Mục tiêu: Nghiên cứu về hiệu quả và sự an toàn của Hyaluronate sodium tiêm khớp trong điều trị thoái
hoá khớp gối, so sánh với nhóm chứng.
Phương pháp: Nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng, gồm 81 bệnh nhân chia thành hai nhóm, được chẩn
đoán thoái hoá khớp gối theo tiêu chuẩn ACR 1987và phân loại XQ theo Kellgren và Lawrence. Nhóm 1 gồm 50
BN được tiêm khớp 5 lần với Hyaluronate sodium; nhóm 2 gồm 30 BN, được sử dụng cùng chế độ điều trị với
KVKS và paracetamol. Thời gian theo dõi BN là 3 tháng, số liệu thu thập gồm các chỉ số Lequesne và WOMAC,
việc sử dụng thuốc và ghi nhận các biến cố không mong muốn. Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận sự liên quan
giữa độ nặng thông qua thang hiển thị VAS và phân độ XQ Kellgren & Lawrence với tuổi, giới và BMI.
Kết quả: Vào tuần thứ 8 và tuần 12, số BN có độ nặng VAS >6 cải thiện về triệu chứng đau và chức năng
khớp tốt hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa. Nhóm bệnh nặng VAS >9 cho thấy kết quả hạn chế nhưng vẫn
tốt hơn nhóm chứng thông qua việc giảm sử dụng KVKS và giảm đau. Phản ứng không mong muốn của nhóm
tiêm khớp HS ít hơn nhóm chứng. Tuổi tác có liên quan với độ nặng của bệnh nhưng mối liên quan giữa độ
nặng của bệnh với giới và BMI không có ý nghĩa trong nghiên cứu.
Kết luận: HS tiêm khớp chứng tỏ có hiệu quả cải thiện triệu chứng của BN thoái hoá khớp gối sau 3‐4 tuần
và kéo dài qua 12 tuần. Phương pháp điều trị này cho thấy có ích lợi cho BN từ mức độ trung bình đến nặng, đặc
biệt đối với BN có những bệnh lý cần hạn chế sử dụng KVKS.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả lâm sàng của Hyaluronate Sodium tiêm nội khớp trên bệnh nhân thoái hoá khớp gối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 32
HIỆU QUẢ LÂM SÀNG CỦA HYALURONATE SODIUM
TIÊM NỘI KHỚP TRÊN BN THOÁI HOÁ KHỚP GỐI
Thái Thị Hồng Ánh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu về hiệu quả và sự an toàn của Hyaluronate sodium tiêm khớp trong điều trị thoái
hoá khớp gối, so sánh với nhóm chứng.
Phương pháp: Nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng, gồm 81 bệnh nhân chia thành hai nhóm, được chẩn
đoán thoái hoá khớp gối theo tiêu chuẩn ACR 1987và phân loại XQ theo Kellgren và Lawrence. Nhóm 1 gồm 50
BN được tiêm khớp 5 lần với Hyaluronate sodium; nhóm 2 gồm 30 BN, được sử dụng cùng chế độ điều trị với
KVKS và paracetamol. Thời gian theo dõi BN là 3 tháng, số liệu thu thập gồm các chỉ số Lequesne và WOMAC,
việc sử dụng thuốc và ghi nhận các biến cố không mong muốn. Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận sự liên quan
giữa độ nặng thông qua thang hiển thị VAS và phân độ XQ Kellgren & Lawrence với tuổi, giới và BMI.
Kết quả: Vào tuần thứ 8 và tuần 12, số BN có độ nặng VAS >6 cải thiện về triệu chứng đau và chức năng
khớp tốt hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa. Nhóm bệnh nặng VAS >9 cho thấy kết quả hạn chế nhưng vẫn
tốt hơn nhóm chứng thông qua việc giảm sử dụng KVKS và giảm đau. Phản ứng không mong muốn của nhóm
tiêm khớp HS ít hơn nhóm chứng. Tuổi tác có liên quan với độ nặng của bệnh nhưng mối liên quan giữa độ
nặng của bệnh với giới và BMI không có ý nghĩa trong nghiên cứu.
Kết luận: HS tiêm khớp chứng tỏ có hiệu quả cải thiện triệu chứng của BN thoái hoá khớp gối sau 3‐4 tuần
và kéo dài qua 12 tuần. Phương pháp điều trị này cho thấy có ích lợi cho BN từ mức độ trung bình đến nặng, đặc
biệt đối với BN có những bệnh lý cần hạn chế sử dụng KVKS.
Từ khóa: trị thoái hoá khớp, Hyaluronate sodium, tiêm nội khớp, bổ sung chất nhờn, chỉ số WOMAC, chỉ
số Lequesne
ABSTRACT
EFFICICACY AND TOLERANCE OF INTRA‐ARTICULAR HYALURONATE SODIUM
FOR THE KNEE OSTEOARTHISTIS TREATMENT
Thai Thi Hong Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 31 ‐ 38
Objectives: The study was designed to compare against controlled group the efficacy and safety of
Hyaluronate sodium intra articular for treatment of knee OA.
Methods: A randomized, controlled study in 81 patients diagnosed Knee Osteoarthritis by ACR criteria
updating 1997, XR graded by Kellgren and Lawrence. The first group, included 50 patients, received five intra
articular injections of Hyaluronate sodium (Hyalgan), the other group, 30 patients, just received the same anti
pain management with NSAIDs and paracetamol. Time follow up was 3 months, Lequesne and WOMAC index
were used to assess efficacy. The consumption of medication and adverse events were recorded. The severity
through VAS records and radiological Kellgren & Lawrence grades were seen in relative with age, gender and
BMI, was a secondary outcome.
Results: At the 8th and 12th week visit, significantly more patients who were VAS>6 responded to HS
compared with the evident group. The severe VAS>9 patient group proved that the efficacy of HS decreased but
better than the compared group via the consumption of NSAIDs and anti‐pain medication. Adverse reactions in
the HS group were fewer than the evident group. Age related with the severity of the disease but no evidence
demonstrated the connection between gender and BMI and the severity of Knee OA.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 33
Conclusions: The results of the study offer evidence that intra articular injections of HS improve knee OA
symptoms after 3 to 4 weeks and last over 12 weeks. The management should be not only indicated for moderate
to severe state of the disease but also specially for patient who has ill condition that avoided NSAIDs
consumption.
Keywords: osteoarthritis, hyalurnan, hyaluronic acid, intra‐articular injection, viscosupplementation,
WOMAC index, Lequesne index
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hoá khớp, đặc biệt thoái hoá khớp gối
là một bệnh lý tương đối phổ biến trên thế giới,
lứa tuổi thường gặp khoảng trên 55 tuổi, nữ
nhiều hơn nam. Trong các nghiên cứu về thoái
khớp gối trên thế giới cũng như ở VN các số liệu
thống kê cũng cho thấy những ghi nhận tương
tự. Ngoài tuổi tác, giới tính, lối sống,(45) một số
công việc hoặc môn thể thao giải trí cần vận
động chi dưới nhiều, rủi ro chấn thương cao,
thói quen hay tư thế xấu cho khớp trong lao
động và sinh hoạt cũng là những yếu tố nguy cơ
cao gây ra thoái hoá khớp gối sớm(12,23).
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những BN được chẩn đoán “Thoái hoá
khớp gối” theo tiêu chuẩn của Hội Thấp Khớp
Học Hoa Kỳ (ACR) năm 1991 (Độ nhạy 91%, độ
chuyên 86%) đã cải biên(22) như sau:
Tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng
Đau khớp gối thường xuyên trong những
tháng gần đây.
Gai xương vùng rìa khớp trên Xquang.
Kết quả dịch khớp phù hợp với thoái hoá
khớp.
Tuổi ≥ 40.
Tiếng lạo xạo khi vận động khớp.
Cứng khớp buổi sáng ≤ 30 phút.
Chẩn đoán được thiết lập khi bệnh nhân
đồng thời có các tiêu chuẩn:
1 + 2.
1 + 3 + 5 + 6.
1 + 4 +5 + 6.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tiền sử xuất huyết tiêu hóa, đang điều trị các
bệnh lý viêm loét thực quản, dạ dày, đại tràng.
Bệnh lý gan‐mật: Xơ gan, tăng men gan,
Viêm gan siêu vi thể tấn công.
Bệnh lý thận: viêm cầu thận, suy thận mạn
(độ thanh thải creatinin thấp hơn 35 mm/phút).
Bệnh lý tim mạch: Tăng huyết áp không
kiểm soát, bệnh mạch vành, suy tim độ II trở lên,
tai biến mạch máu não mới chưa ổn định.
Rối loạn tiểu cầu (giảm tiểu cầu, dùng thuốc
chống đông các loại.
Tình trạng nhiễm trùng tại khớp và khu vực
lân cận, hay toàn thân, viêm bao hoạt dịch
nhiễm trùng, lao khớpDị dạng hay bất thường
khớp gối bẩm sinh hoặc mắc phải (chấn thương,
gãy xương, tổn thương sụn).
Bệnh lý ác tính hay nội khoa mãn tính nặng:
(ung thư, đái tháo đường không ổn định).
Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.
Tiền sử dị ứng thuốc hay thịt, trứng gia cầm.
Rối loạn hành vi nhận thức.
Phương pháp nghiên cứu
Là thử nghiệm lâm sàng tiến cứu, có đối
chứng.
BN được chia thành hai nhóm, ngẫu nhiên,
không phân biệt tuổi và giới tính.
Nhóm 1: can thiệp bằng liệu pháp bổ sung
chất nhờn.
Hyaluronate Sodium 250mg/2,5 ml tiêm vào
khớp gối bị thoái hóa 5 lần, mỗi lần cách nhau 7
ngày. Biệt dược được chọn lựa dùng trong
nghiên cứu là HYALGAN (công ty TRB, sản
xuất tại Italia).
KVKS liều dùng thông thường.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 34
Paracetamol 1500‐2000mg/ngày.
Sau 2 tuần (14 ngày) BN được yêu cầu
ngưng toàn bộ các thuốc kháng viêm và
Paracetamol nếu VAS ≤ 2 điểm.
Nhóm 2: Nhóm chứng.
KVKS liều dùng thông thường.
Paracetamol 1500‐2000mg/ngày.
Bệnh nhân được yêu cầu ngưng toàn bộ các
thuốc kháng viêm và Paracetamol nếu VAS ≤ 2
điểm.
BN được theo dõi và ghi nhận các dữ liệu
theo mẫu hồ sơ nghiên cứu bao gồm các số liệu
về xã hội học (tuổi, giới, nghề nghiệp), nhân trắc
học (chiều cao, cân nặng), đặc điểm lâm sàng, X
quang khớp gối tiêu chuẩn (thẳng, nghiêng), các
thang điểm đánh giá đau và chức năng khớp gối
(thang nói, chỉ số Lequesne, chỉ số WOMAC), và
ghi nhận các tác dụng không mong muốn bất kỳ
(có hay không xác định nguyên nhân) xảy ra
trong thời gian nghiên cứu.
Chúng tôi theo dõi và đánh giá BN mỗi tuần
trong 12 tuần. Các dữ liệu thu thập bao gồm các
thông số tổng quát như tuổi, giới, nghề nghiệp,
BMI (theo IOF dành cho châu Á‐Thái Bình
Dương), đặc điểm về Xquang (phân loại
Kellgren và Lawrence và cás thang đo lường
đau phổ biến như VAS, chỉ số Lequesne và
WOMAC.
Số liệu được nhập và xử lí bằng phần mềm
thống kê SPSS 18.0
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Hiện nay nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh
của bệnh thoái hoá khớp vẫn còn chưa sáng tỏ,
người ta chỉ mới ghi nhận được những biến đổi
về hình thái và về sinh học phân tử, sự hiện diện
của các cytokin và men thoái giáng các thành
phần của sụn, các tế bào viêm, tế bào miễn dịch
đã làm người ta thay đổi quan niệm về nguyên
nhân và bệnh học của thoái hoá khớp(1,20,23,25).
Bên cạnh đó, người ta còn thấy những mối
liên quan rõ rệt của bệnh với các yếu tố nguy cơ
như tuổi tác(39), di truyền, giói tính, chấn thương,
v.v...chưa lý giải được(6,3,4,19,27). Những yếu tố này
được y văn công nhận là yếu tố nguy cơ của
bệnh và được ghi nhận sự đồng thuận qua
nhiều nghiên cứu lớn tại các nước phát triển(33).
Vấn đề điều trị cũng còn nhiều hạn chế và
tranh cãi vì chưa có biện pháp điều trị nào có thể
giải quyết được đồng thời và toàn bộ các cơ chế
gây bệnh. Mục tiêu điều trị bao gồm nhiều biện
pháp phối hợp nhau và áp dụng tuỳ giai đoạn
và mức độ của bệnh(3,5,10). Phác đồ điều trị chung
gồm có:
Biện pháp không dùng thuốc (lối sống, tập
luyện, các dụng cụ hỗ trợ...)(10,39).
Biện pháp dùng thuốc: có rất nhiều các loại
thuốc (KVKS, giảm đau các bậc theo tổ chức y tế
thế giới, các loại điều trị bổ sung, hỗ trợ,) được
áp dụng tuỳ mức độ, tuỳ giai đoạn,(14,22,29,31) trong
đó liệu pháp “bổ sung chất nhờn” bằng
hyaluronate sodium nội khớp là một thủ thuật
xâm lấn mang tính tích cực và đạt được hiệu quả
tốt đã được chứng minh(5,9,11,13,15).
Biện pháp cuối cùng là can thiệp ngoại khoa,
chỉ áp dụng khi bệnh ở mức độ nặng, tiến triển
quá nhanh, điều trị nội khoa thất bại, có thể gây
ra hoặc đe doạ gây ra tàn phế cho bệnh nhân
bao gồm các can thiệp nội soi, phẫu thuật chỉnh
trục, thay khớp(31)...
Hyaluronat sodium là muối của acid
hyaluronic, một phân tử polysaccharid trong
dịch tự nhiên cơ thể người (dịch nhày ở các
màng, chất gây bảo vệ trẻ sơ sinh, khớp,..) riêng
đối với khớp, acid hyaluronic làm nhiệm vụ cố
định các phân tử, giảm sốc và bôi trơn, và là
trung gian cung cấp các chất nuôi dưỡng và là
thành phần quan trọng chủ yếu của hệ thống
khớp. các phân tử acid hyaluronic kết hợp với
nhau thành một chuỗi, dài ngắn khác nhau và có
các trọng lượng phân tử khác nhau. Tuỳ theo
trọng lượng phân tử mà độ nhớt của dịch sẽ
nhiều hay ít để phù hợp với chức năng của nó ở
vị trí đó. Đối với khớp, người ta cho rằng một
acid hyaluronic ngoại lai càng có trọng lượng
phân tử cao thì càng tồn tại lâu trong ổ khớp và
duy trì tác dụng của nó tại chỗ. Ngược lại cũng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 35
có các quan điểm cho rằng acid hyaluronic có
TLPT thấp sẽ dễ dàng thâm nhập và màng khớp
và kích thích tế bào màng hoạt dịch sản xuất
acid hyaluronic nội sinh. Điều này lý giải được
hiện tượng thời gian tác dụng của liệu pháp kéo
dài gấp nhiều lần thời gian bán huỷ của thuốc
(hiệu quả kéo dài trung bình 7‐15 tháng so với
thời gian tồn tại trung bình 4 ngày trong khớp).
Chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
hiệu quả lâm sàng của Hyaluronate sodium tiêm
vào ổ khớp trên bệnh nhân thoái hóa khớp gối”
với hai mục tiêu:
Đánh giá hiệu quả lâm sàng điều trị của
Hyaluronate sodium ở bệnh nhân thoái hóa
khớp gối và các tác dụng không mong muốn
của thuốc.
Khảo sát mối liên quan giữa mức độ nặng
của bệnh với hiệu quả điều trị, tuổi, giới và chỉ
số khối cơ thể (BMI).(19)
Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian từ tháng 5/2010 đến tháng
5/2011.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Chúng tôi đã tíên hành nghiên cứu trên 81
BN chia làm 2 nhóm, 50 BN nhóm 1 được can
thiệp bằng liệu pháp tiêm nội khớp
Hyaluronate sodium, nhóm 2 gồm 31 BN được
coi là nhóm chứng.
Hyaluronate Sodium 250mg/2,5 ml tiêm
vào khớp gối bị thoái hóa 5 lần, mỗi lần cách
nhau 7 ngày. Biệt dược được chọn lựa dùng
trong nghiên cứu là HYALGAN (công ty TRB,
sản xuất tại Italia), được cấp phép lưu hành tại
Việt Nam.
Cả hai nhóm đồng thời được sử dụng KVKS
và giảm đau như nhau sau đó giảm liều hoặc
ngưng khi chỉ còn đau rất nhẹ hoặc hết đau. BN
được theo dõi trong 12 tuần và ghi nhận các
thông số chung, tình trạng giảm đau và chức
năng khớp gối bệnh trước và sau khi can thiệp
thông qua các công cụ bán định lượng là các
thang điểm VAS, Lequesne dành cho khớp gối
và WOMAC dành cho chi dưới là những thang
đo lường về mức độ đau và chức năng khớp
thông dụng.
Ở nhóm 1, một số BN ngưng KVKS vào tuần
3, và đến tuần 4, tất cả bệnh nhân đều đã được
ngưng hoàn toàn. Nhóm 2 chỉ có 64% bệnh nhân
có thể cắt KVKS ở thời gian tương ứng và 26%
bệnh nhân nhóm này vẫn phải sử dụng KVKS
cùng với giảm đau ở thời điểm chấm dứt nghiên
cứu. Tương tự, thuốc giảm đau chỉ còn dùng ở
16% BN nhóm 1 vào cuối kỳ so với 55% bệnh
nhân thuộc nhóm chứng.
Biểu đồ 1: Kết quả điều trị theo thang Lequesne
phân nhóm VAS > 6
Biểu đồ 2: Kết quả điều trị theo thang WOMAC
Phân nhóm VAS >6
Hiệu quả này càng rõ hơn khi phân tích
riêng nhóm bệnh từ trung bình trở lên, với mức
độ Đau VAS > 6 điểm, tương ứng với độ nặng X
quang từ II‐III theo Kellgren và Lawrence.
Các số liệu thu thập cho thấy nhóm 1
(hyaluronat sodium tiêm nội khớp) có hiệu quả
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 36
tương đương với nhóm 2 trong giai đoạn 3‐4
tuần đầu, sau đó duy trì được hiệu quả trên cả
triệu chứng đau, chức năng và độ cứng khớp,
đặc biệt trên thang điểm chức năng khớp, trong
giai đoạn sau và tốt hơn có ý nghĩa so với nhóm
2 (chứng) trong tháng thứ 2 và tháng thứ 3 sau
can thiệp mà không cần sử dụng thuốc giảm
đau và KVKS như nhóm này. Điểm Lequesne ở
nhóm BN được can thiệp giảm được 9,42 điểm
so với 7,91 điểm của nhóm chứng. Điểm
WOMAC giảm lần lượt đối với 2 nhóm là 24,2
điểm và 22 điểm.
Điều đáng chú ý là điểm chức năng cho
thấy có sự cải thiện rõ nhất. Nhóm 1 có sự
khác biệt về cải thiện chức năng có ý nghĩa so
với nhóm chứng vào tuần 8 với p=0,02 và tuần
12 với p=0,005.
Biểu đồ 3:
Ở nhóm bệnh có mức độ rất nặng (VAS >9),
hiệu quả của liệu pháp có phần hạn chế hơn.
Mặc dù vậy, với mức giảm trung bình từ 64‐74%
các thang điểm Lequesne va WOMAC, việc chỉ
định Hyaluronat sodium tiêm nội khớp vẫn là
khuyến cáo nên áp dụng đối với thoái hoá khớp
gối từ mức trung bình trở lên.
Đối chiếu với kết quả ghi nhận từ thăm
khám của BS, dựa trên mức độ đau của BN và 2
chức năng vận động chính là gập và duỗi khớp
đã được số hoá, chúng tôi ghi nhận kết quả vẫn
tương tự giữa 2 nhóm, cải thiện rõ ở phân nhóm
VAS>6 có can thiệp và kém hơn ở phân nhóm
VAS>9.
Khi so sánh và đối chiếu với các nghiên cứu
khác(36,34,38), chúng tôi nhận thấy có những kết
quả tương đồng như sau:
Hiệu quả của Hyaluronate sodium tiêm nội
khớp thể hiện trên các thang điểm là có ý nghĩa.
Hiệu quả giảm đau và cải thiện chức năng
của Hyaluronate nội khớp chỉ thể hiện sau vài
tuần và duy trì lâu hơn nhóm giả dược. Tuy
nhiên việc ghi nhận thời gian bắt đầu tác dụng
của thuốc có khác nhau tuỳ theo nghiên cứu,
thông thường là sau mũi tiêm thứ 3.
Giảm sử dụng thuốc KVKS và giảm đau ở
nhóm can thiệp Hyaluronate nội khớp có ý
nghĩa so với nhóm chứng, bắt đầu từ tuần thứ 3.
Hiệu quả của Hyaluronate khác biệt so với
nhóm chứng rõ rệt ở điểm chức năng.
Những khác biệt của nghiên cứu chúng tôi
so với các nghiên cứu khác (36,34,38):
Dùng thang WOMAC làm thang điểm phân
tích chính, nhờ biên độ điểm rộng ta có thể phát
hiện sự khác biệt trong khi thang Lequesne có
thể bỏ sót.
Kết quả Lequesne chung so với nhóm chứng
không có có ý nghĩa. Nhưng đặc biệt ở phân
nhóm VAS > 6 lại có ý nghĩa thống kê ở tuần thứ
8 và tuần thứ 12. Điều này có ý nghĩa đối với
việc chỉ định liệu pháp cho nhóm bệnh nào thì
phù hợp. Liệu pháp Hyaluronate nội khớp
tương đối đắt tiền, căn cứ trên các kết quả
nghiên cứu ta nên chỉ định liệu pháp này cho Bn
có độ nặng từ trung bình trở lên.
Một điểm tích cực nữa của liệu pháp này là
tính dung nạp tốt, thuốc hầu như chỉ tác dụng
tại chỗ, không có biến đổi về mặt sinh học và
sinh lý các cơ quan khác. Chúng tôi ghi nhận có
16 lượt xuất hiện tác dụng không mong muốn ở
nhóm 1 so với 43 lượt ở nhóm chứng. Các phản
ứng không mong muốn xảy ra ở nhóm sử dụng
HS chủ yếu là cảm giác mệt mỏi (10%), tràn dịch
khớp vô trùng (6%) và đau nơi tiêm (4%). Trong
khi đó các phản ứng không mong muốn ở nhóm
2 đa phần là các tác dụng phụ của nhóm thuốc
KVKS – giảm đau như: triệu chứng dị ứng 38%,
rối loạn tiêu hoá 31%, phù 12%. Tràn dịch khớp
xuất hiện trong quá trình điều trị của nhóm 2
cũng nhiều hơn nhóm 1 (16%). Trong cả hai
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 37
nhóm không có trường hợp nào bị nhiễm trùng
khớp. Từ những ghi nhận trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi khuyến nghị nên chỉ định
liệu pháp bổ sung chất nhờn với Hyaluronate
sodium đối với BN thoái hoá khớp gối trong các
trường hợp cần hạn chế sử dụng KVKS và thuốc
giảm đau như có các bệnh đi kèm như tim
mạch, bệnh thận mạn, suy gan (không rối loạn
đông máu nặng), viêm loét đường tiêu hoá,
v.v
Khảo sát bước đầu về sự liên quan giữa mức
độ nặng của bệnh với những yếu tố nguy cơ trên
y văn nhứ tuổi, giới và BMI, kết quả cho thấy:
Có sự liên quan rõ về tuổi với độ nặng của
bệnh thông qua tổn thương thực thể ghi nhận
được trên Xquang với p=0,001.
Không có khác biệt có ý nghĩa về độ nặng
của bệnh liên quan về giới(42).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa về liên
quan giữa độ nặng của bệnh với BMI trong
nghiên cứu. Ghi nhận bệnh nhân đa số bệnh
nhân thoái hoá khớp bị thừa cân.
Tuy nhiên đây chỉ mới là những nhận xét về
các yếu tố dịch tễ dựa trên một nghiên cứu
tương đối nhỏ, chúng tôi thiết nghĩ cần thực
hiện trên một cỡ mẫu lớn đủ để có những kết
luận có giá trị hơn về các yếu tố nguy cơ này đối
với cộng đồng BN thoái hoá khớp, đặc biệt là
thoái hoá khớp gối tại VN(42).
KẾT LUẬN
Hiệu quả điều trị của Hyaluronate sodium
ở bệnh nhân thoái hóa khớp gối và các tác
dụng không mong muốn của thuốc
Hiệu quả giảm đau của chỉ số Lequesne của
2 nhóm tương đương nhau trong những tuần
đầu nhưng đến tuần thứ 12 hiệu quả nhóm 1
hơn nhóm 2 có ý nghĩa thống kê (p<0,05) mà
không cần sử dụng thuốc giảm đau và KVKS
như nhóm 2.
Hiệu quả giảm đau của hai nhóm theo chỉ số
Womac trong phân nhóm VAS > 6 ở tuần thứ 8
và tuần thứ 12 có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê, trong đó sự cải thiện chức năng rõ rêt nhất.
Tương tự sự đánh giá của BS về mức độ cải
thiện độ vận động của BN ở phân nhóm VAS >6
được can thiệp bằng HS tiêm nội khóp cũng tốt
hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng.
Các tác dụng không mong muốn ở nhóm 1 ít
hơn nhóm 2 cả về số bệnh nhân, số các triệu
chứng và mức độ. Tràn dịch khớp gối ghi nhận
3 trường hợp ở nhóm 1 so với 5 trường hợp ở
nhóm 2.