Mở đầu và mục tiêu: Rò bàng quang – âm đạo là tai biến thường gặp trong can thiệp sản phụ khoa, bệnh
ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Chúng tôi đánh giá tính hiệu quả và tính an toàn của
phương pháp điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu thuật nội soi qua ổ bụng.
Phương pháp: Chúng tôi tiến hành điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu thuật nôi soi qua ổ bụng cho
33 trường hợp tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2005 đến tháng 05/2010. Tuổi trung bình là 45± 11 tuổi, thời
gian mang bệnh trung bình là 31 ± 74 tháng, kích thước lỗ rò trung bình là 1,5 ± 0,6 cm.
Kết quả:Thời gian phẫu thuật trung bình là 204 ± 105 phút, 4 trường hợp phải truyền máu lúc mổ, lượng
máu mất trung bình là 182 ± 142 ml, thời gian hậu phẫu trung bình là 11 ±4 ngày. Tỷ lệ thành công là 87,9%.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi ổ bụng vá rò bàng quang âm đạo là phương pháp điều trị ít xâm hại, hiệu quả,
an toàn. Phương pháp này mang những ưu điểm của phẫu thuật nội soi vào điều trị dạng bệnh lý này. Phẫu
thuật sớm giúp xua đi nỗi đau về tâm lý và sớm chữa lành bệnh.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị rò bàng quang - âm đạo bằng phẫu thuật nội soi qua ổ bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 402
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ RÒ BÀNG QUANG - ÂM ĐẠO BẰNG PHẪU THUẬT
NỘI SOI QUA Ổ BỤNG
Trần Trọng Trí*, Châu Quí Thuận*, Nguyễn Vĩnh Bình**, Trần Ngọc Sinh**
TÓM TẮT
Mở đầu và mục tiêu: Rò bàng quang – âm đạo là tai biến thường gặp trong can thiệp sản phụ khoa, bệnh
ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Chúng tôi đánh giá tính hiệu quả và tính an toàn của
phương pháp điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu thuật nội soi qua ổ bụng.
Phương pháp: Chúng tôi tiến hành điều trị rò bàng quang âm đạo bằng phẫu thuật nôi soi qua ổ bụng cho
33 trường hợp tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 10/2005 đến tháng 05/2010. Tuổi trung bình là 45± 11 tuổi, thời
gian mang bệnh trung bình là 31 ± 74 tháng, kích thước lỗ rò trung bình là 1,5 ± 0,6 cm.
Kết quả:Thời gian phẫu thuật trung bình là 204 ± 105 phút, 4 trường hợp phải truyền máu lúc mổ, lượng
máu mất trung bình là 182 ± 142 ml, thời gian hậu phẫu trung bình là 11 ±4 ngày. Tỷ lệ thành công là 87,9%.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi ổ bụng vá rò bàng quang âm đạo là phương pháp điều trị ít xâm hại, hiệu quả,
an toàn. Phương pháp này mang những ưu điểm của phẫu thuật nội soi vào điều trị dạng bệnh lý này. Phẫu
thuật sớm giúp xua đi nỗi đau về tâm lý và sớm chữa lành bệnh.
Từ khóa: Rò bàng- quang âm đạo, tai biến phẫu thuật, nội soi ổ bụng khâu rò bàng quang âm đạo, can thiệp
sớm trong rò bàng quang âm đạo
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC VESICO-VAGINAL FISTULAR REPAIR
Tran Trong Tri, Chau Qui Thuan, Nguyen Vinh Binh, Tran Ngoc Sinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 402 - 408
Background and purpose: vesico-vaginal fistula (VVF) is a iatrogenic complication of and gyneco- obstetric
surgery. It impact on the physical and psychological life quality. The objective of this report is introduce the
eficacity treatment of VVF in using the laparoscopic repair
Patients and methods: We performed 33 cases of laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal
fistula repair at Cho Ray hospital between October 2005 and May 2010. The mean age is 45 ± 11, The time of
surgery is 31 ± 74 months, the mean size of vesicovaginal fistula is 1.5 ± 0,6 cm.
Results: The mean operative time is 204 ± 105 minutes, 4 cases had to have a blood transfusion, the mean
blood loss is 182 ± 142 ml, there is no postoperative complication, the mean postoperative hospital stay is 11 ±4
days. The successful rate is 87. 9%.
Conclusions: Laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair is minimum invasive
surgery, safe and efficient. Laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair has the
laparoscopic advantages. Repair of vesicovaginal fistulae should be as expeditious as possible to minimize the
patient's suffering.
Key words: vesicovaginal fistula, laparoscopic transabdominal transvesical vesicovaginal fistula repair
*Khoa Tiết niệu, bệnh viện Chợ Rẫy **Bộ môn Tiết Niệu Học, Khoa Y Đại học Y Dược
Tác giả liên lạc: BSCKII Trần Trọng Trí. Điện thoại: 0918 086 162 Email: trantrongtri70@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 403
MỞ ĐẦU
Rò bàng quang-âm đạo (rò BQ-ÂĐ) thường
do tai biến phẫu thuật (sau đây được gọi là rò
BQ-ÂĐ do phẫu thuật), ngoài ra còn có nguyên
nhân khác như do sanh khó, vết thương do tai
nạn, các bất thường bẩm sinh, vật lạ, bệnh lý ác
tính, xạ trị(13,4). Trong đó nguyên nhân thường
gặp nhất là do tai biến trong can thiệp sản phụ
khoa(2). Đây là một trong những biến chứng đáng
lo ngại nhất của phẫu thuật sản phụ khoa.
Rò BQ-ÂĐ gây ra những ảnh hưởng lớn về
tinh thần và sức khoẻ của người bệnh nói chung,
gây ra những ảnh hưởng tâm lý khó chịu làm
giảm chất lượng cuộc sống(1,8). Bệnh nhân (BN)
thường mang tâm lý nặng nề, mặc cảm do nước
tiểu rỉ liên tục ra quần và mùi hôi khó chịu.
Chính vì mặc cảm này mà nhiều BN đến với thầy
thuốc hàng chục năm sau khi khởi bệnh.
Bệnh thường phải can thiệp phẫu thuật vì
điều trị bảo tồn hiếm khi mang lại kết quả thành
công như mong đợi. Nhưng thành công phẫu
thuật không phải lúc nào cũng mỹ mãn. Ngoài
ra, theo cổ điển, phẫu thuật viên không can thiệp
khâu rò ngay, BN thường phải chờ đợi đến nhiều
tháng khi vết thương đã “ổn định” mới tiến hành
mổ khâu rò(3,8). Việc điều trị phẫu thuật rò BQ-ÂĐ
là một trong những thách thức qua nhiều thập
niên. Có nhiều phương pháp được đặt ra gồm mổ
mở kinh điển, phẫu thuật nội soi và ngày nay là
phẫu thuật nội soi dưới sự hỗ trợ của robot(7,8). Có
nhiều cách tiếp cận: qua ngã bụng, ngã âm đạo,
xuyên bàng quang, hoặc kết hợp, chọn lựa
phương pháp phẫu thuật nào tùy thuộc vào tay
nghề và kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, số trường hợp
tai biến này dường như có giảm đáng kể do
những tiến bộ đạt được trong chuyên ngành.
Nhưng cũng do phát triển chuyên ngành về
phẫu thuật nội soi mà có thêm dạng lâm sàng
mới là rò BQ-ÂĐ do phẫu thuật nội soi.
Giá trị của phẫu thuật khâu rò rất to lớn vì kết
quả thành công không những giúp BN chữa
lành bệnh mà còn xua đi mặc cảm tâm lý nặng
nề.
Cũng trong điều kiện phát triển của phẫu
thuật nội soi, với ưu thế ít xâm hại, không phải
mở lại vết mổ cũ, và cũng nhờ ưu điểm này
chúng tôi không phải phá vết mổ chưa ổn định
mà vẫn có thể can thiệp khâu lỗ rò bằng phẫu
thuật nội soi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 5 năm 2010,
tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi tiến hành phẫu
thuật nội soi ổ bụng vá rò BQ-ÂĐ ở các trường
hợp rò thể cao, rò không phức tạp. Chúng tôi có
33 BN với các đặc điểm trước mổ được liệt kê chi
tiết ở Bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm BN trước mổ
Tuổi trung bình 45 ± 11
Thời gian mang bệnh trung bình 31 ± 74 tháng
Mùi khai 33
Ra nước tiểu âm đạo 33
Triệu chứng nhiễm khuẩn 9
Thăm âm đạo phát hiện bất thường 25/30
Soi bàng quang phát hiện lỗ rò 33/33
Test xanh methylen dương tính 30/30
Soi âm đạo phát hiện lỗ rò 3
Siêu âm phát hiện lỗ rò 1/33
Giãn niệu quản và đài bể thận trên siêu
âm
1/33
Dãn niệu quản trên UIV 1/33
Thuốc cản quang vào âm đạo trên hình
ảnh chụp bàng quang có cản quang
1/1
Soi bàng quang phát hiện lỗ rò 33/33
Kích thước lỗ rò trung bình 1,5 ± 0,6 cm
Tất cả các BN nghiên cứu đều được khai thác
bệnh sử, tiền sử và khám lâm sàng đầy đủ trước
mổ. Chúng tôi thực hiện các test xanh methylene
và soi bàng quang để xác định rò, chẩn đoán
phân biệt, đánh giá vi trí và kích thước lỗ rò. BN
được giải thích rõ về bệnh lý và phương pháp
phẫu thuật kể cả khả năng thất bại sau mổ. Tất cả
các trường hợp đều được gây mê nội khí quản,
được theo rõi với máy gây mê có monitor theo
dõi. BN nằm tư thế sản phụ khoa hoặc nằm đầu
thấp 30o. Máy gây mê ở phía đầu BN. Phẫu thuật
viên đứng bên trái BN, người phụ đứng đối diện,
dụng cụ viên đứng cùng bên phẫu thuật viên
chính. Màn hình điều khiển (monitor) đặt ở phía,
dưới 2 chân BN.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 404
Đưa thông niệu quản ngược dòng lên đến
bể thận, thường chọn thông nòng niệu quản số
6-7 Fr, đặt lên cao 20 – 25cm, sau đặt kiểm tra
xem nước tiểu có ra tốt hay không, khi cần
thiết chúng tôi di chuyển nòng niệu quản sao
cho thông nòng hoạt động tốt. Thông niệu
quản được đặt trong suốt quá trình phẫu thuật
và tiếp tục lưu thêm 24 – 48 giờ sau mổ hoặc
lâu hơn tùy trường hợp.
Nội soi bàng quang đưa dây hướng dẫn qua
lỗ rò xuống âm đạo, qua đó từ âm đạo đặt thông
Foley 10Fr hoặc to hơn tùy kích thước lỗ rò vào
bàng quang, bơm bóng cố định Foley kéo xuống
âm đạo. Một số trường hợp đầu chúng tôi tự chế
một cuộn gạc tròn đặt trong bao cao su đưa vào
âm đạo chèn vào lỗ rò để tránh xẹp bàng quang.
Thường chúng tôi cần 3 hoặc 4 trocar tùy
trường hợp. Vào trocar 10mm đầu tiên ở rốn, 1
trocar 10 mm ở hố chậu phải – 1 trocar 5 mm bên
đối diện, vị trí đặt trung điểm của đường giữa
mào chậu và rốn. Nếu cần thiết đặt thêm 1 trocar
5m trên xương mu.
Thám sát ổ bụng, nếu có mạc nối bám vết mổ
chúng tôi cắt mạc nối dính. Đưa ruột lên phía
trên ổ bụng, tạo khoang trống vùng tiểu khung.
Treo bàng quang lên thành bụng. Bóc tách mặt
sau bàng quang và âm đạo. Mở phúc mạc túi
cùng bàng quang âm đạo.
Cắt mở bàng quang đi thẳng vào đường rò,
sau khi vào bàng quang nhìn rõ 2 miệng niệu
quản vì đã có 2 nòng niệu quản được đặt vào
bàng quang trước đó. Khi bóc tách vào đường rò
ta dễ dàng nhận thấy đường rò nhờ có thông
Foley đã được đặt trước đó. Tiến hành tách mặt
sau bàng quang và âm đạo thành hai lớp riêng
biệt. Cắt lọc mô xơ chai hoặc hoại tử nếu có.
Sau khi bóc tách 2 lớp âm đạo và bàng quang
rõ ràng, tiến hành khâu âm đạo và bàng quang 2
lớp riêng biệt bằng chỉ Vicryl 2.0, khâu mũi rời
hoặc mũi liên tục.
Đặt thông niệu đạo – bàng quang bằng
thông Foley 20 – 24 Fr, bơm rửa kiểm tra. Kiểm
tra lại ổ bụng, dẫn lưu cùng đồ Douglas, khâu
lại lỗ trocar.
Ghi nhận các thông số như thời gian mổ,
lượng máu mất, các tai biến và biến chứng có
thể xãy ra, tỷ lệ thành công được đánh giá 3
tháng sau mổ. Xử trí số liệu bằng phần mềm
Epi Info 3.5.1.
KẾT QUẢ
Thời gian mổ trung bình là 204 ± 105 phút,
Tất cả các trường hợp đều được thực hiện qua nội
soi ổ bụng, một trường hợp phải chuyển mổ mở
do dính. Có 3 trường hợp mất máu phải truyền
trong lúc mổ, chiếm tỷ lệ 12,1%, các tai biến khác
như thủng trực tràng, tổn thương niệu quản và
các cơ quan lân cận không ghi nhận trong các
trường hợp nghiên cứu. Tỷ lệ thành công là 29/33
trường hợp chiếm tỷ lệ 87,9%.
Bảng 2: Kết quả phẫu thuật vá rò bàng quang âm
đạo qua nội soi ổ bụng
Thời gian phẫu thuật trung bình 204 ± 105 phút
Lượng máu mất trung bình 182 ± 142 ml
Số ngày hậu phẫu trung bình 11 ± 4 ngày
Số ngày rút nòng niệu quản trung
bình
7 ± 5 ngày
Số ngày rút dẫn lưu cùng đồ Douglas
trung bình
5 ± 2 ngày
Số ngày rút thông niệu đạo trung bình 15 ± 6 ngày
Số trường hợp biến chứng 0
tỷ lệ thành công 87,9%
BÀN LUẬN
Về nguyên nhân sinh bệnh:
Nguyên nhân sinh bệnh của rò BQ-ÂĐ khác
nhau ở từng vùng trên thế giới. Ở các nước phát
triển, hơn 75% trường hợp rò BQ-ÂĐ là do tổn
thương bàng quang trong phẫu thuật sản phụ
khoa, phẫu thuật niệu khoa và phẫu thuật vùng
chậu. Tổn thương do phẫu thuật đối với đường
niệu dưới thường gặp nhất là sau cắt tử cung, ở
các nước phát triển nguyên nhân gây rò BQ-ÂĐ
còn do các bệnh lý ác tính, xạ trị vùng chậu, sang
chấn sản khoa.
Tỷ lệ tổn thương bàng quang trong quá trình
cắt tử cung ngã bụng là 0,5 đến 1%. Trong đó tỷ
lệ rò xuất hiện sau cắt tử cung là 0,1 – 0,2%. Rò
bàng quang âm đạo sau cắt tử cung thường do
vô tình cắt bàng quang gần mỏm cụt âm đạo.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 405
Nếu không nhận biết trong mổ, nang nước tiểu
vùng chậu sẽ hình thành và sẽ được dẫn lưu một
cách tự nhiên qua mỏm cụt và đường rò sẽ hình
thành.
Ở các nước đang phát triển, rò bàng quang–
âm đạo thường do cuộc chuyển dạ kéo dài do bất
xứng giữa đầu thai nhi và khung chậu. Thành
âm đạo, bàng quang, cổ bàng quang và đoạn
niệu đạo gần cổ bàng quang bị chèn ép bởi thai
nhi kéo dài gây thiếu máu nuôi và hoại tử.
Những nguyên nhân khác gây rò BQ-ÂĐ là
do dụng cụ niệu khoa hoặc sản phụ khoa, các
phẫu thuật sau phúc mạc, mạch máu hoặc phẫu
thuật vùng chậu, các bệnh nhiễm khuẩn hoặc
viêm, vật lạ, do bẩm sinh, sang chấn trong sinh
hoạt tình dục(13)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nguyên
nhân sinh bệnh chủ yếu là sau cắt tử cung, chiếm
24/33 TH (73%), đứng thứ nhì là do mổ lấy thai
chiếm 7/33 TH (21%), các nguyên nhân khác như
dị vật bàng quang chiếm số lượng nhỏ.
Bệnh viện Chợ Rẫy không có khoa sản phụ,
nguồn bệnh chủ yếu từ 2 bệnh viện sản khoa lớn
của khu vực miền Nam (bệnh viện Hùng Vương
và bệnh viện Từ Dũ) nên nguyên nhân do phẫu
thuật chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Trường hợp dị vật
là một BN nữ chưa có gia đình, 24 tuổi được bệnh
viện tỉnh phẫu thuật với chẩn đoán ban đầu là sỏi
bàng quang, chẩn đoán sau mổ là dị vật âm đạo
– bàng quang do BN thủ dâm. Dị vật là một
ống nhựa.
Có một dạng lâm sàng mới được chúng tôi
ghi nhận là sau phẫu thuật nội soi ổ bụng đễ cắt
tử cung gây biến chứng rò BQ - ÂĐ 4/33TH
(12,1%). Biến chứng này thường xảy ra ở những
trung tâm mớ bắt đầu triển khai phẫu thuật
nội soi.
Một số trường hợp chúng tôi ghi nhận có
những nơ chỉ khâu trong lòng bàng quang khi
soi bàng quang chúng tôi phát hiện. Có lẽ, ở lần
mổ trước trong khi khâu cầm máu phẫu phuật
viên đã khâu nhằm vào bàng quang mà không
biết. Chưa có trường hợp nào được ghi nhận sỏi
bám nơ chỉ khâu.
Thời điểm phẫu thuật
Thời điềm để phẫu thuật vá rò BQ-ÂĐ hiện
nay đang còn bàn cãi. Việc vá rò phải được tiến
hành sớm để xua đi những gánh nặng về mặc
tâm lý mà BN đang gánh chịu, đồng thời thời
điểm phẫu thuật phải được xem xét sao cho các
yếu tố phẫu thuật tốt, thuận lợi cho quá trình
lành sẹo góp phần cho phẫu thuật thành công.
Đa số quan điểm đồng tình nên phẫu thuật trì
hoãn 3- 6 tháng sau cuộc sinh khó để việc phân
định giữa mô lành và mô hoại tử rõ rệt, hiện
tượng phù nề và quá trình viêm ổn định. Đối với
các lỗ rò do xạ trị thời gian trì hoãn nên kéo dài 6
– 12 tháng.
Trong những thập niên gần đây, mặc dù
những giả thuyết trì hoãn được đưa ra, các đường
rò đơn giản có thể được phẫu thuật tạo hình sớm
ngay khi được chẩn đoán(3), điều này có ý nghĩa
rất lớn vì nó giải tỏa sớm tâm lý nặng nề của BN.
Tuy nhiên trong một vài trường hợp, thời điểm
phẫu thuật tốt nhất tùy vào từng BN cụ thể
(Blaivas và cộng sự, 1995). Raz và cộng sự (1993)
khuyến cáo rằng những lỗ rò không phức tạp sau
cắt tử cung ngã bụng có thể phẫu thuật ngay nếu
có khả năng phẫu thuật qua ngã âm đạo.
Trong một vài trường hợp sau cắt tử cung
ngã âm đạo cần phải chờ đợi 2 – 3 tháng mới
phẫu thuật. Ngược lại, nếu phải tạo hình qua ngã
bụng sau một cuộc phẫu thuật vùng bụng đặc
biệt khó khăn, nên chờ đợi một thời gian để hiện
tượng viêm ổn định. Nên khám âm đạo định kỳ
mỗi 1 – 2 tuần để kiểm tra mô âm đạo và có kế
hoạch phẫu thuật vào thời điểm thích hợp (Carr
và Webster, 1996).
Tiếp cận lỗ rò qua ngã âm đạo có thể được
tiến hành 2 – 3 tuần sau thương tổn ban đầu nếu
điều trị bảo tồn thất bại và BN có thể trạng tốt.
Mô âm đạo thường không bị biến đổi do lần
phẫu thuật trước, đặc biệt là những phẫu thuật
qua
ngã bụng.
Trong nghiên cứu này, có 12/33 trường hợp
(36,4%) được phẫu thuật sớm (< 1 tháng), nhìn
chung đa số BN (22/33 trường hợp chiếm 66,7%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 406
được phẫu thuật trước 3 tháng, trường hợp được
mổ sớm nhất là 10 ngày sau mổ. Các trường hợp
này đều thành công sau mổ, điều này một lần
nữa khẳng định quan niệm những lỗ rò đơn giản
có thể phẫu thuật sớm khi được phát hiện và vẫn
mang đến tỷ lệ thành công cao.
Thời gian mổ
Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu được
tính từ lúc bắt đầu soi bàng quang đặt thông
niệu quản cho đến khi kết thúc khâu lại các lỗ
trocar. Thời gian mổ trung bình của chúng tôi là
204 ± 105 phút, ngắn nhất là 80 phút và dài nhất
là 520 phút. So với các nghiên cứu từ năm 2008
trở về trước, chúng tôi nhận thấy thời gian mổ
của chúng tôi có rút ngắn lại. Tuy nhiên, hai
nghiên cứu gần đây của Shrenik (2009)(14) và Syed
Jamal Rizvi (2010)(11) có thời gian mổ tương đối
ngắn là 145 phút.
Thời gian mổ phụ thuộc nhiều vào tay nghề
phẫu thuật viên, kinh nghiệm phẫu thuật và mức
độ khó của từng ca bệnh. Trong những trường
hợp đầu tiên, thời gian mổ của chúng tôi tương
đối dài, có trường hợp kéo dài đến 520 phút,
những ca về sau do rút được kinh nghiệm của
những ca ban đầu chúng tôi có cải tiến kỹ thuật
như đặt Foley vào đường rò ngăn cản thoát khí
CO2 tránh làm hẹp phẫu trường, giúp việc bóc
tách dễ dàng hơn, thời gian mổ cải thiện đáng kể.
Trường hợp phẫu thuật có thời gian ngắn nhất
của chúng tôi là 80 phút.
Biến chứng
Biến chứng là một thử thách của phẫu thuật
mà phẫu thuật viên nào cũng phải vượt qua. Một
thủ thuật được gọi là thành công nếu phẫu thuật
đó mang đến kết quả tốt và không có biến chứng.
Qua 33 trường hợp ban đầu, chúng tôi có 1
trường hợp phải chuyển mổ mở như đã nêu trên.
Bốn trường hợp chúng tôi cần phải truyền máu,
lượng máu truyền nhiều nhất là 1000ml và ít nhất
là 350ml. Những trường hợp truyền máu là
những trường hợp khó, do dính nhiều, lỗ rò lớn
phức tạp khiến thời gian mổ kéo dài và lượng
máu mất nhiều hơn. Các biến chứng như tổn
thương niệu quản, tổn thương cơ quan lân cận
không ghi nhận.
So sánh với các tác giả khác trên thế giới
chúng tôi nhận thấy biến chứng vẫn có thể xảy
ra. Sotelo (2005) có 1 trường hợp thủng ruột lúc
vào trocar do dính và có 1 trường hợp chảy máu
do tổn thương động mạch thượng vị dưới khi vào
trocar, trường hợp chảy máu này phải cầm máu
bằng dụng cụ Carter-Thomason và ổn. Một số tác
giả chủ động chuyển mổ mở tránh kéo dài thời
gian mổ do cuộc mổ khó, tránh các biến chứng
do mổ nội soi lâu (Otsuka), một số tác giả chuyển
sang mổ hở do dính. Biến chứng nhiễm khuẩn
cũng ghi nhận trong các nghiên cứu.
Nhìn chung, tỷ lệ biến chứng vẫn xảy ra ở các
nghiên cứu, để khắc phục các biến chứng này,
cần chú ý nhận định khi vào trocar tránh tổn
thương động mạch thượng vị, vào trocar hở nếu
nghi ngờ dính ruột, chủ động chuyển mổ hở nếu
bóc tách khó khăn, tránh kéo dài thời gian mổ,
giảm thiểu lượng máu mất và tránh tổn thương
các cơ quan lân cận.
Tỷ lệ thành công
Tỷ lệ thành công nói lên mức độ thành công
của một phương pháp phẫu thuật, trong nghiên
cứu của chúng tôi một trường hợp chuyển mổ
mở, còn lại 32 trường hợp được phẫu thuật nội
soi qua ổ bụng vá rò, có 29 trường hợp thành
công sau mổ chiếm tỷ lệ 87,9%. Nhìn chung so
với tỷ lệ thành công của các tác giả khác trên thế
giới là tương đương.
Eilber và cộng sự nhấn mạnh cách tiếp cận,
ông khuyến cáo phẫu thuật viên nên chọn cách
tiếp cận nào thuận lợi và quen thuộc với mình
nhất nhằm đem lại tỷ lệ thành công cao(11). Tỷ lệ
thành công phụ thuộc vào tính chất, nguyên
nhân gây rò và tay nghề của phẫu thuật viên.
Theo y văn, tỷ lệ thành công dao động từ 65%
đến 100%(13).
Những nguyên tắc phẫu thuật cần lưu ý để
quyết định tính thành công của phẫu thuật được
Turner-Warwick (1986)(17) mô tả bao gồm: đánh
giả tỉ mỉ trước mổ loại trừ những lỗ rò phức tạp,
tách riêng biệt thành của bàng quang và thành
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 407
của âm đạo, cắt bỏ mô chết và khâu lại đảm bảo
cho mô không bị căng.
Người đầu tiên mô tả phương pháp vá rò
BQ-ÂĐ qua phẫu thuật nội soi ổ bụng là Nezhat
(1994)(30), ông nhấn mạnh 6 nguyên tắc trong
phẫu thuật nội soi giúp vá rò thành công là: (1)
bộc lộ lỗ rò và mô xung quanh đủ rộng, (2) cắt lọc
hết các mô xơ, (3) khâu không bị căng và tưới
máu tốt, (4) sử dụng đúng loại chỉ khâu, (5) chèn
vào giữa những loại mô khác nhau như mạc nối,
phúc mạc sao cho chỗ khâu bàng quang cách
xa lỗ rò, (6) dẫn lưu bàng quang tốt sau mổ.
Qua các trường hợp phẫu thuật chúng tôi ghi
nhận được nếu càng tôn trọng những nguyên tắc
trên thì khả năng thành công càng cao.
Bảng 3: So sánh tỷ lệ thành công trong nghiên cứu
với các tác giả khác trên thế giới.
Tác giả Số BN Tỷ lệ thành công
Nezhat (1994)(9) 1 1/1 (100%)
Chau-Su-Ou (2004)(5) 2 2/2 (100%)
René Sotelo (2005)(10) 15 14/15 (93%)
Chibber (2005)(6) 8 7/8 (87,5%)
Carson Wong (2006)(17) 2 2/2 (100%)
Tiong (2007)(15) 1 1/1 (100%)
Otsuka (2008)
(12)