Đặt vấn đề: Viêm não-màng não do Cryptococcus neoformans là một trong những bệnh cơ hội chủ yếu trên
bệnh nhân HIV/AIDS. Do đó việc điều trị tùy thuộc phần nào vào khả năng miễn dịch của ký chủ. Đánh giá hiệu
quả sau 2 tuần tấn công Amphotericin B có thể cho phép suy diễn khả năng hồi phục hoặc tái phát trong giai đoạn
duy trì tiếp theo với fluconazole.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá khả năng đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng sau 2 tuần điều trị
amphotericine B trên bệnh nhân viêm não–màng não (VNMN) do C. neoformans tại BV Bệnh Nhiệt Đới TP.
HCM (BVBNĐ).
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Mô tả tiền cứu hàng loạt 47trường hợp VNMN do C.
neoformans điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới (BVBNĐ) từ 11/2008 đến 6/2009. Định danh vi nấm bằng
phương pháp nhuộm mực tàu. Mức độ nhiễm nấm được tính theo số khúm nấm trên canh cấy SDA. Thăm
khám, phỏng vấn trực tiếp và ghi nhận kết quả xét nghiệm từ hồ sơ bệnh án để thu thập các thông tin lâm sàng,
cận lâm sàng trước và sau điều trị theo bảng câu hỏi cấu trúc. Tần số, tỉ lệ, số trung bình được đo lường và phân
tích bằng kiểm định χ2, χ2McNemar và Wilcoxon.
Kết quả: Sau hai tuần điều trị Amphotericine B, các dấu hiệu kích thích màng não đều giảm (RR từ 8 – 28,
p < 0,05), các kết quả sinh hoá, tế bào trong dịch não tủy (DNT) cải thiện tốt nhưng chưa đạt ngưỡng bình
thường. Mật độ nấm giảm từ 27,6 x 103 xuống 1,2 x 103 CFU/ml DNT (p < 0,001), 46,8% mẫu vẫn dương tính
trên canh cấy, trong đó 2 chủng không phát triển trên SDA nhưng hồi phục trên BHI.
Kết luận: Phác đồ tấn công hai tuần amphotericin B đã chứng tỏ hiệu quả trên VNMN do Cryptococcus
neoformans trên cơ địa SGMD, nhưng khả năng tái phát cao (≥ 46,8%). Việc đánh giá sạch nấm nên được tiến
hành với cặn ly tâm của 10 – 20ml DNT trên cả canh cấy SDA và BHI.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả sau hai tuần điều trị Amphotericin B trên viêm não - màng mão do C. Neoformans tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới từ 11/08 đến 06/09, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 110
HIỆU QUẢ SAU HAI TUẦN ĐIỀU TRỊ AMPHOTERICIN B
TRÊN VIÊM NÃO - MÀNG MÃO DO C. NEOFORMANS
TẠI BV. BỆNH NHIỆT ĐỚI TỪ 11/08 ĐẾN 06/09
Nhữ Thị Hoa*, La Gia Hiếu*, Nguyễn Lê Hoàng Anh*, Trần Phủ Mạnh Siêu**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Viêm não-màng não do Cryptococcus neoformans là một trong những bệnh cơ hội chủ yếu trên
bệnh nhân HIV/AIDS. Do đó việc điều trị tùy thuộc phần nào vào khả năng miễn dịch của ký chủ. Đánh giá hiệu
quả sau 2 tuần tấn công Amphotericin B có thể cho phép suy diễn khả năng hồi phục hoặc tái phát trong giai đoạn
duy trì tiếp theo với fluconazole.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá khả năng đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng sau 2 tuần điều trị
amphotericine B trên bệnh nhân viêm não–màng não (VNMN) do C. neoformans tại BV Bệnh Nhiệt Đới TP.
HCM (BVBNĐ).
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Mô tả tiền cứu hàng loạt 47trường hợp VNMN do C.
neoformans điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới (BVBNĐ) từ 11/2008 đến 6/2009. Định danh vi nấm bằng
phương pháp nhuộm mực tàu. Mức độ nhiễm nấm được tính theo số khúm nấm trên canh cấy SDA. Thăm
khám, phỏng vấn trực tiếp và ghi nhận kết quả xét nghiệm từ hồ sơ bệnh án để thu thập các thông tin lâm sàng,
cận lâm sàng trước và sau điều trị theo bảng câu hỏi cấu trúc. Tần số, tỉ lệ, số trung bình được đo lường và phân
tích bằng kiểm định χ2, χ2 McNemar và Wilcoxon.
Kết quả: Sau hai tuần điều trị Amphotericine B, các dấu hiệu kích thích màng não đều giảm (RR từ 8 – 28,
p < 0,05), các kết quả sinh hoá, tế bào trong dịch não tủy (DNT) cải thiện tốt nhưng chưa đạt ngưỡng bình
thường. Mật độ nấm giảm từ 27,6 x 103 xuống 1,2 x 103 CFU/ml DNT (p < 0,001), 46,8% mẫu vẫn dương tính
trên canh cấy, trong đó 2 chủng không phát triển trên SDA nhưng hồi phục trên BHI.
Kết luận: Phác đồ tấn công hai tuần amphotericin B đã chứng tỏ hiệu quả trên VNMN do Cryptococcus
neoformans trên cơ địa SGMD, nhưng khả năng tái phát cao (≥ 46,8%). Việc đánh giá sạch nấm nên được tiến
hành với cặn ly tâm của 10 – 20ml DNT trên cả canh cấy SDA và BHI.
Từ khóa: C. neoformans, viêm não-màng não, amphotericine B.
ABSTRACT
EFFICACY OF TWO-WEEK THERAPY WITH AMPHOTERICINE B AGAINST MENINGO-
ENCAPHALITIS DUE TO CRYPTOCOCCUS NEOFORMANS IN PATIENTS ADMITTED TO
HOSPITAL OF TROPICAL DISEASES, HCM CITY FROM 11/2008 TO 06/2009
Nhu Thi Hoa, La Gia Hieu, Nguyen Le Hoang Anh, Tran Phu Manh Sieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 110 - 115
Introduction: Cryptococcal meningo-encephalitis is one of the main opportunistic infections among HIV
(+)/AIDS patients. Therefore, result of therapy depends on the host’s immune function. Chance of recovery or
recurrence during the successive maintenance treatment with fluconazole can be estimated via assessment of the
* BM Ký Sinh Trùng – Vi nấm học - Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Khoa xét nghiệm - Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP. HCM.
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nhữ Thị Hoa ĐT: 0903379566 Email: drnhuhoa@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 111
effectiveness of amphotericin B used in the two-week attack phase.
Objectives: To determine the efficacy of clinical and paraclinical improvement after two-week treatment
with amphotericin B among cryptococcal meningo-encephalitis patients admitted to Hospital of Tropical Diseases,
HCM city, from November 2008 to July 2009.
Method and subjects: A prospective case series of 47 cryptococcal meningo-encephalitis patients treated at
the Hospital of Tropical Diseases was conducted from November 2008 to June 2009. India ink preparation of
cerebrospinal fluid (CSF) is used to diagnose C. neoformans. Density of yeasts was determined by counting the
number of fungal colonies on Sabouraud dextrose agar (SDA). Clinical and para-clinical data were collected,
before and after treatment, by examination, face-to-face interview and from medical record. Frequencie,
proportions, and means were calculated and analyzed by χ2, McNemar, Mann-Whitney and Wilcoxon tests.
Results: After two weeks of amphotericine B, all meningeal signs subsided (RR= 8 – 28, p < 0.05),
biochemical and cytologic parameters in the CSF were improved but not yet return to the normal. Yeast density
decreased from 27.6 x 103 to 1.2 x 103 CFU/ml CSF (p<0.001); 46.8% of the samples remained positive on
culture, among them, 2 strains did not develop on SDA but recovered on BHI broth.
Conclusions and recommendations: Two-week attack with amphotericine B is effective against
cryptococcal meningo-encephalitis in patients with HIV (+)/ AIDS, but relapse can still occur (≥46.8%). Negative
culture should be confirmed by both SDA agar and BHI broth with sediment of 10 – 20ml of CSF.
Key words: C. neoformans, meningo-encephalitis, amphotericine B.
ĐẶT VẤN ĐỀ
C. neoformans là một trong những tác nhân
chủ yếu gây nhiễm trùng cơ hội trên người suy
giảm miễn dịch, đăc biệt trên cơ địa
HIV/AIDS(6,8,9). Vì thế, việc điều trị sẽ bị hạn chế
bởi khiếm khuyết hoạt động của hệ miễn dịch.
Ngoài ra, mật độ nhiễm nấm thường cao hơn
trên nhóm đối tượng này, dao động khoảng 105
– 107 CFU/ml DNT, trong khi biên độ dưới chỉ
khoảng 103 CFU/ml DNT đối với bệnh nhân có
miễn dịch bình thường(10).
Các hoạt chất kháng nấm được sử dụng chủ
yếu trong VNMN nấm gồm có amphotericin B,
flucytosine, fluconazole. Mặc dù flucytosine
thấm qua hàng rào máu não cao nhất, đạt 60 –
80% nồng độ trong huyết tương(1) nhưng do khả
năng tạo những dòng C. neoformans kháng thuốc
nên hiệu quả của hoạt chất 5-fluorocytosine đã
bị đẩy lùi(2,11). Đối với fluconazole, do tác dụng
kiềm nấm và nồng độ thấm vào DNT không cao
nên không phải là thuốc chủ lực trong điều trị
VNMN nấm. Một phác đồ có hiệu quả khi lâm
sàng được cải thiện, đồng thời phải tạo được sự
chuyển biến tối ưu về mặt vi nấm học để giảm
thiểu tối đa nguy cơ tái phát. Vì vậy, hiện nay,
phác đồ điều trị bao gồm giai đoạn tấn công kéo
dài ít nhất 2 tuần bằng amphotericin B (truyền
tĩnh mạch) phối hợp với flucytosine (uống) hoặc
fluconazole (uống) cho đến khi các triệu chứng
giảm rõ rệt và canh cấy DNT âm tính sẽ chuyển
qua giai đoạn củng cố bằng fluconazole hoặc
itraconazole (uống)(5,12). Tại Việt Nam, do nguồn
flucytosine không sẵn có nên điều trị ban đầu
chỉ là amphotericin B đơn thuần(3). Ngoài ra, việc
điều trị ARV và sử dụng kháng nấm dự phòng
chưa bao phủ hết các đối tượng HIV/AIDS ở
Việt Nam, dẫn đến khả năng mật độ nhiễm nấm
cao và hoạt động miễn dịch suy giảm nhiều. Với
lý do trên, liệu 2 tuần amphotericin B có đạt
hiệu quả khả quan để giảm bớt áp lực cho thời
gian duy trì sau đó hay không? Do đó, đánh giá
sau 2 tuần truyền tĩnh mạch amphotericin B
được tiến hành, nhằm góp phần chăm sóc bệnh
nhân HIV/AIDS.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả hàng loạt 47 bệnh nhân
VNMN do C. neoformans điều trị tại BVBNĐ Tp.
HCM được tiến hành từ 11/2008 đến 6/2009.
Thăm khám và phỏng vấn trực tiếp dựa trên
bảng câu hỏi cấu trúc để thu thập thông tin về
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 112
lâm sàng. Các kết quả sinh hoá, tế bào, áp lực
DNT được ghi nhận theo kết quả xét nghiệm
trong hồ sơ bệnh án. Mức độ nhiễm nấm được
đánh giá bằng cách đếm số khúm nấm trên canh
cấy SDA. Tần số, tỷ lệ, trung bình (trung bình
nhân = TBN) được đo lường và phân tích bằng
phép kiểm 2, McNemar (McNemar hiệu chỉnh =
McNemar hc), Mann-Whitney, Wilcoxon.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu.
Đặc điểm chung Tần số (%)
Suy giảm miễn dịch
(SGMD)
Có SGMD
Nhiễm HIV
Không nhiễm HIV
Không
42 (89,4)
39 (83,0)
3 (17,0)
5 (10,6)
Phát hiện nhiễm HIV
(n = 39)
Trước lúc nhập viện
Vào lúc nhập viện
19 (48,7)
20 (51,3)
Tiền căn nhiễm C.
neoformans
Có
Không
2 (4,3)
45 (95,7)
CD4 (n = 23)
<100/mm
3
100/mm
3
21 (91,3)
2 (8,7)
Điều trị ARV (n = 19)
Có
Không
2 (10,5)
17 (89,5)
Fluconazole dự
phòng (n = 19)
Có
Không
5 (26,3)
14 (73,7)
Mẫu theo dõi gồm 47 đối tượng, hầu hết bị
SGMD, trong đó 39 bệnh nhân nhiễm HIV với
19/39 trường hợp được phát hiện trước khi nhập
viện nhưng đa số không được điều trị ARV
cũng như không sử dụng kháng nấm dự phòng.
Trong 23 trường hợp có kết quả CD4, ghi nhận
được 21 mẫu dưới 100 tế bào/mm3 máu.
Bảng 2: Sự cải thiện về lâm sàng sau hai tuần điều
trị.
Sau θ p (McNemar hc)
RR(KTC 95%) Có Kg
T
rư
ớ
c
đ
iề
u
t
rị
Đau đầu
Có
Không
29
1
17
0
< 0,001
17 (2,7 – 710,5)
Buồn nôn, nôn
Có
Không
4
0
32
11
< 0,001
kxđ
Nhìn mờ
Có
Không
2
1
18
26
< 0,001
18 (2,8 – 750,0)
↓ trí nhớ
Sau θ p (McNemar hc)
RR(KTC 95%) Có Kg
Có
Không
0
0
2
45
0,5
Cổ gượng
Có
Không
11
1
28
7
< 0,001
28 (4,6 – 1144,9)
Nhìn đôi
Có
Không
1
1
8
37
< 0,04
8 (1,1 – 355,0)
Liệt vận động
Có
Không
1
0
2
44
0,5
TT TK sọ
Có
Không
2
0
1
44
1
* kxđ: không xác định
Sau điều trị, nhức đầu, nhìn mờ, cổ gượng,
nhìn đôi giảm so với trước điều trị lần lượt là 17,
18, 28 và 8 lần. Buồn nôn-nôn cũng giảm sau
điều trị (p < 0,001). Các dấu hiệu khác chưa
chuyển biến tốt.
Bảng 3: Sự thay đổi trị số Glasgow sau 2 tuần điều
trị.
Sau
p
McNemar hc
Sau
<15 15
tbn
(KTC 95%)
T
rư
ớ
c
< 15 0 5
0,22
13,8
(12,3 – 15,6) 15 1 41
tbn
(KTC95%)
15,0 (14,9-15,0) PWilcoxon = 0,09
Trị số Glasgow không khác biệt trước và sau
điều trị.
Bảng 4: Sự thay đổi sinh hóa, tế bào trong DNT sau
2 tuần điều trị.
Sau θ
PMcNe
mar hc
Sau θ
Có Kg Tbn (KTC 95%)
T
rư
ớ
c
Áp lực : Có
Không
26
5
12
4
0,14
Đạm Có
Không
24
4
12
7
0,08
0,7
(0,6 – 0,8)
TBN đạm
(ktc95%)
0,5 (0,4 – 0,6) pWilcoxon = 0,017
Đường Có
Không
30
3
9
5
0,15
1,5
(1,1 – 1,9)
TBN đường 1,9 (1,5 – 2,3) pWilcoxon = 0,009
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 113
Sau θ
PMcNe
mar hc
Sau θ
Có Kg Tbn (KTC 95%)
(KTC95%)
B. cầu Có
Không
24
8
8
7
1,0
19,9
(10,6–37,5)
TBN B. cầu
(KTC95%)
14,1 (8,7 – 22,9) pWilcoxon = 0,013
Lympho: Có
Không
4
6
3
2
0,5
61,1
(47,2–79,3)
TBN lympho
(KTC95%)
77,4 (66,0 – 90,8) pWilcoxon = 0,65
Ngoại trừ lympho bào và áp lực DNT, các
giá trị sinh hóa, tế bào khác đều cải thiện có ý
nghĩa thống kê nhưng chưa trở về giới hạn bình
thường.
Bảng 5: Sự thay đổi mật độ nấm (CFU/ml DNT) sau
2 tuần điều trị.
Mật độ nấm
(tbn, KTC 95%)
Kiểm định
Wilcoxon
Trước θ Sau θ
27,6 x 103
(13,1
–58,2) x 10
3
1,2 x 103
(1,1–1,4) x 10
3
P < 0,001
Mật độ vi nấm giảm đáng kể sau điều trị.
Bảng 6: Kết quả cấy SDA và BHI sau 2 tuần điều trị.
SDA
(+) (-)
BHI
(+) 20 2
(-) 0 25
Sau điều trị, số canh cấy (+) là 22/47 (46,8%),
trong đó 2 trường hợp (–) trên SDA nhưng (+)
trên BHI.
BÀN LUẬN
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Tổng số bệnh nhân được theo dõi trong 2
tuần điều trị amphotericin B là 47, chủ yếu là
cơ địa SGMD (89,4%) với nguyên nhân chính
là nhiễm HIV/AIDS (83%) (Bảng 1). Đặc điểm
này bị chi phối một phần bởi khả năng gây
bệnh cơ hội của C. neoformans, một phần do
mẫu chỉ được thu thập tại BVBNĐ nên chưa
thể bao phủ hết các trường hợp nhiễm C.
neoformans không AIDS.
Theo bảng 1, với 20/47 (51,3%) trường hợp
được chẩn đoán nhiễm HIV khi nhập viện, vai
trò chỉ điểm giai đoạn AIDS của C. neoformans
lại được khẳng định(6). Trong số 19 đối tượng
được phát hiện nhiễm HIV trước khi nhập viện
(≥ một tháng), 89,5% không điều trị ARV và
73,7% không dùng kháng nấm dự phòng, hai
yếu tố này đã tạo thuận lợi cho tình trạng nhiễm
Cryptococcus neoformans xuất hiện và phát triển.
Về mật độ CD4+, chỉ 23/47 cơ địa SGMD có kết
quả xét nghiệm này với 91,3% dưới 100 tế
bào/mm3 máu (bảng 1). Tuy chưa phản ánh
chính xác số lượng CD4+ cho toàn bộ mẫu nhưng
nhìn chung phù hợp với ngưỡng cho phép C.
neoformans xâm nhập và gây bệnh(7).
Tìm hiểu về tiền căn nhiễm nấm, 2 trường
hợp được ghi nhận đã nhiễm C. neoformans ở hệ
thần kinh trung ương trước đợt khảo sát này
(Bảng 1). Bệnh nhân đã được điều trị 2 tuần
amphotericin B và chuyển sang fluconazole duy
trì khi DNT âm tính trên canh cấy SDA. Khoảng
4 – 5 tháng sau, bệnh nhân tái nhập viện và
được đưa vào khảo sát. Như vậy, kết quả cấy
trên SDA lần trước có âm tính thật sự không hay
chỉ liên quan đến vấn đề kỹ thuật? Nói cách
khác đây là trường hợp tái nhiễm hay việc điều
trị chỉ làm suy yếu các tế bào nấm khiến chúng
không thể hồi phục trên môi trường cấy không
đủ dinh dưỡng? Hay do sử dụng lượng DNT ít
nên chưa đủ phát hiện vi nấm vốn đã giảm sau
trị liệu? Từ các vấn đề vừa nêu, cần khảo sát nôi
sinh thái của C. neoformans để có thể đưa ra các
khuyến cáo thích hợp nhằm phòng ngừa nhiễm
vi nấm cũng như cần quan tâm đến lượng DNT
xét nghiệm khi lý giải một canh cấy SDA âm
tính.
Diễn tiến lâm sàng sau 2 tuần điều trị
Các triệu chứng kích thích màng não như
đau đầu, buồn nôn-nôn, giảm thị lực, cổ gượng
đều cải thiện một cách có ý nghĩa thống kê (p <
0,001) (Bảng 2). Các dấu hiệu này là hệ quả của
tình trạng viêm nhiễm trong khoang dưới nhện,
làm tăng tiết DNT, dẫn đến tăng áp lực nội sọ.
Sau hai tuần điều trị, nếu đáp ứng tốt, mật độ
nấm giảm, tình trạng viêm nhiễm được cải
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 114
thiện, áp lực nội sọ cũng giảm phần nào so với
trước điều trị và tỷ lệ thuận với mức độ kích
thích màng não, do đó sự lui dần của các biểu
hiện là tất yếu.
Ngược lại, thời gian hai tuần chưa đủ tạo ra
sự chuyển biến tốt của giảm trí nhớ, liệt vận
động, tổn thương thần kinh sọ, rối loạn tri giác
(p > 0,05) (Bảng 2 và 3). Đây là nhóm triệu chứng
chỉ điểm tình trạng tổn thương nhu mô não, đòi
hỏi thời gian để phục hồi những tổ chức bị xâm
lấn, vì thế, thời gian 2 tuần có thể chưa đủ để các
biểu hiện tương ứng thể hiện sự thay đổi rõ rệt.
Một nghiên cứu qui mô hơn, theo dõi trong thời
gian dài hơn, sẽ giúp đánh giá chính xác sự hồi
phục của nhu mô não bị tổn thương.
Diễn tiến cận lâm sàng sau 2 tuần điều trị
Khi so sánh trung bình nhân nồng độ đạm,
đường và số lượng bạch cầu trong DNT, bảng 4
cho thấy sự hồi phục có ý nghĩa thống kê sau
hai tuần truyền tĩnh mạch amphotericin B so với
lúc nhập viện. Tuy nhiên sự thay đổi này chưa
tối ưu vì các thông số nêu trên chưa đạt ngưỡng
bình thường (thể hiện khi so sánh bằng test
McNemar, p > 0,05). Về áp lực DNT, 12 trường
hợp không còn tăng sau điều trị, gợi ý khuynh
hướng diễn tiến tốt tuy chưa có ý nghĩa thống
kê. Các kết quả này phù hợp với quá trình hồi
phục của VNMN: các thông số DNT trở về mức
bình thường chậm hơn so với sự cải thiện của
các biểu hiện lâm sàng. Như vậy, sự thay đổi
sinh hoá, tế bào trong DNT có thể là một trong
những tiêu chuẩn giúp theo dõi khả năng đáp
ứng của Cryptococcus neoformans đối với phác đồ
tấn công bằng 2 tuần amphotericine B truyền
tĩnh mạch.
Để đánh giá hiệu quả của hoạt chất kháng
nấm, bên cạnh tiêu chuẩn về cải thiện lâm sàng
và thông số DNT, tiêu chuẩn khỏi bệnh về mặt
vi nấm cũng được phân tích. Sự giảm mật độ
nấm là khởi đầu cho sự thay đổi các triệu chứng
cơ năng, thực thể cũng như sinh hóa, tế bào
trong DNT trên bệnh nhân VNMN do C.
neoformans. Sau điều trị, số lượng nấm trung
bình ở 47 bệnh nhân là 1,2 x 103 (1,1 x 103 – 1,4 x
103) CFU/mlDNT, giảm đáng kể so với 27,6 x 103
(13,1 x 103 – 58,2 x 103) trước điều trị (p < 0,001)
(Bảng 5). Kết quả này chứng tỏ hiệu quả của
amphotericin B đối với C. neoformans. Phác đồ
duy trì tiếp theo bằng các thuốc kiềm nấm sẽ
tiếp tục tiêu diệt mầm bệnh. Tuy nhiên, quá
trình kiềm nấm diễn ra chậm hơn quá trình diệt
nấm, tạo thời gian cho một số vi nấm còn sống
sót phát triển và tăng sinh, nhất là trên cơ địa
SGMD nặng. Hơn nữa, tại BVBNĐ, phác đồ
kháng nấm duy trì được thực hiện sau xuất viện,
vì thế khó kiểm soát mức độ tuân thủ của bệnh
nhân. Với các lý lẽ trên, nguy cơ tái phát không
phải là nhỏ trên đối tượng khiếm khuyết nặng
về miễn dịch. Thật vậy, bảng 6 mô tả 22/47
(46,8%) trường hợp dương tính trên canh cấy
khi kết thúc 2 tuần truyền tĩnh mạch
amphotericin B, trong đó, 2 mẫu âm tính trên
SDA nhưng lại dương tính trên BHI, một môi
trường rất giàu chất dinh dưỡng và “không có
khả năng tạo kháng thể chống lại vi nấm”, nói
cách khác, “một môi trường dường như không
mấy khác biệt so với môi trường bên trong cơ
thể suy giảm miễn dịch”, tạo thuận lợi cho các tế
bào nấm còn sống sót có cơ hội hồi phục dần và
tăng sinh trở lại. Hai trường hợp có tiền căn
nhiễm nấm C. neoformans được trình bày trong
phần bàn luận về đặc điểm chung của mẫu
nghiên cứu cũng rơi vào tình huống tương tự.
Một cách tổng quát, phác đồ 2 tuần
amphotericin B tỏ ra hiệu quả trong điều trị
VNMN C. neoformans trên cơ địa SGMD nhưng
do khả năng ngấm qua màng não tủy không tối
ưu nên một lượng tế bào nấm sẽ trốn thoát với
khả năng phục hồi cao và gây bệnh trở lại, tạo
áp lực không nhỏ cho giai đoạn duy trì bằng
fluconazole. Quần thể này dưới ngưỡng phát
hiện của các kỹ thuật xét nghiệm cơ bản về vi
nấm, nhất là khi chỉ xét nghiệm 1 – 2 ml DNT (4).
Vì thế, việc đánh giá hiệu quả kháng nấm nên
dựa trên kết quả cấy cặn ly tâm của một lượng
lớn DNT, thậm chí 10 – 20ml, trên môi trường
BHI. Kết quả âm tính trong điều kiện này sẽ rất
giá trị.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 115
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Phác đồ hai tuần amphotericin B tuy có hiệu
quả trong việc cải thiện các triệu chứng lâm
sàng, các thông số DNT và mật độ nấm nhưng
vẫn để lại một áp lực đáng kể cho giai đoạn duy
trì tiếp theo bằng fluconazole trên cơ địa SGMD.
Việc đánh giá sạch nấm nên được tiến hành với
cặn ly tâm của 10 – 20ml DNT trên cả canh cấy
SDA và BHI.
Chân thành cám ơn Ban Giám Đốc và các Bác sĩ,
các anh chị Cử nhân, Điều dưỡng khoa Xét nghiệm
Ký sinh-Vi nấm, Nhiễm E, Nghiên cứu Sốt rét đã hỗ
trợ tạo điều kiện cho nghiên cứu này được thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bennett J. E. (1977). Flucytosine. Ann. Intern. Med. 86:319 –
322.ISSN:0003-4819
2. Block E. R., Jennings A. E., and Bennett J. E. (1973). 5-
Fluorocytosine resistance in Cr. neoformans. Antimicrob. Agents
Chemother. 3:649 – 656.
3. Bộ Y Tế (2009). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS.
Ban hành kèm theo quyết định số 3003/QĐ-BYT ngày
19/08/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế
4. Casadevall A., and Perfect J. R. (1998). Cryptococcus neoformans.
ISBN 1-5581-107-8: 381- 421.
5. CDC (2009). Guidelines for prevention and treatment of
opportunistic infections in HIV-infected adults and aldolescents.
MMWR (Morbidity and Mortality Weekly Report); March 24,
early release; vol. 58, pp. 48 – 50.
6. Chuck S.L., and Sande M.A. (1989). Infections with Cryptococcus
neoformans in the acquired immunodeficiency syndrome. N.
Engl. J. Med., 321:794-799.
7. Crowe S. M., Carlin J. B., Stewart K. I., Lucas C. R., and Hoy J. F.
(1991). Predictive value of CD4 lymphocyte numbers for the
development of opportunistic infections and malignancies in
HIV-infected persons. J. Acquired Imm