Mục đích: Đánh giá tính khả thi và kết quả sớm của phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua nội soi có bảo tồn cơ thắt với kỹ thuật cắt gian cơ thắt, nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay qua đường hậu môn, cắt toàn bộ mạc treo trực tràng, bảo tồn thần kinh tự động vùng chậu cho ung thư trực tràng thấp. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 28 bệnh nhân ung thư trực tràng thấp 1/3 dưới khoảng từ ≤ 5cm cách rìa hậu môn, không có xâm lấn cơ thắt và cơ nâng hậu môn được thực hiện nối đại tràng ống hậu môn từ tháng 09/2009 tới tháng 03/2011 tại Bệnh viện Bình Dân TPHCM. Kết quả: Không có trường hợp nào tử vong phẫu thuật. Tất cả các trường hợp có bờ cắt an toàn. Các bệnh nhân đều cảm thấy ít đau sau mổ, trung tiện sớm. Tỉ lệ biến chứng sau sớm sau mổ: 5/28 trường hợp (17,9%), trong đó có 2 trường hợp rò miệng nối (7,1%), 1 trường hợp (3,6%) nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp (3,6%) thoát vị vết mổ và 1 trường hợp (3,6%) hẹp miệng nối sau 2 tháng. Về biến chứng muộn: có 4/28 trường hợp tái phát tại chỗ (14,3%), 1 trường hợp phát hiện di căn gan (3,6%) sau 2 năm. Về chức năng hậu môn trực tràng: có 26/28 bệnh nhân (92,9%) sau mổ đi cầu trên 3 lần / ngày trong tháng đầu. Sau 6 tháng tỉ lệ này giảm còn 57,1% (16/28). Kết luận: Phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua nội soi với miệng nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay qua đường hậu môn với kỹ thuật cắt gian cơ thắt khả thi, có kết quả tốt về ung thư học và bảo tồn được ống hậu môn cho ung thư trực tràng thấp nếu được lựa chọn đúng chỉ định. Phẫu thuật có ưu điểm là tránh được đường mở bụng để lấy bệnh phẩm, bệnh nhân ít đau sau mổ, phục hồi nhanh, ngoài ra còn thắt bảo tồn chức năng cơ thắt. Cần có thời gian theo dõi lâu dài và với số lượng bệnh nhân lớn hơn để đánh giá chính xác hơn về kết quả của phẫu thuật này.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả bước đầu phẫu thuật nội soi cắt trực tràng thấp với miệng nối đại tràng - hậu môn khâu tay qua đường hậu môn có bảo tồn cơ thắt trong ung thư trực tràng thấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 147
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TRỰC TRÀNG THẤP
VỚI MIỆNG NỐI ĐẠI TRÀNG – HẬU MÔN KHÂU TAY
QUA ĐƯỜNG HẬU MÔN CÓ BẢO TỒN CƠ THẮT
TRONG UNG THƯ TRỰC TRÀNG THẤP
Trần Thiện Hòa*, Đỗ Minh Hùng*, Nguyễn Hải Đăng*, Văn Tần*
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá tính khả thi và kết quả sớm của phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua nội soi có bảo
tồn cơ thắt với kỹ thuật cắt gian cơ thắt, nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay qua đường hậu môn, cắt toàn bộ
mạc treo trực tràng, bảo tồn thần kinh tự động vùng chậu cho ung thư trực tràng thấp.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 28 bệnh nhân ung thư trực tràng thấp 1/3 dưới khoảng từ ≤ 5cm
cách rìa hậu môn, không có xâm lấn cơ thắt và cơ nâng hậu môn được thực hiện nối đại tràng ống hậu môn từ
tháng 09/2009 tới tháng 03/2011 tại Bệnh viện Bình Dân TPHCM.
Kết quả: Không có trường hợp nào tử vong phẫu thuật. Tất cả các trường hợp có bờ cắt an toàn. Các bệnh
nhân đều cảm thấy ít đau sau mổ, trung tiện sớm. Tỉ lệ biến chứng sau sớm sau mổ: 5/28 trường hợp (17,9%),
trong đó có 2 trường hợp rò miệng nối (7,1%), 1 trường hợp (3,6%) nhiễm trùng vết mổ, 1 trường hợp (3,6%)
thoát vị vết mổ và 1 trường hợp (3,6%) hẹp miệng nối sau 2 tháng. Về biến chứng muộn: có 4/28 trường hợp tái
phát tại chỗ (14,3%), 1 trường hợp phát hiện di căn gan (3,6%) sau 2 năm. Về chức năng hậu môn trực tràng: có
26/28 bệnh nhân (92,9%) sau mổ đi cầu trên 3 lần / ngày trong tháng đầu. Sau 6 tháng tỉ lệ này giảm còn 57,1%
(16/28).
Kết luận: Phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua nội soi với miệng nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay
qua đường hậu môn với kỹ thuật cắt gian cơ thắt khả thi, có kết quả tốt về ung thư học và bảo tồn được ống hậu
môn cho ung thư trực tràng thấp nếu được lựa chọn đúng chỉ định. Phẫu thuật có ưu điểm là tránh được đường
mở bụng để lấy bệnh phẩm, bệnh nhân ít đau sau mổ, phục hồi nhanh, ngoài ra còn thắt bảo tồn chức năng cơ
thắt. Cần có thời gian theo dõi lâu dài và với số lượng bệnh nhân lớn hơn để đánh giá chính xác hơn về kết quả
của phẫu thuật này.
Từ khóa: nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay – phẫu thuật nội soi – ung thư trực tràng.
ABSTRACT
THE PRIMARY RESULTS OF LAPAROSCOPE - ASSISTED TRANSANAL INTERSPHINCTERIC
RESECTION WITH HANDSEWN COLOANAL ANASTOMOSIS FOR LOW RECTAL CANCER
Tran Thien Hoa, Do Minh Hung, Nguyen Hai Dang, Van Tan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 147 – 151
Objectives: To evaluate the applicability and early results of laparoscope - assisted anal sphincter –
preserving operation with transanal intersphincteric resection, handsewn coloanal anastomosis, total mesorectal
excision and preservation of the pelvic autonomic nerves for low rectal cancer.
Methods: Retrospective study. Between 09/2009 and 03/2011 at Binh Dan Hospital, we performed
* Bệnh viện Bình Dân – TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Trần Thiện Hoà, ĐT: 0903749415, Email: bsthienhoa@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 148
laparoscope - assisted transanal intersphincteric resection for 28 patients with low rectal cancer about 5cm from
anal verge, with no sphincter involvement.
Results: There was no surgical mortality. All of patients had safe margin. Patients felt less pain and had
early bowel movement. Early complications were 17.9% (5/28 cases) include: 2 patients had anastomotic leak
(7.1%), 1 patient had wound sepsis, 1 patient had incisional hernia and 1 patient had anastomotic stenosis 2
months later. Late complications: 4 cases (14.3%) had local relapse. There was 1 case with liver metastasis in 2
years follow-up (3.6%). In anorectal function: 26/28 patients (92.9%) defecated more than 3 times / day in 1
month follow-up. 6 months later, this rate decreased gradually to 57.1% (16/28).
Conclusion: Laparoscope - assisted transanal intersphincteric resection with handsewn coloanal anastomosis
for low rectal cancer is feasible and had showed the good results of oncology and preserves the anorectum if
patients had been selected correctly. It prevents an abdominal incision for specimen extraction, so that patients
have less pain, early recovery, otherwise it preserves sphincteric function. There will be a need for a larger scale
study with longer follow-up time to further evaluate this procedure.
Key words: handsewn coloanal anastomosis – Laparoscopic surgery – rectal cancer.
TỔNG QUAN
Phẫu thuật chuẩn điều trị ung thư trực tràng
1/3 giữa là cắt toàn bộ mạc treo trực tràng với
bảo tồn cơ thắt hậu môn và thần kinh tự động
vùng chậu. Tuy nhiên, bệnh nhân bị ung thư
trực tràng 1/3 dưới luôn phải chọn lựa giữa cơ
hội được chữa lành và nguy cơ suy giảm chất
lượng cuộc sống. Với những bệnh nhân này,
phẫu thuật cắt toàn bộ trực tràng qua ngả bụng
và tầng sinh môn (phẫu thuật Miles) đã được
chỉ định hơn 100 năm nay, và sự nặng nề của nó
đã gây ra nhiều rối loạn niệu – sinh dục. Hơn
nữa, nó đòi hỏi một đường mở bụng rộng và
đưa đến những biến chứng sau mổ nặng nề như
đau, nhiễm trùng vết mổ và tắc ruột non. Bệnh
nhân luôn bị ám ảnh phải mang hậu môn nhân
tạo suốt đời nên nhiều người đã từ chối phẫu
thuật.
Trong những năm gần đây, phương pháp
cắt gian cơ thắt qua ngả hậu môn đã được ra
đời và từng bước trở trành phương pháp điều
trị phẫu thuật tối ưu cho ung thư trực tràng
thấp, tránh được hậu môn nhân tạo suốt
đời(3,9). Phẫu thuật này ra đời dựa trên cơ sở
những hiểu biết về ung thư trực tràng: xâm
lấn xuống theo thành trực tràng thường
không vượt quá 1- 1,5cm, di căn ra xung
quanh vào trong mạc treo trực tràng; và
những hiểu biết về giải phẫu và chức năng cơ
thắt hậu môn: phần cao của cơ thắt trong
không đóng vai trò quan trọng trong cơ chế
tự chủ của hậu môn(3). Dù phẫu thuật nội soi
giúp làm giảm các biến chứng và đã được áp
dụng vào cắt trực tràng(2,4,6), tuy nhiên nó đòi
hỏi kỹ thuật phức tạp do phải thao tác trong
vùng khung chậu hẹp, đặc biệt là ở nam
giới(4).
Qua đó, chúng tôi nghĩ rằng một cuộc phẫu
thuật có hiệu quả cao và xâm lấn tối thiểu có thể
đạt được khi phối hợp 2 kỹ thuật cắt gian cơ thắt
qua ngả hậu môn và phẫu thuật nội soi. Mục
đính của nghiên cứu này là đánh giá tính khả thi
và hiệu quả của phẫu thuật cắt đoạn trực tràng
thấp qua nội soi với miệng nối đại tràng - ống
hậu môn khâu tay qua đường hậu môn, có bảo
tồn cơ thắt với kỹ thuật cắt gian cơ thắt.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Từ 09/2009 đến 03/2011, chúng tôi đã tiến
hành phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua
nội soi với miệng nối đại tràng - ống hậu môn
khâu tay qua đường hậu môn trên 28 bệnh nhân
bị ung thư trực tràng thấp tại bệnh viện Bình
Dân. Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá bao
gồm khám lâm sàng, nội soi sinh thiết, siêu âm
lòng trực tràng qua ngả hậu môn, CTScan hoặc
MRI vùng chậu trước mổ; tình trạng trong khi
mổ; khám lâm sàng và kết quả giải phẫu bệnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 149
sau mổ.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân phải thoả tất cả các điều kiện
sau :
- Được chẩn đoán xác định ung thư trực
tràng.
- Khối u cách rìa hậu môn ≤ 5cm.
- Khối u không có xâm lấn cơ thắt, cơ nâng
hậu môn.
- Loại trừ các trường hợp không nối được
đại tràng - ống hậu môn.
Phương pháp phẫu thuật
Qua ngả bụng và ngả hậu môn.
Ngả bụng được thực hiện qua nội soi. Bệnh
nhân nằm tư thế Trendenlenburg, dạng 2 chân.
Vào bụng bằng 4 trocars. Thắt bó mạch mạc treo
tràng dưới tận gốc. Cắt toàn bộ mạc treo trực
tràng và bảo tồn thần kinh hạ vị. Giải phóng đại
tràng sigma, đại tràng trái và di động toàn bộ
trực tràng đến sàng chậu mức thấp nhất có thể
được (qua cơ nâng hậu môn và thấy cơ thắt hậu
môn).
Ngả hậu môn: cắt gian cơ thắt trong toàn bộ
hay một phần, sau đó theo mặt phẳng này đi lên
cho đến khi gặp mặt phẳng phẫu tích ngả bụng.
Kéo trực tràng mang u qua ngả hậu môn, cắt
đoạn ruột mang u, mặt cắt cách khối u ít nhất 2
cm, nối đại tràng ống hậu môn tận – tận 2 lớp
bằng tay. Trong trường hợp u lớn hơn đường
kính ống hậu môn không thể lấy u qua ngả hậu
môn, mở đường mổ nhỏ lấy u qua ngả bụng.
Không mở hồi tràng ra da mà đặt dẫn lưu ra
tầng sinh môn trong tất cả các trường hợp.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân và tính chất u
Trong thời gian từ tháng 09/2009 đến tháng
03/2011, chúng tôi đã thực hiện được phẫu thuật
cắt đoạn trực tràng thấp qua nội soi với miệng
nối đại tràng - ống hậu môn khâu tay qua
đường hậu môn cho 28 bệnh nhân. trong đó có
15 nam (53,6%) và 13 nữ (46,4%), tuổi trung bình
là 56,39 ± 11,09 tuổi, thấp nhất là 37 tuổi, cao
nhất là 80 tuổi. Tất cả các trường hợp đều là u
trực tràng thấp 1/3 dưới. Giải phẫu bệnh: 100%
là carcinôm tuyến trực tràng.
T T1 T2 T3 T4
Số BN 0 6 17 5
Thông số cuộc mổ
Thời gian mổ trung bình là 226 ± 76 phút.
Không có trường hợp phải chuyển sang mổ
mở. Có 5 trường hợp không thể lấy u qua ngả
hậu môn do u quá to, phải mở đường mổ nhỏ
lấy u qua ngả bụng. Lượng máu mất không
đáng kể (không có bệnh nhân nào phải truyền
máu). Không có trường hợp nào tử vong phẫu
thuật. Kết quả xét nghiệm vi thể đường cắt
dưới u không có tế bào ung thư ở tất cả các
trường hợp. Các bệnh nhân đều cảm thấy ít
đau sau mổ, trung tiện có sớm, khoảng ngày
thứ 1 – 2 sau mổ. Thời gian nằm viện trung
bình là 16,68 ± 3,49 ngày.
Biến chứng sớm sau mổ
Số BN Tỷ lệ
Rò miệng nối 2 7,1%
Nhiễm trùng vết mổ 1 3,6%
Thoát vị vết mổ 1 3,6%
Hẹp miệng nối 1 3,6%
Về biến chứng muộn
Số BN Tỷ lệ
Tái phát tại chỗ 4 14,3%
Di căn xa 1 3,6%
Về chức năng hậu môn trực tràng
Số lần đi cầu / ngày 1 tháng 6 tháng
≤ 3 2 (7,1%) 12 (42,9%)
> 3 26 (92,9%) 16 (57,1%)
BÀN LUẬN
Về chỉ định phẫu thuật
Kết quả cho thấy tuổi trung bình của bệnh
nhân cao, phù hợp với dịch tễ học của ung thư
trực tràng, tuổi càng cao tỉ lệ mắc ung thư trực
tràng càng cao. Điều này dẫn đến nguy cơ phẫu
thuật cao vì bệnh nhân cao tuổi thường có các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 150
bệnh lý kèm theo như tim mạch, hô hấp và các
bệnh lý mạn tính khác. Qua đó càng thể hiện rõ
được ưu thế của kỹ thuật này (mổ nội soi) so với
mổ mở hay phẫu thuật Miles.
Yếu tố quan trọng để chỉ định phẫu thuật
bảo tồn cơ thắt là khoảng cách từ bờ dưới u đến
mép hậu môn là 2cm thì an toàn, các u cách bờ
hậu môn <2cm chúng tôi đã làm phẫu thuật
Miles. Yếu tố thứ hai là mức xâm lấn u >T3 sẽ
cần khoảng cách xa hơn 4-5cm nếu không sẽ tái
phát miệng nối sau mổ. Chúng tôi nhận thấy đa
số bệnh nhân đến điều trị ở giai đoạn muộn
(79% ở T3, T4), dẫn đến nguy cơ tái phát và tỉ lệ
sống còn của bệnh nhân giảm thấp. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Minh Hải(7), bệnh nhân ở giai
đoạn T3, T4 được hóa xạ trước mổ có thể làm
giảm giai đoạn ung thư và giúp tăng khả năng
thành công của phẫu thuật. Trong nghiên cứu
của chúng tôi không có trường hợp nào được
hóa xạ trị trước mổ do những hiểu biết về ung
thư và kỹ thuật hóa xạ trị trước mổ còn hạn chế.
Trong tương lai, chúng tôi hy vọng những tiến
bộ về ung thư học cũng như hóa xạ trị trước mổ
sẽ làm tăng hiệu quả của phẫu thuật này.
Bên cạnh đó, các u ở giai đoạn T4 thường
quá to dẫn đến nguy cơ phải mở đường mở
bụng nhỏ để lấy u do quá to không thể lấy qua
đường hậu môn được. Do đó làm mất đi những
ưu điểm của một cuộc phẫu thuật nội soi so với
mổ mở. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5
trường hợp u ở T4 phải lấy qua đường mở
bụng. Do đó chúng tôi không khuyến khích
thực hiện phẫu thuật này trên bệnh nhân có u
quá to hoặc ở giai đoạn T4.
Về kết quả sớm của phẫu thuật
Trước đây, điều trị ung thư trực tràng thấp
một phần ba dưới đồng nghĩa với phẫu thuật
Miles. Tuy nhiên, với sự tiến bộ về ung thư học,
sàng chậu học(3,9) cho phép thực hiện phẫu thuật
cắt đoạn đại trực tràng, bảo tồn cơ thắt mà vẫn
đảm bảo an toàn về mặt ung thư học ở những
bệnh nhân này nhằm 2 mục tiêu quan trọng:
khỏi bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống sau
mổ, mà chủ yếu là duy trì chức năng hậu môn
trực tràng. Nối đại tràng ống hậu môn thường
đi kèm tình trạng suy giảm chức năng hậu môn
trực tràng, tuy nhiên bệnh nhân vẫn dễ dàng
chấp nhận hơn là hậu môn nhân tạo vĩnh viễn.
Ưu điểm của phẫu thuật này là phối hợp thì giải
phóng trực tràng qua nội soi và cắt gian cơ thắt
qua ngả hậu môn, nhất là ở bệnh nhân có khung
chậu hẹp và dài. Cắt gian cơ thắt qua ngả hậu
môn cũng phải đảm bảo diện cắt cách u ít nhất
2cm(3,9,9). Trong 28 trường hợp của chúng tôi
không có trường hợp nào còn sót tế bào u thư.
Miệng nối khâu bằng tay cũng giúp làm giảm
chi phí. Phẫu thuật qua nội soi và kéo bệnh
phẩm qua ngả hậu môn nên bệnh nhân rất ít
đau, tránh được đường mở bụng, phục hồi
nhanh cũng là xu hướng hiện nay của phẫu
thuật qua ngả tự nhiên trên thế giới(6,8,11).
Qua một nghiên cứu đa trung tâm với 612
bệnh nhân (đa số mổ hở) cho thấy tỷ lệ tử vong
chung là 1,6%, rò miệng nối là 10,5%, hẹp miệng
nối 5,8%(10). Tại Việt Nam cũng đã có một số báo
về kỹ thuật này với kết quả thu được bước đầu
rất khả quan(2,5,7). Trong nghiên cứu của chúng
tôi không có bệnh nhân tử vong phẫu thuật, có
2/28 trường hợp (7,1%) rò miệng nối qua lỗ dẫn
lưu tầng sinh môn, 2 trường hợp này sau đó
được điều trị nội khoa, tự lành, không cần phải
mổ lại, 1 trường hợp (3,6%) nhiễm trùng vết mổ
được điều trị nội khoa ổn, 1 trường hợp (3,6%)
hẹp miệng nối 2 tháng sau phẫu thuật cần phải
nong hậu môn trong 4 tháng ở giai đoạn hóa trị
và 1 trường hợp (3,6%) thoát vị hồi tràng qua lỗ
trocart bên phải gây hoại tử hồi tràng ở ngày
thứ 8 hậu phẫu, bệnh nhân được mổ mở lại để
đóng lỗ thoát vị, cắt đoạn hồi tràng nối tận – tận.
Chúng tôi nhận thấy kết quả ban đầu chấp nhận
được, tuy nhiên cần phải có cỡ mẫu lớn hơn để
có thể đánh giá chính xác hơn.
Về kết quả ngắn hạn của phẫu thuật
Theo Tilney H.S và CS qua 21 nghiên cứu từ
13 trung tâm trên thế giới trên 612 bệnh nhân
cho thấy tỷ lệ tái phát tại chỗ là 9,5%, tỷ lệ sống
thêm 5 năm sau mổ là trên 81,5%(10) và một số
nghiên cứu khác(1,7,8,11) cho thấy hiệu quả tốt của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 151
phẫu thuật về mặt ung thư học. Kết quả ngắn
hạn của chúng tôi cho thấy có 4 trường hợp tái
phát tại chỗ, trong đó có 1 trường hợp được mổ
nối lại đại tràng - ống hậu môn thành công, 1
trường hợp phải làm phẫu thuật Miles, 1 trường
hợp di căn ổ bụng gây tắc ruột chỉ có thể làm
hậu môn nhân tạo vĩnh viễn và 1 trường hợp từ
chối phẫu thuật lại. Có 1 trường hợp phát hiện
di căn gan sau 2 năm. Trong quá trình theo dõi
chưa có bệnh nhân nào tử vong.
Về chức năng hậu môn trực tràng
Nối đại tràng ống hậu môn thường đi kèm
tình trạng suy giảm chức năng hậu môn trực
tràng, tuy nhiên bệnh nhân vẫn dễ dàng chấp
nhận hơn là hậu môn nhân tạo vĩnh viễn. Có
nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy
chức năng hậu môn suy giảm nhiều sau mổ và
hồi phục dần theo thời gian(5,7,8,11). Một số nghiên
cứu cho thấy nối đại tràng - ống hậu môn kiểu
túi J có thể cải thiện chức năng đi tiêu hơn kiểu
nối tận – tận thông thường(1,8,11). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, bệnh nhân sau mổ được tái
khám theo dõi mỗi tháng trong vòng 6 tháng
đầu. Do không có đầy đủ phương tiện như máy
đo áp lực hậu môn, chúng tôi chỉ có thể đánh
giá sơ lược về chức năng hậu môn qua số lần đi
cầu mỗi ngày và cảm giác hài lòng của bệnh
nhân qua hỏi bệnh. Kết quả cho thấy có 26/28
bệnh nhân (92,9%) sau mổ đi cầu trên 3 lần /
ngày trong tháng đầu và sau 6 tháng tỉ lệ này
giảm còn 57,1% (16/28). Đây là kết quả ban đầu
tạm chấp nhận được, tương tự kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Hoàng Bắc(5). Trong tương lai,
chúng tôi sẽ xem xét kỹ thuật J-pouch để cải
thiện chức năng hậu môn.
KẾT LUẬN
Qua những kết quả ban đầu, chúng tôi nhận
thấy phẫu thuật cắt đoạn trực tràng thấp qua nội
soi với miệng nối đại tràng - ống hậu môn khâu
tay là một phẫu thuật khả thi và cho kết quả tốt
về mặt chức năng hậu môn và ung thư học nếu
được chỉ định thích hợp. Đây là một lựa chọn
cho những trường hợp ung thư trực tràng thấp.
Cần tiếp tục nghiên cứu kết quả lâu dài về ung
thư học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bretagnol F, Rullier E, Couderc P, Rullier A and Saric J (2003).
Technical and oncological feasibility of laparoscopic total
mesorectal excision with pouch coloanal anastomosis for rectal
cancer. Colorectal Disease 5: 451 – 453.
2. Hoàng Mạnh An, Nguyễn Trọng Hòe (2005). Một số kết quả
phẫu thuật cắt trực tràng bảo tồn cơ thắt. Ngoại khoa số 4: 14 –
19.
3. Martel, Nguyễn Xuân Hùng, Gallot D (2003). Cắt trực tràng bảo
tồn – Đâu là giới hạn? Ngoại khoa – số 3: 1 – 8.
4. Morino M, Parini U, Giraudo G et al (2003). Laparoscopic total
mesorectal excision. A consecutive series of 100 patients. Ann
Surg 237: 335 – 342
5. Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Hữu Thịnh (2009). Kết quả bước
đầu phẫu thuật cắt gian cơ thắt điều trị ung thư trực tràng thấp.
Y Học TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1: 29 – 31.
6. Nguyễn Minh Hải, Lâm Việt Trung, Hồ Cao Vũ, Trần Phùng
Dũng Tiến, Trần Vũ Đức (2010). Phẫu thuật nội soi cắt đoạn đại
trực tràng lấy bệnh phẩm qua ngả tự nhiên. Ngoại khoa số đặt
biệt 4-5-6: 153 – 156.
7. Nguyễn Minh Hải, Võ Tấn Long, Lâm Việt Trung, Trần Vũ Đức
(2010). Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật cắt đoạn trực tràng
thấp qua nội soi với miệng nối đại tràng – hậu môn khâu tay qua
đường hậu môn có bảo tồn cơ thắt trong ung thư trực tràng
thấp. Ngoại khoa số đặt biệt 4-5-6: 119 -125.
8. Prete F, Prete F.P, De Luca R, Nitti P, Sammarco D, Preziosa G
(2007). Restorative proctectomy with colon pouch-anal
anastomosis by laparoscopic transanal pull-through: an avaiable
option for low rectal cancer? Epub 2006 Oct 23, Surg Endosc Jan;
21(1): 91 – 96.
9. Rullier E, Laurent C, Bretagnol F, Rullier A, Vendrely V and
Zerbib F (2005). Sphincter-saving resection for all rectal
carcinomas. The end of the 2-cm distal rule. Annals of Surgery
241 (3): 465 – 469.
10. Tilney H.S, Tekkis P.P (2007). Extending the horizons of
restorative rectal surgery: intersphincter resection for low rectal
cancer. Colorectal disease 10: 3 – 16.
11. Uchikoshi F, Nishida T, Ueshima S, Nakahara M, Matsuda H
(2006). Laparoscope-assisted anal sphincter-preserving operation
preceded by transanal procedure. Tech Coloproctol, Epub 2006
Mar 1510, discussion 9.(1): 5 – 9.