh giá
theo thang điểm từ 0 đến 3. So sánh sự khác biệt giữa các nhóm bằng test Kruskal Wallis và Mann Whitney.
Kết quả: tại vị trí phần ba chóp, bề mặt thành ống tủy nhóm 4 có mức độ mùn ngà thấp hơn có ý nghĩa so
với các nhóm còn lại.
Kết luận: Phương pháp bơm rửa kết hợp dung dịch sodium hypochlorite 2,5%, EDTA dạng lỏng và siêu
âm cho hiệu quả loại bỏ lớp mùn tốt hơn các phương pháp không kết hợp.
Từ khoá: lớp mùn, phương pháp bơm rửa, bơm rửa siêu âm.
ABSTRACT
EFFECT OF DIFFERENT ROOT CANAL IRRIGATION REGIMENS IN REMOVING THE SMEAR
LAYER
Huynh Huu Thuc Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 197 - 202
Root canal instrumentation produces a layer of organic and inorganic material called the smear layer that
may also contain bacteria and their by-products. It can exhibit the antiseptic effect of irrigation, prevent the
penetration of intracanal medicaments into dentinal tubules and influence the adaption of filling materials to
canal walls. Current methods of smear removal include chemical, ultrasonic and laser techniques, but none of
which are totally effective throughout the length of all canals or are universally accepted.
Objectives: The aim of this study is to evaluate smear layer removal by different irrigation methods to find
out the best irrigation method.
Methods: Twenty recently extracted maxillar incisors were instrumented by the rotary system Protaper,
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Hữu Thục Hiền ĐT: 0903673767 Email:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 198
and divided into 4 groups: (1) irrigated with 2.5% NaOCl in 3 mins, (2) 2.5% NaOCl in 3mins and 1ml 17%
EDTA, (3) 2.5% NaOCl in 3 mins combined with ultrasonic irrigation in 2 mins, (4) 2.5% NaOCl in 3 mins
and 1ml 17% EDTA combined with ultrasonic irrigation in 2 mins. The teeth were split longitudinally to
examined the dentinal walls under the scanning electron microscope. Two images of the apical and middle thirds
were taken with x 1,200 magnification. The images were then analysed and assessed for the amount of smear
layer. The scoring system ranged from 0 (no smear layer) to 3 (all covered by smear layer). The Kruskal Wallis
and Mann Whitney tests were used for statistical analysis.
Results: There was a significant difference among test irrigation methods in removing the smear layer at
apical position (p=0.02), group 4 had significant greater than others in removing the smear layer.
Conclusion: Using 2.5% NaOCl and 17% EDTA combined with ultrasonic irrigation removed the smear
layer better than other methods.
Keywords: smear layer, irrigation method, ultrasonic irrigation.
MỞ ĐẦU
Sửa soạn ống tủy là một giai đoạn quan
trọng trong điều trị nội nha nhằm làm sạch, tạo
dạng, sát khuẩn hệ thống ống tủy để loại bỏ vi
khuẩn, các sản phẩm của vi khuẩn, mô tủy hoại
tử, ngà thâm nhiễm tạo môi trường thích hợp
cho việc trám bít. Để đạt được mục đích này cần
kết hợp giữa sửa soạn cơ học bằng dụng cụ cầm
tay hoặc dụng cụ quay và làm sạch hóa học
bằng các dung dịch bơm rửa. Mặc khác, quá
trình sửa soạn cơ học tạo ra lớp mùn, bao gồm
ngà vụn, mô tủy còn sót lại, các đuôi nguyên
bào ngà và cả vi khuẩn. Lớp mùn có thể quan
sát được dưới kính hiển vi điện tử quét, đã được
Erik và cộng sự mô tả đầu tiên vào năm 1970.
Lớp mùn này làm giảm tác dụng của các dung
dịch bơm rửa, chất sát khuẩn đặt trong ống tủy,
thay đổi tính thấm của ngà, và ảnh hưởng đến
sự khít kín của vật liệu trám bít. Do đó để đạt
được kết quả điều trị nội nha tốt, cần phải loại
bỏ lớp mùn.
Dung dịch sodium hypochlorite 1-5% là chất
bơm rửa thường được sử dụng nhất hiện nay.
Tuy nhiên sodium hypochlorite ở các nồng độ
khác nhau, ngay cả khi sử dụng kim bơm rửa
chuyên dụng cũng không loại bỏ được lớp
mùn(1). Do đó phải kết hợp sodium hypochlorite
với các hóa chất và phương tiện khác.
Sử dụng sodium hypochlorite kết hợp với
các chất chelat hóa đã được chứng minh là loại
bỏ một phần lớp mùn, làm tăng sự khít kín của
vật liệu trám bít với thành ống tủy(6).
Ethylenediamine tetraacetic acid (EDTA) có tác
dụng chelat hóa canxi trong ngà ở pH trung
tính, là chất chelat thường được sử dụng trong
bơm rửa nội nha. EDTA dạng nhão có tác dụng
làm trơn trong sửa soạn dụng cụ, không loại bỏ
lớp mùn hiệu quả bằng dạng lỏng.
Bơm rửa kết hợp sodium hypochlorite và
EDTA là phác đồ bơm rửa cơ bản hiện nay,
đang được các nhà lâm sàng nội nha áp dụng.
Trong phương pháp này, NaOCl được sử dụng
để bơm rửa khi sửa soạn, sau đó lau khô rồi
bơm rửa bằng EDTA trong thời gian ngắn, sau
cùng bơm rửa lại bằng NaOCl để trung hòa
EDTA. Bơm rửa kết hợp sodium hypochlorite
và EDTA đã được chứng minh có hiệu quả loại
bỏ một phần lớp mùn trong một số nghiên cứu
như các nghiên cứu của Yamada 1983, White
1984, Baumgartner & Mader 1987, Cengiz 1990,
Yamashita 2005. Nghiên cứu của Nguyễn Kim
Ngọc (2005)(3) cho thấy bơm rửa bằng dung dịch
NaOCl kết hợp với EDTA dạng nhão cũng có
hiệu quả loại bỏ lớp mùn, nhưng không thể loại
bỏ hoàn toàn.
Ngoài ra, sử dụng siêu âm kết hợp với
sodium hypochlorite cũng làm tăng hiệu quả
làm sạch lớp mùn so với bơm rửa thông thường
(Martin et al (1980), Cheung & Stock (1993),
Cameron (1995)). Dụng cụ siêu âm ban đầu
được dùng trong nội nha để sửa soạn ống tủy
(Richman (1957)), sau đó không còn được sử
dụng do khó kiểm soát. Tuy nhiên, các trâm siêu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 199
âm lại rất hiệu quả trong việc làm sạch ống tủy.
Có hai hình thức bơm rửa siêu âm là bơm rửa
đồng thời với sửa soạn – trâm siêu âm tiếp xúc
với thành ống tủy trong khi bơm rửa, và bơm
rửa thụ động – trâm siêu âm không tiếp xúc với
thành ống tủy. Trong đó, bơm rửa siêu âm thụ
động có hiệu quả làm sạch lớp mùn hơn (Weller
et al (1980), Ahmad et al (1987))(4,5). Bơm rửa
bằng siêu âm có thể thực hiện với dung dịch
NaOCL là chất bơm rửa, hoặc sử dụng nước để
bơm rửa siêu âm kết hợp với bơm rửa NaOCl
bằng kim bơm nội nha. Tuy nhiên chưa có
phương pháp nào có thể loại bỏ hoàn toàn lớp
mùn. Liệu kết hợp bơm rửa sodium
hypochlorite, EDTA và siêu âm có thể loại bỏ
được hoàn toàn lớp mùn không?
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
để đánh giá hiệu quả loại bỏ lớp mùn của các
phương pháp bơm rửa nội nha khác nhau,
nhằm tìm ra phương pháp hiệu quả nhất để áp
dụng lâm sàng mang lại kết quả điều trị tốt
nhất.
Mục tiêu
Đánh giá và so sánh định lượng mùn ngà
trên thành tủy bằng quan sát dưới hiển vi điện
tử quét giữa các nhóm chân răng được bơm rửa
bằng các phương pháp khác nhau: (1) NaOCl
2,5%, (2) NaOCl 2,5% và EDTA 17%, (3) NaOCl
2,5% kết hợp siêu âm, (4) NaOCl 2,5% và EDTA
17% kết hợp siêu âm.
VẬT LIỆU -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các răng cửa hàm trên được chọn vào mẫu
là các răng còn nguyên vẹn, chân răng thẳng, đã
đóng chóp, phần chóp còn nguyên vẹn, chỉ
được ngâm trong nước sau khi nhổ. Để chuẩn bị
mẫu, các răng được cạo vôi làm sạch chân răng,
cắt bỏ phần thân răng bằng dĩa cắt kim cương có
phun nước làm mát, lấy sạch mô tủy và bơm rửa
ống tủy bằng nước cất. Dùng trâm nội nha số 15
để thăm dò lỗ chóp, chọn 20 chân có lỗ chóp
vừa đủ cho trâm 15 đi ra khỏi lỗ chóp 1 mm.
Vật liệu và phương tiện nghiên cứu
- EDTA 17% (Prevest Denpro Limited, India)
- Dung dịch NaOCL 2,5% được pha chế tại
khoa Răng Hàm Mặt, ĐH Y dược TP HCM, sử
dụng ngay sau khi pha chế.
- Bộ trâm quay máy Protaper (Dentsply)
- Bộ trâm bơm rửa siêu âm Ultrasonic Tip
Endo Irrigation (Satelec)
- Kim bơm rửa 27G ¾˝(0,4x19mm) (BD
Microlance)
- Hiển vi điện tử quét: Scanning Electron
Microscopy – SEM với EDS model Jeol/ JSM-
6480LV (Japan), phòng thí nghiệm Công nghệ
Nano, Đại học Quốc gia TP.HCM.
Hình 1: Đầu siêu âm bơm rửa nội nha.
Tiến trình thực hiện
Các chân răng được sửa soạn ống tủy bằng
hệ thống trâm quay máy Protaper cho đến khi
đạt kích thước tại lỗ chóp ≥0,6 mm (tương
đương với trâm 60 ISO), trong khi sửa soạn chỉ
bơm rửa bằng nước cất. Sau đó, các chân răng
được chia ngẫu nhiên thành 4 nhóm:
- Nhóm 1: nhóm NaOCl, chỉ bơm rửa bằng
15 ml NaOCl 2,5% trong 3 phút.
- Nhóm 2: nhóm NaOCl và EDTA, bơm
rửa bằng 10 ml NaOCl 2,5% trong 2 phút, sau
đó bơm rửa 0,5 ml EDTA 17% trong 30 giây,
cuối cùng bơm rửa tiếp 5 ml NaOCl 2,5%
trong 1 phút.
- Nhóm 3: nhóm NaOCl và siêu âm, bơm
rửa 15 ml NaOCl 2,5% trong 3 phút, sau đó bơm
rửa siêu âm với nước sạch trong 1 phút.
- Nhóm 4: nhóm NaOCl, EDTA và siêu âm,
bơm rửa bằng 10 ml NaOCl 2,5% trong 2 phút,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 200
sau đó bơm rửa 0,5 ml EDTA 17% trong 30 giây,
rồi bơm rửa tiếp bằng 5 ml NaOCl 2,5% trong 1
phút, sau cùng bơm rửa siêu âm với nước sạch
trong 1 phút.
Khi bơm rửa dung dịch bằng kim và ống
bơm rửa, đặt đầu kim cách chóp 2 mm không
chạm vào thành ống tủy, bơm liên tục với áp lực
vừa phải. Đầu cây bơm rửa siêu âm được đặt
cách chóp 2 mm, không chạm vào thành ống tủy
trong khi bơm rửa. Sau khi bơm rửa, dùng gutta
percha trám tạm miệng ống tủy. Tạo 2 rãnh dọc
theo chân răng không chạm vào ống tủy bằng
dĩa cắt kim cương. Ngay trước khi chuẩn bị để
quan sát SEM, tách đôi chân răng thành 2 nửa
bằng cách dùng cây đục men tách theo 2 rãnh
dọc. Chọn ngẫu nhiên 1 trong 2 nửa để quan sát
hiển vi điện tử quét.
Hình 2: Thang điểm đánh giá mức độ mùn ngà
(x500) theo Garberoglio and Becce6 1994,
Yamashita 2005.
Người thực hiện quan sát và chụp lại hình
ảnh SEM là nhân viên phòng thí nghiệm Công
nghệ Nano, Đại học Quốc gia TP.HCM. Mỗi
mẫu được quan sát ở độ phóng đại gấp 1200
lần tại 2 vị trí ngẫu nhiên ở 1/3 chóp và 1/3
giữa chân răng.
Hình ảnh SEM được quan sát và đánh giá
theo thang điểm 0, 1, 2, 3:
0: không có mùn ngà trên bề mặt, tất cả các
ống ngà sạch, mở.
1: không có mùn ngà trên bề mặt ngà, chỉ có
mùn ngà ở miệng ống ngà.
2: lớp mỏng mùn ngà che phủ bề mặt ngà và
ống ngà, nhưng vẫn có thể thấy được miệng các
ống ngà.
3: mùn ngà rất nhiều, che phủ hầu hết bề
mặt ngà.
Số liệu ghi nhận được xử lý thống kê bằng
test Kruskal Wallis và Mann Whitney.
KẾT QUẢ & BÀN LUẬN
Tại vị trí 1/3 giữa ống tủy, bề mặt ngà
thành ống tủy ở cả 4 nhóm không có sự khác
biệt có ý nghĩa về mức độ mùn ngà (p≥0,05).
Vị trí phần ba giữa là vị trí tương đối dễ làm
sạch hơn so với phần ba chóp vì có đường
kính rộng hơn, dung dịch bơm rửa đến vùng
này nhiều và dễ hơn so với vùng chóp, do đó
có thể loại bỏ lớp mùn dễ hơn. Thật vậy, kết
quả đánh giá mùn ngà có thể thấy vị trí phần
ba giữa ở các nhóm có điểm số khá thấp.
Trong đó, bơm rửa NaOCl kết hợp EDTA và
kết hợp siêu âm cho thấy có khả năng loại bỏ
mùn ngà tốt nhất, mức độ trung bình là 1, có
một mẫu đạt mức 0 hoàn toàn không còn mùn
ngà.
Tại vị trí 1/3 chóp ống tủy, bề mặt ngà thành
ống tủy ở 4 nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa về
mức độ mùn ngà (p=0,02). Phần ba chóp là vị trí
quan trọng nhất, vùng này được làm sạch tốt thì
mới đảm bảo thành công của điều trị nội nha.
Do đó, phương pháp bơm rửa hiệu quả phải là
phương pháp khẳng định được tác dụng làm
sạch tại phần ba chóp. Khi sử dụng test Mann
Whitney U so sánh giữa từng cặp nhóm, không
thấy sự khác biệt tại phần ba chóp ở nhóm 1, 2, 3
cho thấy sử dụng NaOCl kết hợp EDTA hoặc
siêu âm chưa tạo hiệu quả khác biệt so với chỉ
sử dụng NaOCl. Nhưng kết quả nghiên cứu cho
thấy tại vị trí phần ba chóp, phương pháp bơm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 201
rửa kết hợp NaOCl, EDTA và siêu âm có tác
dụng loại bỏ mùn ngà hiệu quả nhất so với các
phương pháp khác (p≤0,05).
Hình 3: Hình ảnh SEM ở phần ba giữa một mẫu
nhóm 4.
Hình 4: Mùn ngà phủ kín tại phần ba chóp một mẫu
nhóm 1.
Bảng 1: Mức độ mùn ngà trung bình của các nhóm
tại 2 vị trí.
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
1/3 giữa 2 1,4 2,2 1 p≥0,05
1/3 chóp 2,8 1,8 2,8 1,8 p=0,02
Do đó, nhà lâm sàng có bằng chứng để áp
dụng phương pháp bơm rửa kết hợp NaOCl,
EDTA và siêu âm để đạt được hiệu quả làm sạch
tốt nhất. Lớp mùn được loại bỏ sẽ giúp loại bỏ
vi khuẩn và các sản phẫm vi khuẩn, tăng hiệu
quả khử khuẩn của bơm rửa và băng thuốc,
đồng thời khít kín khi trám bít. Từ đó mang lại
kết quả điều trị nội nha tốt nhất cho bệnh nhân.
Hiện nay, trong điều kiện thực hành nội nha tại
nước ta các nhà lâm sàng đã dần quen với các
loại chế phẩm EDTA, thường dùng dạng nhão
chủ yếu với tác dụng bôi trơn ống tủy. EDTA
dạng nhão cũng có hiệu quả làm giảm lớp mùn
ngà (theo Nguyễn Kim Ngọc (2005)(3)), nhưng
chưa thể loại bỏ hoàn toàn.
Tuy nhiên, ứng dụng siêu âm trong điều trị
nội nha còn chưa rộng rãi, chủ yếu sử dụng
trong những trường hợp loại bỏ vật liệu trám bít
trong điều trị nội nha lại. Đầu siêu âm dùng để
bơm rửa có phần tác dụng dạng tương tự như
trâm nội nha, có các kích cỡ khác nhau tùy theo
kích thước ống tủy, được sản xuất để bơm rửa,
không nên sử dụng để sửa soạn ống tủy, hay
điều trị lại vì sẽ làm gãy dụng cụ.
Trong thực tế lâm sàng, để làm sạch hiệu
quả vùng phần ba chóp còn phụ thuộc vào các
yếu tố khác chứ không chỉ là phương pháp bơm
rửa. Phần ba chóp cần được sửa soạn để có độ
thuôn và độ rộng thuận tiện cho việc bơm rửa.
Hơn nữa, phần ba chóp thường cong và có
những biến thể giải phẫu ống tủy phức tạp làm
cho việc làm sạch trở nên khó khăn, phức tạp.
Ngoài ra, nếu không sử dụng kim bơm rửa có
kích thước phù hợp và nếu kết hợp siêu âm
nhưng sử dụng trâm siêu âm không phù hợp thì
dung dịch bơm rửa cũng khó đến được phần
ống tủy phía chóp.
Ngược lại, nhà lâm sàng cũng cần lưu ý nếu
sửa soạn quá mức làm mất nút chận chóp và
bơm rửa với áp lực quá mạnh đẩy dung dịch
bơm rửa qua khỏi chóp ra quanh vùng chóp sẽ
dẫn đến hậu quả tai hại, làm sưng viêm vùng
quanh chóp từ mức độ trung bình đến trầm
trọng ảnh hưởng toàn thân.
Trong nghiên cứu này, các chân răng được
sửa soạn rất rộng, đưa được đầu kim bơm rửa
đến gần sát chóp, lượng dung dịch bơm rửa cho
mỗi ống tủy lớn nhưng khi quan sát dưới hiển
vi điện tử quét thấy còn rất nhiều mùn ngà (mức
độ mùn ngà tại phần ba chóp của các nhóm đều
lớn hơn 1). Như vậy trong điều kiện thực hành
lâm sàng, hẳn là còn khó làm sạch lớp mùn ngà
hơn nữa. Do đó, chúng tôi mong muốn các nhà
lâm sàng chú ý hơn nữa đến việc bơm rửa trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 202
điều trị nội nha. Ngoài ra, nghiên cứu này còn
nhiều hạn chế do cỡ mẫu nhỏ, thực hiện trong
phòng thí nghiệm.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy phương pháp bơm rửa
kết hợp NaOCl, EDTA và siêu âm có hiệu quả
loại bỏ lớp mùn tại phần ba chóp tốt hơn các
phương pháp không kết hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Guerisoli DMZ, Marchesan MA, Walmsley AD, Lumley PJ,
Pecora JD (2002). Evaluation of smear layer removal by EDTAC
and sodium hypochlorite with ultrasonic agitation. International
Endodontic Journal, 35: 418-421.
2. Nadalin MR, da Cruz Perez DE, et al (2009). Effectiveness of
Different Final Irrigation Protocols in Removing Debris in
Flattened Root Canals. Braz Dent J, 20(3): 211-214.
3. Nguyễn Kim Ngọc, Hoàng Tử Hùng (2006). Ảnh hưởng của hai
hình thức bơm rửa ống tủy đối với khả năng trám bít hệ thống
ống tủy. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học RHM 2006,
59-70.
4. Plotino G, Pameijer CH, Grande NM (2007). Ultrasonics in
endodontics: a review of the literature. J Endod, 33: 81-95.
5. Van der Sluis LWM, Versluis M, Wu MK, Wesselink PR (2007).
Passive ultrasonic irrigation of the root canal: a review of the
literature. International Endodontic Journal, 40: 415-426.
6. Violich DR, Chandler NP (2010). The smear layer in endodontics
– a review. International Endodontic Journal, 43: 2-15.