Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) ngày càng được sử dụng cho nhiều phẫu thuật lớn ở bụng,
phương pháp vô cảm, giảm đau cho nhóm bệnh nhân này chưa được nghiên cứu nhiều trên Thế Giới cũng
như tại Việt Nam.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của phương pháp gây mê phối hợp gây tê ngoài màng cứng và gây
mê toàn thân trong PTNS ở bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Từ 10/2008 đến tháng 2/2009 chúng tôi tiến hành thực hiện trên 144 bệnh
nhân PTNS lớn ở vùng bụng, nhóm I gồm 72 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng( NMC) phối hợp gây mê
toàn thân duy trì giảm đau NMC sau mổ, nhóm II gồm 72 bệnh nhân gây mê toàn thân duy trì giảm đau
mocphin.
Kết quả nghiên cứu: Nữ/ nam: 64/46, không có sự khác biệt giữ 2 nhóm về tuổi trung bình cân nặng,
ASA, thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật, lượng dịch truyền. Lượng fentanyl trung bình ở nhóm E thấp hơn
nhóm G(154 mcg so với 376mcg), thời gian làm thủ thuật TNMC là 12 phút, đau nhẹ đến trung bình khi làm
thủ thuật: 80. Lượng mocphin trung bình nhóm G dùng giảm đau 24 giờ đầu: 34mg, nhóm E dùng 4mg. VAS
khi nằm yên ở T1 nhóm E và G là( 3,33 và 5,00), T2 là( 2,50 và 4,00), T4( 1,17 và 3,17), VAS khi ho, vận động ở
T1 nhóm E và G (4,00 và 6,33).
Kết luận: Phối hợp gây tê NMC với gây mê toàn thân trong và sau mổ làm giảm nhu cầu fentanyl trong
mổ và nhu cầu sử dụng mocphin sau phẫu thuật nội soi lớn ở vùng bụng. Gây tê NMC đem lại chất lượng giảm
đau tốt hơn nhóm sử dụng mocphin trong PTNS vùng bụng.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứng phối hợp với gây mê nội khí quản trong phẫu thuật nội soi ổ bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 368
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP
VỚI GÂY MÊ NỘI KHÍ QUẢN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI Ổ BỤNG
Phan Tôn Ngọc Vũ*, Nguyễn Văn Chừng**, Trần Thiện Trung**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) ngày càng được sử dụng cho nhiều phẫu thuật lớn ở bụng,
phương pháp vô cảm, giảm đau cho nhóm bệnh nhân này chưa được nghiên cứu nhiều trên Thế Giới cũng
như tại Việt Nam.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của phương pháp gây mê phối hợp gây tê ngoài màng cứng và gây
mê toàn thân trong PTNS ở bụng.
Phương pháp nghiên cứu: Từ 10/2008 đến tháng 2/2009 chúng tôi tiến hành thực hiện trên 144 bệnh
nhân PTNS lớn ở vùng bụng, nhóm I gồm 72 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng( NMC) phối hợp gây mê
toàn thân duy trì giảm đau NMC sau mổ, nhóm II gồm 72 bệnh nhân gây mê toàn thân duy trì giảm đau
mocphin.
Kết quả nghiên cứu: Nữ/ nam: 64/46, không có sự khác biệt giữ 2 nhóm về tuổi trung bình cân nặng,
ASA, thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật, lượng dịch truyền. Lượng fentanyl trung bình ở nhóm E thấp hơn
nhóm G(154 mcg so với 376mcg), thời gian làm thủ thuật TNMC là 12 phút, đau nhẹ đến trung bình khi làm
thủ thuật: 80. Lượng mocphin trung bình nhóm G dùng giảm đau 24 giờ đầu: 34mg, nhóm E dùng 4mg. VAS
khi nằm yên ở T1 nhóm E và G là( 3,33 và 5,00), T2 là( 2,50 và 4,00), T4( 1,17 và 3,17), VAS khi ho, vận động ở
T1 nhóm E và G (4,00 và 6,33).
Kết luận: Phối hợp gây tê NMC với gây mê toàn thân trong và sau mổ làm giảm nhu cầu fentanyl trong
mổ và nhu cầu sử dụng mocphin sau phẫu thuật nội soi lớn ở vùng bụng. Gây tê NMC đem lại chất lượng giảm
đau tốt hơn nhóm sử dụng mocphin trong PTNS vùng bụng.
Từ khóa: phẫu thuật nội soi, gây mê toàn thân, gây tê ngoài màng cứng, phối hợp gây tê, gây mê, đau, đau
sau phẫu thuật nội soi.
ABSTRACT
ANALGESIC EFFICACY OF COMBINED EPIDURAL- GENERAL ANESTHESIA IN LAPAROSCOPIC
ABDOMINAL SURGERY
Phan Ton Ngoc Vu, Nguyen Van Chung, Tran Thien Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 368 - 373
Background: Laparoscopic surgery is used popularly in abdominal procedures but there is less study about
analgesic and anesthetic technique of this surgery in the world, especially in Viet Nam.
Objectives: Study analgesic efficacy of combined epidural anesthesia with general anesthesia for
laparoscopic surgery.
Methods: We performed analgesic and anesthetic management for 144 patients who passed laparoscopic
surgery from October 2008 to February 2009. All patients were divided into two group. In group 1, patients
received general anesthesia and epidural anesthesia to control intraoperative and postoperative pain (group E). In
group 2, patients received general anesthesia and infusion of Morphine to control postoperative pain (group G).
Results: There was insignificant different in age, ASA classification, anesthetic and surgical duration
* BV Đại học Y Dược TP.HCM, ** Đại học Y Dược TP.HCM
Địa chỉ liên hệ : ThS Phan Tôn Ngọc Vũ ĐT: 0908883458 Email: vuphan682003@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 369
between two group. Average consumption of Fentanyl in group E was less than group G (154mg vs 376mg).
Morphine requirement in 24 hours was 34mg vs 4mg (group G vs group E). VAS at rest between group E and
group G at assessed times was 3.33 vs 5.00, 2.50 vs 4.00 and 1.17 vs 3.17. VAS on movement was 4.00 in group
E vs 6.33 in group G.
Conclusions: Combined epidural–general anesthesia reduce intraoperative requirement of Fentanyl and
postoperative requirement of Morphine in laparoscopic surgery. Epidural anesthesia is more efficient than
infusion of Morphine to control postoperative pain after laparoscopic surgery.
Keywords: Laparoscopic surgery, epidural anesthesia, general anesthesia, combined epidural-general
anesthesia, pain after laparoscopic surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nội soi( PTNS) thực sự bắt đầu từ
thập niên 80 của thế kỹ trước. Do có nhiều ưu
điểm nên ngay khi ra đời nó đem lại những
thành công tốt đẹp và được coi là một bước
ngoặc trong ngành ngoại khoa(Error! Reference source not
found.) Ngày nay các phẫu thuật lớn trong ổ bụng
đều có thể thực hiện được dưới sự hổ trợ của nội
soi hoặc hoàn toàn phẫu thuật bằng nội soi như:
cắt gan, cắt dạ dày, cắt lách, cắt đại tràng
Phương pháp vô cảm cho PTNS lớn ở bụng
kinh điển vẫn là gây mê toàn thân, kiểm soát
đường thở bằng nội khí quản, dãn cơ tốt tạo
điều kiện bơm hơi ổ bụng, phẫu trường rộng
để phẫu thuật viên(PTV) phẫu tích(Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.). Tuy nhiên nhiều nghiên cứu về đau
sau PTNS lớn ở bụng đều cho kết quả: nhu cầu
về giảm đau sau PTNS là rất lớn và thật cần
thiết, đặt biệt là thời điểm 24 giờ đầu sau phẫu
thuật(Error! Reference source not found.). Perla Ekstein và
cộng sự (2005) thấy rằng đau nặng giai đoạn
sớm sau mổ( 0-4 giờ) PTNS và mổ mở cắt đại
tràng là 46% và 54%.
Xi Hong và cộng sự (2006) trong một nghiên
cứu so sánh về nhu cầu Mocphin sử dụng ở 24
giờ sau PTNS và mổ mở là tương đương
nhau(Error! Reference source not found.). Các tác giả đều nêu
lên sự cần thiết phải có chiến lược giảm đau tốt
sau PTNS.
Phối hợp gây tê ngoài màng cứng ( NMC)
đoạn ngực và gây mê toàn thân( GMTT) đã
được chứng minh có nhiều ưu điểm trong mổ
mở lớn ở vùng bụng: giảm liều thuốc mê,
mocphin, dãn cơ phải sử dụng trong mổ và
giảm đau sau mổ tốt vì vậy đem lại nhiều lợi ích
cho bệnh nhân và xã hội(Error! Reference source not found.).
Gần đây có nhiều nghiên cứu đã ứng dụng
phương pháp vô cảm này cho PTNS lớn vùng
bụng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.),
những kết quả mà nó đem lại làm cho PTNS
hoàn hảo hơn: bệnh nhân tỉnh mê sớm, hồi phục
sớm, ra viện sớm(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.).
Tại Việt Nam, PTNS lớn vùng bụng ngày
nay đã được thực hiện thường quy ở những
trung tâm lớn như: Trung tâm huấn luyện nội
soi Bệnh Viện (BV) Đại Học Y Dược Thành
Phố Hồ Chí Minh, BV Chợ Rẫy, BV Việt
ĐứcTuy nhiên chưa có nghiên cứu nào báo
cáo về phương pháp phối hợp gây tê NMC với
GMTT trong PTNS, với mong muốn nâng cao
chất lượng gây mê và kiểm soát đau tốt sau
PTNS chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
mục tiêu:
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê
NMC sử dụng thuốc tê và Fentanyl phối hợp với
gây mê toàn thân sử dụng thuốc mê hô hấp
trong PTNS lớn có bơm thán khí ở vùng bụng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang có nhóm
chứng. Chúng tôi tiến hành thực hiện trên 144
bệnh nhân PTNS lớn ở vùng bụng, chọn ngẫu
nhiên chia thành 2 nhóm, nhóm I gồm 72 bệnh
nhân được gây tê ngoài màng cứng(NMC) phối
hợp gây mê toàn thân duy trì giảm đau NMC
sau mổ( nhóm E), nhóm II gồm 72 bệnh nhân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 370
gây mê toàn thân duy trì giảm đau
mocphin(nhóm G). Ghi nhận những biến cố khi
làm thủ thuật tê ngoài màng cứng, thay đổi sinh
hiệu trong và sau khi phẫu thuật. Đánh giá đau
khi nằm yên và khi vận động vào các thời điểm
sau phẫu thuật, nhu cầu nhóm mocphin trong
và sau phẫu thuật ở 2 nhóm trong 24 giờ đầu
sau phẫu thuật. Thu thập và xử lý số liệu trên
phần mềm Stata/SE 10.0.
Loại ra khỏi nghiên cứu những trường hợp
chuyển mổ mỡ hoặc thất bại khi gây tê NMC
hoặc bệnh nhân phải thở máy sau mổ.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Chẩn đoán phẫu thuật
Chẩn đoán Nhóm E Nhóm G
K đại tràng chậu
hông
16 17
K đại tràng góc gan 4 3
K đại tràng góc lách 2 3
K đại tràng lên 6 8
K đại tràng ngang 3 3
K đại tràng xích-ma 2 2
K trực tràng 31 26
K manh tràng 4 4
Polype đại tràng 1 2
K đại tràng xuống 3 4
Tổng số 72 72
Bảng 2: Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp Số lượng Phần trăm(%)
Cắt đại tràng phải 23 15,97
Cắt đại tràng phải mở
rộng
19 13,19
Cắt đoạn đại tràng-trực
tràng
50 34,72
Cắt đại tràng chậu
hông
11 7,64
Cắt đại tràng trái 19 13,19
Cắt đoạn đại tràng
ngang
8 5,56
Phẫu thuật Miles 14 9,72
Tổng số 144 100
Bảng 3: Số Trocar
Trocars Phần trăm
1 12,5%
3 16,67%
4 66,67%
5 4,17%
Tổng 100%
PTNS cắt đại tràng là phẫu thuật chiếm tỉ lệ
nhiều nhất trong những PTNS lớn ở vùng
bụng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.),
mặc dù chủ yếu là sử dụng từ 3-4 trocar (5-10
mm) và trong nghiên cứu của chúng tôi độ dài
vết mổ lấy bệnh phẩm: 5,87 ± 0,43 cm, nhưng
đau trong PTNS được xem là đau nặng do diện
bóc tách lớn làm tăng tác động của phản ứng
viêm, đặc biệt là 24 giờ đầu sau phẫu thuật. Tai
biến của phẫu thuật như tổn thương niệu quản
và mạch máu không xãy ra trong nghiên cứu,
tỷ lệ mất máu trung bình: 94,79 ± 12,65 ml,
không có trường hợp nào cần truyền máu trong
mổ. Nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Bắc từ
11/2002-6/2007, kinh nghiệm PTNS đại tràng 104
trường hợp của 1 phẫu thuật viên cũng cho kết
quả tương tư(Error! Reference source not found.). Từ 2008,
PTNS một lổ vào (single incision) đã được thực
hiện tại BV ĐHYD cho nhiều kết quả khả quan,
tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm
12,5%, kết quả nghiên cứu về đau cho loại phẫu
thuật này cần có nghiên cứu riêng biệt hơn trong
tương lai.
Ảnh hưởng của PTNS có bơm hơi ổ bụng
Bảng 4: So sánh EtCO2 2 thời điểm: bơm CO2 và sau
bơm CO2 5 phút
Thời điểm ghi
nhận
Giá trị EtCO2(mmHg) P
Bơm hơi 31,08 ± 3,51 0,0013
Sau bơm 5phút 35,50 ± 5,23
Sự khác biệt EtCO2 2 thời điểm là có ý nghĩa
thống kê. Tuy nhiên mức tăng EtCO2 chỉ có 2
trường hợp lớn hơn 45 mmHg và ổn định sau
khi tăng thông khí phút và xét nghiệm khí máu
cũng cho thấy PaCO2 ở mức độ bình thường.
Theo Miler (2007) có 1 số nguyên nhân (bảng
5)(Error! Reference source not found.).
Bảng 5: Nguyên nhân tăng PaCO2 trong PTNS
Hấp thu CO2 từ khoang phúc mạc
Tỉ lệ Va/Q bất tương xứng: tăng khoảng chết
sinh lý
Bụng chướng căng
Tư thế bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 371
Giảm cung lượng tim
Cơ chế này được nhấn mạnh ở bệnh nhân có
bệnh lý km theo( bo phì, ASA II,III)
Tăng chuyển hóa (như: mức độ mê không
đủ)
Suy giảm hô hấp do thuốc mê (bệnh nhân tự
thở)
Những sự cố bất thường
Tràn khí CO2 ( dưới da, khoang cơ thể)
Tràn khí CO2 màng phổi
Tắt mạch do khí CO2
Mặc dù tăng PaCO2 ở người trẻ hoặc khỏe
mạnh ít bị ảnh hưởng , ưu thán ở mức nào được
chấp nhận thì chưa được xác định, có lẽ sự biến
đổi ty vo tình trạng sinh lý của bệnh nhn. Cch
tốt nhất l duy trì PaCO2 trong khoảng sinh lý với
điều chỉnh thông khí nhân tạo. Ngoại trừ tình
huống đặt biệt như tràn khí CO2 dưới da, sự
điều chỉnh PaCO2 có thể dễ dàng đạt được khi
tăng 15-25% thông khí phế nang.
So sánh sự thay đổi huyết động khi PTNS
ổ bụng giữa 2 nhóm
Tần suất xuất hiện biến cố về huyết động
như : mạch chậm, mạch nhanh, tăng huyết áp
là xuất hiện nhiều hơn ở nhóm G nhưng sự
thay đổi này không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ
hạ huyết áp ở nhóm E nhiều hơn ở nhóm G có
ý nghĩa thống kê ( p=0,05), tuy nhiên hạ huyết
áp ở mức nguy hiểm ( độ 3: < 30%) là không có
sự khác biệt giữa 2 nhóm, tổng liều ephedrine
dùng trong mổ cũng không có sự khác biệt. Hạ
huyết áp trong gây tê ngoài màng cứng là hay
gặp nhất là khi có phối hợp với gây mê(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.), khi dùng giảm đau ngoài
màng cứng phối hợp để giảm liều nhóm
mocphin sử dụng trong mổ có nhiều tác giả
chọn thời điểm tiêm liều đầu tiên trước khi
gây mê vì vậy tỷ lệ hạ huyết áp cao.Trong
nghiên cứu, chọn thời điểm tiêm liều đầu sau
khi gây mê, sau khi kiểm tra huyết động ổn
định và không có sự cố nào của gây mê toàn
thân như: sốc phản vệ, đường thở khó, vì
vậy tỉ lệ hạ huyết áp độ 3 cần dùng ephedrine
của chúng tôi là 15% so với 41%(Error! Reference source
not found.).
Bảng 6: So sánh nhu cầu sử dụng fentanyl giữa 2
nhóm
Nhóm Nhu cầu sử dụng
Fentanyl(mcg)
E 154,17 ± 54,18
G 375,83 ± 62,73
p <0,001
Gây mê cân bằng đòi hỏi 1 nhóm thuốc gây
ngủ, nhóm giảm đau và dãn cơ. Trong nghiên
cứu chúng tôi nhận thấy, vai trò của gây tê ngoài
màng cứng hoàn toàn có thể thay thế nhóm
mocphin giảm đau trong mổ, lượng fentanyl
dùng ở nhóm E chỉ dùng lúc khởi mê điều này
rất có lợi ở người già và ASA III(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.), giúp sớm tỉnh mê và
tránh những biến cố do dùng mocphin quá liều
được cộng dồn vào khi cho giảm đau sau mổ.
Điều này được chứng minh khi thời gian rút nội
khí quản(NKQ) sớm, bệnh nhân tỉnh sớm, định
hướng sớm, độ an thần thời điểm sau rút NKQ
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các thuốc
sử dụng trong mổ như thuốc mê bốc hơi, thuốc
dãn cơ có lượng sử dụng có giảm nhưng không
có ý nghĩa thống kê.
Theo Robert J (2003) gây tê NMC phối hợp
gây mê và giảm đau hậu phẩu làm giảm biến cố
tim mạch chu phẫu 30%, giảm nhiễm trùng phổi
40%, tắc mạch phổi 50%, suy thận cấp 30% so
với gây mê toàn thân và giảm đau truyền
thống(Error! Reference source not found.).
Chất lượng giảm đau hậu phẫu của 2
phương pháp
Bảng 7: So sánh điểm VAS giữa 2 nhóm vào thời
điểm T1( sau rút NKQ 1 giờ)
Nhóm VAS lúc nghỉ
E 3,33 ± 0,98
G 5,00 ± 1,34
P 0,002
VAS vận động
E 4,00 ± 1,20
G 6,33 ± 1,15
P 0,001
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 372
Nhu cầu mocphin, ketorolac đều giảm rõ rệt
ở nhóm G, lượng mocphin trung bình nhóm G
phải dùng là 34mg, ketorolac là 35 mg, riêng
paracetamol chúng tôi duy trì ở 2 nhóm là
ngang nhau. Bảng 7 cho thấy VAS ở nhóm E
thấp hơn có ý nghĩa thống kê, đặt biệt khi bệnh
nhân vận động VAS càng tăng lên ở nhóm G.
Các so sánh vào thời điểm sau T2, T4, cho kết
quả tương tự, cho đến thời điểm T12 thì VAS ở
nhóm G khi BN nằm có cải thiện nhưng khi vận
động thì không. Điều này rất quan trọng vì khi
bệnh nhân ho hoặc xoay trở bị đau họ sẽ không
vận động lặp lại vì vậy 1 số biến cố có thể xãy ra:
xệp phổi, tắc mạch, bệnh lý tim mạchLý giải
cho ưu điểm của phương pháp ngoài màng
cứng nhiều tác giả cho rằng nó đảm bảo được
tính liên tục của kiểm soát đau, giảm cảm nhận
đau, giảm các đáp ứng stress có thể xãy ra khi
giảm đau truyền thống không được cho đầy
đủ(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.).
Bàn về kỹ thuật và biến chứng khi gây tê
NMC
Một trong những trở ngại khi thực hiện gây
tê NMC đoạn ngực là: kỹ thuật khó hơn ở đoạn
thắt lưng. Trong nghiên cứu chúng tôi nhận
thấy tỉ lệ chọc 3 lần hoặc hơn chiếm 16%, chạm
máu 8%, thủng màng cứng 0%, thời gian thao
tác trung bình 12 phút, không có ghi nhận thất
bại khi chọc,điều này được chứng minh khi nhu
cầu fentanyl trong nhóm E giảm rõ rệt. Tuy vậy,
bệnh nhân vẫn cảm thấy đau khi chích chiếm
80% vì vậy khi làm thủ thuật nên an thần giảm
đau trước và gây tê tại chổ tốt. Một trong những
biến chứng đáng ngại nhất là tụ máu ngoài
màng cứng theo y văn khoảng 0,0006%, trong lô
nghiên cứu chúng tôi không có trường hợp nào,
nhưng tại bệnh viện ĐHYD vào cùng thời điểm
nghiên cứu có 1 trường hợp tụ máu NMC xãy ra
khi rút catheter, được phẫu thuật kịp thời. Như
vậy phải luôn nhớ đến biến chứng này để xử lý
theo đúng khuyến cáo. Các phiền nạn khác ở
hậu phẫu không xãy ra, yếu 1 chân ghi nhận
2%(Bromage =3), cải thiện khi giảm liều sau
2giờ.
So sánh biến chứng 2 nhóm trong 24 giờ
đầu sau mổ
Chúng tôi nhận thấy mạch, huyết áp trung
bình, nhịp thở vào các thời điểm rút NKQ, sau
rút 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ ở hai nhóm khác nhau
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên tính
không ổn định của dấu sinh hiệu này ở nhóm G
cũng phù hợp với điểm VAS vào các thời điểm
trên, VAS nhóm G cũng cao hơn, nó chỉ ổn định
ở thời điểm khi mà đau được điều trị tích cực ở
thời điểm sau 12 giờ và 24 giờ. Nhận định này
cũng phù hợp với các tác giả khi đánh giá đau
sau PT mổ mở và so sánh hiệu quả giảm đau
giữa 2 phương pháp gây tê NMC và dùng
mocphin để giảm đau sau mổ(Error! Reference source not
found.).
Các biến chứng khác: nôn, buồn nôn, khó
thở, run, co thắt, ho không thấy sự khác biệt
có ý nghĩa ở hai nhóm trong 24 giờ đầu.
KẾT LUẬN
Phối hợp gây tê NMC với gây mê toàn thân
trong và sau mổ làm giảm nhu cầu fentanyl
trong mổ và nhu cầu sử dụng mocphin sau
phẫu thuật nội soi lớn ở vùng bụng.
Gây tê NMC đem lại chất lượng giảm đau
tốt hơn nhóm sử dụng mocphin trong PTNS
vùng bụng với biến chứng ít hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexander J I(1997), “ Pain after laparoscopy”, Br J
Anaesth, 79: 369-378.
2. Arthur G.L. (2004) “Pain Assessment”. Pain management
for Primary care clinicians, U.S.A: ASPH: p 27-41
3. Bộ Y tế (2002) “Morphine”. Dược thư quốc gia Việt Nam.
Hà Nội:
tr 705-707
4. Cao Thị Anh Đào (2003) “Nghiên cứu giảm đau sau mổ
bụng trên bằng gây tê ngoài màng cứng ngực liên tục với
hỗn hợp Bupivacain – Morphine”. Luận văn thạc sĩ Y học,
Trường Đại học Y Hà Nội: tr 58-70
5. Công Quyết Thắng (2002) “Gây tê tủy sống – Tê ngoài
màng cứng”. Bài giảng gây mê hồi sức, Bộ môn Gây mê
hồi sức – Trường Đại học Y Hà Nội: Nhà xuất bản Y học: tr
44-83
6. Công Quyết Thắng (2002) “Gây tê tủy sống – Tê ngoài
màng cứng”. Bài giảng gây mê hồi sức, Bộ môn Gây mê
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 373
hồi sức – Trường Đại học Y Hà Nội: Nhà xuất bản Y học: tr
44-83
7. Jan Wind et al( 2006), “ Perioperative stragery in colonic
surgery; Laparoscopy and/or Fast track multimodal
management versus standard care(LAFA trial)”. BMC
surgery, 6: 6-16.
8. Luis Casati et al(2002), “ Isoflurane requirements during
combined general/epidural anesthesia for major
abdominal surgery”, Anesth Analg, 94: 1331-1337.
9. Macro Braga et al(2007), “ Open right colectomy is still
effective compared to laparoscopy”, Annals Surgery, 246(
6): 1010-1015.
10. Mad U et al ( 2007), “ The acute pain service: Present and
future role”, Anesthesia and critical care, 18: 135-139.
11. Marc Beaussier et al( 2007), “ Continous preperitoneal
infusion of ropivacaine provides effective analgesia and
accelerates recovery after colorectal surgery”,
Anesthesiology, 107(3): 369-371.
12. Miller et al ( 2007), “ Anesthesia for laparoscopic surgery”,
Miller’s Anesthesia, c 57.
13. Nguyễn Đình Hối ( 2006), “ PTNS ở BV Đại Học Y Dược
TP.HCM” Y học TP.HCM, phụ bản tập 10, số 4, tr. 1-4.
14. Nguyễn Hoàng Bắc (2007), “ Phẫu thuật nội soi cắt đại
tràng trong ung thư, kinh nghiệm một phẫu thuật viên” Y
học Thành phố HCM
15. Nguyễn Văn Chừng (2004) “Fentanyl”. Sử dụng lâm sàng
thuốc gây mê hồi sức. Nhà xuất bản Y học: tr 148-151
16. Nguyễn Văn Chừng( 2004), “ Đại cương về vô cảm”. Sách
gây mê hồi sức, Đại Học Y Dược TP.HCM, Nhà xuất bản Y
Học, tr. 20-32.
17. Nguyễn Văn Chừng( 2004), “ Gây mê hồi sức để mổ nội
soi ổ bụng”. Sách gây mê hồi sức, Đại Học Y Dược
TP.HCM, Nhà xuất bản Y Học, tr. 141-149.
18. Nguyễn Văn Chừng( 2004), “ Gây tê NMC”. Sách gây mê
hồi sức, Đại Học Y Dược TP.HCM, Nhà xuất bản Y Học, tr.
92-104.
19. Ono K et al ( 2005), “effects of postoperative continous
epidural analgesia after laparoscopy-assisted distal
gastrectomy”, Masui, 54(7): 772-775.
20. Perla E et al( 2006), “ Laparoscopic surgery may be
associated with sereve pain and high analgesia a
requirements in the immediate postoperativ