Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê liên tục cạnh cột sống trong phẫu thuật cắt một
phần phổi, thực hiện tạikhoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2/2014- 5/2014.
Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng.
Kết quả nghiên cứu: Qua 32 trường hợp (nhóm 1) tê liên tục cạnh cột sống để giảm đau so sánh với 33
trường hợp (nhóm 2) dùng thuốc giảm đau toàn thân sau mổ cắt một phần phổi chúng tôi nhận thấy hiệu quả
giảm đau nhóm 1 tốt hơn nhóm 2 (điểm VAS khi nghỉ và khi ho thấp hơn so với nhóm chứng). Kỹ thuật dễ thực
hiện, tỷ lệ thành công cao (97%), ít tai biến, biến chứng.
Kết luận: Tê liên tục cạnh cột sống là phương pháp giảm đau hiệu quả, đơn giản và an toàn cho bệnh nhân
sau mổ cắt một phần phổi.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả giảm đau của tê liên tục cạnh cột sống sau phẫu thuật cắt một phần phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 424
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA TÊ LIÊN TỤC CẠNH CỘT SỐNG
SAU PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN PHỔI
Bùi Công Đoàn*, Nguyễn Thị Thanh**, Nguyễn Hữu Lân***
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê liên tục cạnh cột sống trong phẫu thuật cắt một
phần phổi, thực hiện tạikhoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2/2014- 5/2014.
Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng.
Kết quả nghiên cứu: Qua 32 trường hợp (nhóm 1) tê liên tục cạnh cột sống để giảm đau so sánh với 33
trường hợp (nhóm 2) dùng thuốc giảm đau toàn thân sau mổ cắt một phần phổi chúng tôi nhận thấy hiệu quả
giảm đau nhóm 1 tốt hơn nhóm 2 (điểm VAS khi nghỉ và khi ho thấp hơn so với nhóm chứng). Kỹ thuật dễ thực
hiện, tỷ lệ thành công cao (97%), ít tai biến, biến chứng.
Kết luận: Tê liên tục cạnh cột sống là phương pháp giảm đau hiệu quả, đơn giản và an toàn cho bệnh nhân
sau mổ cắt một phần phổi.
Từ khóa: tê liên tục cạnh cột sống, phẫu thuật cắt một phần phổi, giảm đau.
ABSTRACT
CONTINUOUS PARAVERTEBRAL BLOCKADE FOR PART OF LUNG RESECTION
Bui Cong Doan, Nguyen Thi Thanh, Nguyen Huu Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 424 - 429
Objective: To evaluatethe analgesic efficacy of continuous paravertebral blockade for a part of lung resection
surgeryat Thoracic surgery department of Pham Ngoc Thach hospital from 2/2014 to 5/2014.
Methods: Randomized controlled trial.
Results: 32 cases (group 1) used continuous paravertebral blockade compared with 33 cases (group2) used
systemic analgesia for a part of lung resection surgery,we obtained: the analgesicefficacy in group 1 is much better
than those in group 2(VAS score at the rest and during coughingis lower than the control group). We found that
continuous paravertebral blockade technique was a simple method with high successful rate (97%), few
complications.
Conclusion: Continuous paravertebral blockade is easy, safe and efficient for pain management in patients
after a part of lung resection surgery.
Keywords: continuous paravertebral blockade, anesthesia, a part of lung resection
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật (PT) cắt một phần phổi gây sang
chấn mạnh, hậu quả là bệnh nhân (BN) đau
nghiêm trọng sau mổ. Đau gây nhiều rối loạn hô
hấp, tuần hoàn, ức chế miễn dịch, tăng đáp ứng
viêm cho người bệnh. Để giảm đau phải sử
dụng nhiều thuốc, trong đó có nhóm morphin.
Thuốc nhóm morphin có nhiều tác dụng phụ: ức
chế hô hấp, nôn, buồn nôn. Gây tê liên tục ngoài
màng cứng đoạn ngực là phương pháp giảm
đau thường sử dụng. Nhưng kỹ thuật khó thực
hiện, hay gặp tai biến, biến chứng, nhất là tụt
huyết áp. Khắc phục khó khăn này, nhiều tác giả
đã dùng kỹ thuật gây tê liên tục cạnh cột sống
đoạn ngực để thay thế. Gây tê cạnh cột sống
ngực (TCCSN) được thực hiện đầu trên thế giới
* BV Quân y 4 ** Bộ môn Gây mê- Hồi sức, ĐHYD TP HCM
*** BV Phạm Ngọc Thạch, TP HCM
Tác giả liên lạc: BsCK2 Bùi Công Đoàn ĐT: 0909927551 Email: buicongddoan@hotmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 425
bởi Hugo Sellheim năm 1905. Một thời gian dài,
TCCSN rơi vào quên lãng, nó được nhìn nhận lại
khi Eason và Wyatt thực hiện giảm đau sau PT
vùng ngực cùng với việc luồn catheter tiêm
thuốc tê liên tục vào năm 1979. Từ đó, có nhiều
công trình nghiên cứu về kỹ thuật này để giảm
đau sau PT. Khác với tê ngoài màng cứng,
TCCSN chỉ phong bế vận động, cảm giác, giao
cảm tại một bên ít gây tác dụng phụ, nhưng vẫn
đạt mục đích giảm đau tương đương, kỹ thuật
dễ làm, có tỷ lệ thành công cao hơn. Chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu này nhằm: đánh giá
hiệu quả giảm đau, đặc điểm kỹ thuật, độ an
toàn của phương pháp tê liên tục cạnh cột sống
giảm đau sau PT cắt một phần phổi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm
chứng.
Đối tượng nghiên cứu
65 BN có chỉ định PT cắt một phần phổi tại
bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 2/2014
đến tháng 5/2014 tham gia nghiên cứu chia
thành 2 nhóm:
- 32 BN nhóm 1: nhóm can thiệp, BN được tê
liên tục cạnh cột sống.
- 33 BN nhóm 2: nhóm đối chứng, không
thực hiện tê liên tục cạnh cột sống, dùng thuốc
giảm đau toàn thân.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: tất cả BN từ 18 tuổi
trở lên có chỉ định PT cắt một phần phổi, phân
loại ASA I- II, không bị rối loạn đông máu,
không có bệnh lý gan thận, không có chống chỉ
định gây tê cạnh cột sống, đồng ý tham gia vào
nghiên cứu. Loại khỏi nghiên cứu các trường
hợp: dị ứng hoặc có chống chỉ định với các thuốc
sử dụng trong nghiên cứu, dị tật cột sống, xảy ra
tai biến hoặc biến chứng không liên quan đến
gây mê, gây tê.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị dụng cụ
- Phương tiện, thuốc dùng trong gây mê hồi
sức, các phương tiện theo dõi.
- Thuốc tê: bupivacain 0,5% (Marcain) của
Astra Zeneca, nước muối sinh lý vô trùng,
lidocain 1% tê tại chỗ, lidocain 1% pha edrenalin
1/400000 làm liều test.
- Bộ kim gây tê Perifix của B-Braun gồm kim
Tuohy 17G, catheter 22G, fill lọc khuẩn, bơm
tiêm.
Chuẩn bị BN
- Khám BN trước mổ, đánh giá chung, phân
độ nguy cơ PT theo ASA.
- BN được giải thích, ký các cam kết cần thiết
nếu đồng thuận tham gia nghiên cứu.
Các bước thực hiện
Quy trình gây mê chung trên 2 nhóm BN
Ghi nhận M, HA khi BN vào phòng mổ, đặt
đường truyền tĩnh mạch, khởi mê với propofol
1% 2 mg/kg, sufentanil 0,3 µg/kg, rocuronium
0,6 mg/kg, đặt nội phế quản. Duy trì mê với
sevoflurane, sufentanil, rocuronium, cuối mổ BN
được truyền TM 1g paracetamol. Ống nội phế
quản được rút khi BN tỉnh mê. Sau mổ theo dõi
BN trên monitor. Đánh giá điểm đau bằng thang
điểm chia độ đau VAS vào các thời điểm: 1, 2, 4,
8, 16, 24 giờ sau mổ.
2 nhóm BN được cho thuốc giảm đau cơ sở
là 1gram paracetamol (Perfalgan) truyền TM
mỗi 8 giờ. Nếu còn đau lần lượt thuốc giảm đau
theo trình tự: ketorolac 30mg/lần tiêm TM, sau
30 phút còn đau, tiêm morphin TM
0.04mg/kg/lần cách 10 phút đến khi điểm đau
VAS ≤ 3.
Quy trình gây tê liên tục cạnh cột sống
Tiến hành trên nhóm 1 khi BN vào phòng
mổ, trước khởi mê.
- Tiền mê: 0,02 mg/kg midazolam và 50 mcg
fentanyl tiêm TM. Chuyển tư thế BN, xác định
mốc tê, sát trùng da, trải săng, tê tại chỗ vị trí
chọc kim Tuohy. Chọc kim Tuohy vuông góc
mặt da, đi kim chạm mỏm ngang đốt sống ngực,
xác định độ sâu da- mỏm ngang. Lùi, đổi hướng
kim xuống dưới, giữ kim trong bình diện trước
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 426
sau, lắp bơm tiêm chứa nước muối sinh lý, tác
động nhẹ trên piston, đi kim chậm. Khoảng 1cm
từ khoảng cách da– mỏm ngang thấy “sựt” nhẹ,
mất sức cản trên piston, lúc này đầu kim đã vào
khoang cạnh cột sống.Bơm hết qua kim lượng
nước muối sinh lý để mở rộng khoang, luồn
catheter qua kim Tuohy vào khoang cạnh cột
sống sâu 3 cm. Tiêm liều test thuốc tê, nếu không
bất thường tiêm liều bolus: 10 ml bupivacaine
0,5% qua catheter. Tiến hành khởi mê theo quy
trình chung. Truyền bupivacain 0,25% tốc độ
0,1ml/kg/giờ sau 30 phút kể từ lúc tiêm liều
bolus. Lưu theo dõi sau mổ tới khi rút catheter.
Thu thập và xử lý số liệu
Bảng 1: Đặc điểm chung BN của 2 nhóm BN
Biến số Nhóm 1 Nhóm 2 P
Tuổi* (năm) 50 ± 15 49 ± 15 0,8
Giới†
Nam 24 (75) 25 (76)
0,9
Nữ 8 (25) 8 (24)
Chiều cao* (cm) 163 ± 5 164 ± 6 0,7
Cân nặng* (kg) 54 ± 6 55 ± 7 0,7
ASA†
I 15 (47) 15 (45)
0,9
II 17 (53) 18 (55)
*: TB ± ĐLC; †: n (%)
Bảng 2: Đặc điểm PT.
Biến số Nhóm 1 Nhóm 2 P
Bên phổi PT* Phải 14 (44) 20 (61)
0,2
Trái 18 (56) 13 (39)
Loại PT phổi*
Cắt dưới một thùy 5 (16) 11 (33)
0,1
Cắt thùy 27 (84) 22 (67)
Thời gian PT † 130 ± 36 119 ± 30
0,2
(phút) 70- 205‡ 55- 195‡
*: %; †: TB±ĐLC; ‡: tối thiểu, tối đa.
24 giờ sau mổ, khi nghỉ BN nhóm 1 có mức
đau nhẹ: điểm VAS ≤ 2. BN nhóm 2 có mức đau
vừa: điểm VAS từ 3,0- 3,6, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê tại các thời điểm khảo sát
(p<0,05). BN nhóm 1 khi ho có mức điểm VAS
2,1- 3,1, BN nhóm 2 có điểm VAS 4,3- 4,8, sự
khác biệt ý nghĩa thống kê tại tất cả thời điểm
khảo sát (P<0,001).
Biểu đồ 1: điểm VAS khi nghỉ
Biểu đồ 2: Điểm VAS khi vận động
Bảng 3: Lượng sufentanil sử dụng trong mổ.
Sufentanil (mcg) Nhóm 1 Nhóm 2 p
TB ± ĐLC 22,8±7,2 26,8±6,0 0,2
Tối thiểu 10 15
Tối đa 40 40
Bảng 4: Tỷ lệ dùng morphin, lượng morphin, tỷ lệ
buồn nôn và nôn 24 giờ sau mổ.
Biến số Nhóm 1 Nhóm 2 P
BN cần dùng morphin* 3 (9) 19 (58) <0,05
Lượng morphin (mg) 14,3 18,5
Buồn nôn, nôn* 6 (19) 15(46) 0,02
*: n (%)
Bảng 5: Đặc điểm liên quan đến kỹ thuật
Biến số Min - Max TB ± ĐLC
Khoảng cách (cm)
Da- mỏm ngang 3,0- 4,0 3,4 ± 0,2
Da- khoang cạnh cột sống 3,8- 5,2 4,4 ± 0,3
Số khoang liên sườn phong bế 4-8 6 ± 1,2
Thời gian thực hiện kỹ thuật
(phút)
8- 24 12 ± 4
Lượng bupivacain (mg) 296-434 371±35
Bảng 6: Vị trí gây tê, số lần chọc kim, tai biến, biến
chứng.
Biến số n %
Vị trí gây tê:T5 20 63
T6 12 37
Số lần chọc kim:1 lần 27 84
2 lần 5 16
Kim chọc vào mạch máu 3 9,4
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 427
Biến số n %
Chọc kim vào màng phổi 1 3,1
Tụt huyết áp 5 15,6
Sự biến đổi mạch và huyết áp tại các thời
điểm theo dõi trong và sau mổ giữa 2 nhóm
BN khác nhau không đáng kể. Nhóm 1 có
15,6% tụt huyết áp lúc khởi mê, trong đó nhóm
2 là 18,2%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p= 0,8). Diễn biến về hô hấp: các thời điểm sau
mổ nhịp thở, độ bão hòa oxy mao mạch ở 2
nhóm không khác biệt, không trường hợp nào
suy hô hấp sau mổ.
BÀN LUẬN
Hai nhóm nghiên cứu có đặc điểm về tuổi,
giới, chiều cao, phân độ ASA cũng như các đặc
điểm phẫu thuật là tương đương.
Nhóm tê liên tục cạnh cột sống có điểm đau
VAS khi nghỉ thấp cho thấy giảm đau đạt hiệu
quả tốt hơn so với dùng thuốc giảm đau toàn
thân. Nhiều nghiên cứu cũng cho kết quả tương
tự. Garutti(4) thấy điểm VAS trong nhóm đặt
catheter cạnh cột sống qua da trước mổ trong 24
giờ là 2,1-2,4 tương đương với chúng tôi.
Sagiroglu(14) thấy tê liên tục cạnh cột sống tác
dụng giảm đau tương đương với tê liên tục
ngoài màng cứng: nhóm tê cạnh cột sống thời
điểm 2 giờ sau mổ điểm VAS là 4,6, các thời
điểm khác trong 24 giờ điểm VAS từ 1,7- 2,6.
Thời điểm 2 giờ điểm VAS cao hơn nghiên cứu
của chúng tôi có thể lý giải là do dùng liều nạp
và duy trì thuốc tê vào cuối cuộc mổ. Esme(2) đặt
catheter cạnh sống ở cuối cuộc mổ lồng ngực,
thời điểm 1 giờ sau mổ BN ở mức đau nhiều,
những giờ tiếp theo mới giảm dần tới mức đau
ít. Zeid và cộng sự(15) tê liên tục cạnh cột sống do
BN tự kiểm soát sau PT lồng ngực cho kết quả
điểm VAS từ 1,2- 1,9; tỷ lệ BN hài lòng với việc
kiểm soát đau đạt 86%. Nguyễn Thị Thanh(10)
tiến hành tê liên tục cạnh cột sống giảm đau đạt
hiệu quả với điểm VAS sau gây tê 1 giờ là 2,7,
sau 4 giờ là 2,2 với 28 BN sau mổ và chấn
thương ngực. So với các tác giả khác ở BN sử
dụng thuốc giảm đau toàn thân sau PT lồng
ngực chúng tôi thấy điểm VAS không khác biệt
nhiều: Esme(2) thấy BN sử dụng thuốc giảm đau
toàn thân điểm VAS 24 giờ sau mổ là 2,9-3,9;
Nguyễn Vân Giang(12) ghi nhận điểm VAS 24 giờ
sau mổ: 2,6-3,6 ở BN sử dụng PCA với morphin.
Điểm VAS khi ho thấp hơn ở nhóm tê liên
tục cạnh cột sống cho thấy tác dụng có lợi của
kỹ thuật, nhiều tác giả nhận xét tương tự
chúng tôi. Thời điểm 12 giờ sau mổ Fortier(3)
thấy nhóm tê liên tục cạnh cột sống với
ropivacain 0,2% tốc độ 2ml/h điểm VAS khi ho
là 3,6, nhóm dùng PCA là 5,2 sau PT phổi.
Garutti(4) nghiên cứu tê liên tục cạnh cột sống
với quy trình tương tự trên nhóm BN mổ phổi
ghi nhận điểm VAS khi ho ở các thời điểm sau
mổ từ 3,2- 4,4. Zeid(15) có kết quả tương đương
chúng tôi với điểm VAS khi ho ở BN tê liên tục
cạnh cột sống thời điểm 1, 6, 12, 18, 24 giờ sau
mổ phổi lần lượt là 2,5; 2,9, 2,9; 3,9; 3,1.
Fortier(3) không thấy khác biệt về lượng
sufentanil sử dụng ở nhóm có và không tê cạnh
cột sống trong PT lồng ngực. Cosmo(1) không
thấy sự chênh lệch về lượng fentanil sử dụng
trong mổ lồng ngực ở nhóm BN tê liên tục cạnh
cột sống trước mổ so với nhóm tê liên tục tại vết
mổ. Trong PT phổi, tê cạnh cột sống chỉ có tác
dụng ức chế cảm giác đau trên thành ngực,
không tác dụng với các kích thích do ống nội
phế quản và kích thích trên phổi. Do đó lượng
thuốc giảm đau sử dụng cũng không khác nhiều
so với chỉ gây mê toàn diện.
Số BN cần sử dụng morphin ở nhóm 2 cao
hơn so với nhóm 1: 58% so với 9%. Buồn nôn,
nôn là tác dụng phụ hay gặp ở BN sử dụng
thuốc giảm đau morphin. Chỉ có 19% buồn nôn,
nôn ở nhóm 1 trong đó nhóm 2 là 46%. Leaver(7)
gặp 5/14 trường hợp. nôn và buồn nôn khi tiến
hành tê liên tục cạnh cột sống. Nguyễn Vân
Giang(12) thấy tỷ lệ buồn nôn, nôn 73% ở BN mổ
lồng ngực khi sử dụng giảm đau với PCA-
morphin. Esme(2) nhận thấy tỷ lệ buồn nôn và
nôn sau mổ ở BN dùng thuốc giảm đau toàn
thân là 20% trong khi không gặp BN nào ở nhóm
tê cạnh cột sống. Như vậy, sử dụng nhóm
morphin để giảm đau kèm theo nhiều bất lợi. Tê
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 428
liên tục cạnh cột sống ngoài việc giảm đau tốt
hơn còn hạn chế việc cần sử dụng thuốc nhóm
morphin với nhiều tác dung phụ gây khó chịu
cho BN.
Vị trí gây tê và luồn catheter ở ngang mức
đốt sống ngực T5 và T6 tương ứng với vị trí rạch
da. Số lần chọc kim 1 lần vào mỏm ngang cột
sống chiếm đa số, không ca nào chọc kim lần thứ
3. Có 1 trường hợp không thành công (3,1%) khi
luồn catheter vào khoang màng phổi. Về khoảng
cách tới khoang cạnh cột sống của: Nguyễn
Trung Thành(11) ở T6 là: 4,1cm; Naja(10) ở T6 là:
4,5cm; chúng tôi ở mức T5 và T6 là 4,4 cm. Thời
gian thực hiện kỹ thuật từ chọc kim tới khi luồn
xong catheter của chúng tôi trung bình: 12,3
phút. Gulbahar(5) thực hiện đặt catheter trực tiếp
bởi PT viên trong mổ có thời gian ngắn hơn
chúng tôi khá nhiều là 4,2 phút.
Mức lan thuốc tê theo khoang liên sườn
phong bế chúng tôi ghi nhận dao động từ 4-8
khoang liên sườn. Karmakar(6) tiêm ở T7 - T8:
20 ml bupivacain 0,5%, truyền liên tục 0,25%- 8
ml/giờ phong bế cảm giác 8- 9 khoang liên
sườn. Nguyễn Hồng Thủy(9) tiêm 15-20 ml
lidocain 1% phối hợp fentanyl cho thủ thuật
can thiệp gan mật phong bế cảm giác từ 4- 7
khoang liên sườn.
Chúng tôi sử dụng liều nạp, liều duy trì
tương tự Luketich(8), tổng liều 24 giờ thấp hơn do
khác biệt trọng lượng BN. Bupivacain là thuốc tê
có độc tính trên tim mạch nên chọn liều phù hợp
đạt tác dụng, ít tai biến là cần thiết. Không BN
nào cần tăng liều thuốc tê, chứng tỏ liều thuốc
tương đối phù hợp. Không trường hợp nào biểu
hiện ngộ độc thuốc tê trên lâm sàng trong
nghiên cứu.
Một trường hợp chọc kim và luồn catheter
vào khoang màng phổi được phát hiện và xử trí
ngay. Richardson(13) bắt gặp tỉ lệ chạm mạch
3,8%; thủng màng phổi 1,1%; tràn khí màng phổi
0,5% trong 367 trường hợp tê cạnh cột sống. Tỷ
lệ BN trong nghiên cứu của chúng tôi bị tụt
huyết áp là tương đương: 15,6% ở nhóm 1và
18,2% ở nhóm 2. Leaver(7) thấy 2/14 trường hợp
tụt huyết áp khi tê liên tục cạnh cột sống. Diễn
biến mạch và huyết áp trong nghiên cứu giữa
hai nhóm có và không tê liên tục cạnh cột sống
khác biệt không đáng kể. Tác giả Cosmo(1) cũng
có kết luận tương tự và cho rằng tê liên tục cạnh
cột sống không ảnh hưởng nhiều trên tuần hoàn.
Zeid(15) gây tê liên tục cạnh cột sống không gặp
trường hợp nào bị suy hô hấp. Sagiroglu(14)
không thấy biến động chỉ số SpO2 sau mổ ở BN
tê liên tục cạnh cột sống.
KẾT LUẬN
Tê liên tục cạnh cột sống giảm đau hiệu quả
hơn dùng thuốc giảm đau toàn thân sau phẫu
thuật cắt một phần phổi:điểm đau VAS sau mổ
khi nghỉ và khi ho thấp hơn, số bệnh nhân cần
dùng morphin sau mổ thấp hơn, giảm tỷ lệ buồn
nôn, nôn sau mổ. Tê liên tục cạnh cột sống là kỹ
thuật dễ thực hiện với tỷ lệ thành công cao, an
toàn, ít tai biến, biến chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cosmo GD, et al (2012).“Postoperative Analgesia in Thoracic
Surgery: A Comparison between Continuous Paravertebral
Nerve Block and Continuous Incisional Infusion with OnQ Pain
Relief System”. J Anesth Clinic Res, S1-007, pp: 25-29.
2. Esme H, et al (2012). “Comparison between intermittent
intravenous analgesia and intermittent paravetebral supleural
for pain relief after thoracotomy”. Eu J Car- Thorac Surg, 41, pp:
10-13.
3. Fortier S, et al (2012). “Comparison between systemic analgesia,
continuous wound catheter analgesia and continuous thoracic
paravertebral block: a randomised, cotrolled trial of
postthoracotomy pain management”. Eu J Anaesth, 29(11), pp:
524-530.
4. Garutti I, Quintana B (1999). “Arterial oxygenation during one-
lung ventilation combined versus general anesthesia”.
AnaesthAnal, 88, pp:494-499.
5. Gulbahar G, et al (2010). “A comparison of epidural and
paravertebral catheterization techniques in post-thoracotomy
pain management”. Eu J Car-Thorac Surg , 37, pp: 467- 472.
6. Karmakar MK, Ho AM (2003).“Acute pain management of
patients with multiple fractured ribs”. J Trauma, 54(3), pp:615-25.
7. Leaver A, Yeomans M, Shelton A (2006). A randomized trial
comparing thoracic epidural with paravertebral blocks for
postoperative analgesia after pneumonectomy. http:
//www.postoppain.org/full References.aspx?pid=2.
8. Luketich JD, et al (2005). “Thoracic epidural versus intercostal
nerve catheter plus patient-controlled analgesia: a
randomizedstudy”. Ann Thorac Surg, 79, pp: 1845–50.
9. Nguyễn Hồng Thủy, Nguyễn Quốc Anh, Trần Đăng Luân
(2012). “Đánh giá tác dụng giảm đau của tê cạnh cột sống ngực
bằng hỗn hợp lidocain và fentanyl trên bệnh nhân can thiệp gan
mật”. Thông tin y học Việt Nam; tr: 13-17.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 429
10. Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Trung Thành, Huỳnh Vĩnh Phúc,
Lê Đình Trà Mân (2010). “Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê
cạnh cột sống trong giảm đau sau mổ lồng ngực và trong chấn
thương ngực gãy nhiều xương sườn”. Y học TPHCM, 13(6): 236-
240.
11. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thị Thanh (2011). “Giảm đau
bằng tê cạnh cột sống trong phẫu thuật ung thư vú”. Y học
TPHCM, 15(3): 51-56.
12. Nguyễn Vân Giang, Nguyễn Thụ (2012). “Hiệu quả vô cảm của
phương pháp gây tê ngoài màng cứng vùng ngực bằng
bupivacain 0,125% + fentanyl 2mcg/ml kết hợp với gây mê để
phẫu thuật lồng ngực ”. Y học thực hành, 835+ 836, tr: 168-172.
13. Richardson J, Lonnqvist PA (1998). “Thoracic paravertebral
block”. Br J Anaesth, 81, pp: 771-780.
14. Sagiroglu G, et al (2013). “The efficacy of thoracic epidural and
paravertebral blocks for post-thoracotomy pain
management”.Kardiochirurgia I Torakochirurgia Polska, 10 (2), pp:
139–148.
15. Zeid HA, et al (2012). “Comparison between intrathecal
morphine with paravertebral patient controlled analgesia using
bupivacaine for intraoperative and post-thoracotomy pain
relief”. Saudi J Anaesth, 6(3), pp: 201- 206.
Ngày nhận bài báo: 12/11/2014.
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2014.
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015.