Mục tiêu: nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới kết cục điều trị của bệnh nhân động kinh.
Phương pháp: chúng tôi khảo sát 223 bệnh nhân trong tổng số 245 bệnh nhân đang quản lý tại thành phố
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2009, số liệu thu thập theo mẫu nghiên cứu của Viện Thần Kinh Nhiệt
Đới Limoges.
Kết quả: có 126 nam chiếm tỷ lệ 56,5%, 97 nữ chiếm 43,5%. Bệnh nhân tập trung đông nhất vào độ tuổi
21-30 với 25,5%. Bệnh xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn 0-10 tuổi với 42,2%. Có 79 bệnh nhân chiếm 35,4% có
bệnh, thiếu sót thần kinh kèm theo. Số bệnh nhân có bệnh nội khoa kèm theo chiếm tỷ lệ 14,8%. Cơn toàn thể
chiếm 47,9%, cơn cục bộ chiếm 49,8%, cơn không phân loại chiếm 2,3%. Có 81,2% số bệnh nhân được điều trị
đơn trị liệu, 18,8% đa trị liệu. Valproic Acid được dùng ở 56,5% và Phenobarbital dùng ở 49,8% số bệnh nhân.
Số bệnh nhân không tuân thủ hướng dẫn sử dụng thuốc chiếm 43,9%. Tỷ lệ điều trị thành công là 78,9%, điều
trị thất bại là 21,1%. Khoảng thời gian trước điều trị dài hơn 1 năm sẽ có nguy cơ thất bại gấp 2,69 lần so với
điều trị ngay trong năm đầu.
Kết luận: tỉ lệ điều trị thành công khá cao, khoảng thời gian trước khi điều trị cao hơn một năm có tỉ lệ thất
bại cao.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị và một số yếu tố liên quan với điều trị thất bại ở nhóm bệnh nhân động kinh đang quản lý tại Thành phố Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 350
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI ĐIỀU TRỊ
THẤT BẠI Ở NHÓM BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH ĐANG QUẢN LÝ
TẠI THÀNH PHỐ VŨNG TÀU
Lê Văn Tuấn*, Trần Thiện Trường**
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới kết cục điều trị của bệnh nhân động kinh.
Phương pháp: chúng tôi khảo sát 223 bệnh nhân trong tổng số 245 bệnh nhân đang quản lý tại thành phố
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2009, số liệu thu thập theo mẫu nghiên cứu của Viện Thần Kinh Nhiệt
Đới Limoges.
Kết quả: có 126 nam chiếm tỷ lệ 56,5%, 97 nữ chiếm 43,5%. Bệnh nhân tập trung đông nhất vào độ tuổi
21-30 với 25,5%. Bệnh xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn 0-10 tuổi với 42,2%. Có 79 bệnh nhân chiếm 35,4% có
bệnh, thiếu sót thần kinh kèm theo. Số bệnh nhân có bệnh nội khoa kèm theo chiếm tỷ lệ 14,8%. Cơn toàn thể
chiếm 47,9%, cơn cục bộ chiếm 49,8%, cơn không phân loại chiếm 2,3%. Có 81,2% số bệnh nhân được điều trị
đơn trị liệu, 18,8% đa trị liệu. Valproic Acid được dùng ở 56,5% và Phenobarbital dùng ở 49,8% số bệnh nhân.
Số bệnh nhân không tuân thủ hướng dẫn sử dụng thuốc chiếm 43,9%. Tỷ lệ điều trị thành công là 78,9%, điều
trị thất bại là 21,1%. Khoảng thời gian trước điều trị dài hơn 1 năm sẽ có nguy cơ thất bại gấp 2,69 lần so với
điều trị ngay trong năm đầu.
Kết luận: tỉ lệ điều trị thành công khá cao, khoảng thời gian trước khi điều trị cao hơn một năm có tỉ lệ thất
bại cao.
Từ khóa: Độnh kinh
ABSTRACT
OUTCOME OF TREATMENT AND RELATIONS WITH UNSUCCESSFUL TREATMENT IN
EPILEPSY OUTPATIENTS AT VUNG TAU PROVINCE
Le Van Tuan, Tran Thien Truong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 350 - 354
Purpose: To understand which factor affects to outcome of treatment in Epilepsy outpatients.
Method: we carry out the survey on 223 epilepsy patients in 245 patients in the list based on procotol of
Limoges Tropical Neurological Institute.
Results: Men make up 56,5%, women 43,5%. The most concentrated patient is at 21-30 years old and
makes up 25,5%. The first seizure appears at 0-10 years old is 42,2%. Co-internal diseases make up 14,8%, Co-
neurological diseases or neurological deficits make up 35,4%. General seizure is 47,9%, partial seizure is 49,8%,
unclassification is 2,3%. Monothepary is 81,2%, polythepary is 18,8%. Valproic Acid is used in 56,5%,
Phenobarbital is used in 49,8%. The number of patient do not follow the medicine instruction is 43,9%. 72,2% of
patient is not reevaluated monthly. Successful treatment is 78,9%, unsuccessful treatment is 21,1%. Period
between the first seizure and commencement treatment is longer than 1 year may result unsuccessful treatment
* Bộ môn Thần Kinh – Khoa Y Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
** Trường Trung Cấp Y Tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Tác giả liên lạc: ThS Trần Thiện Trường, ĐT: 0908 230 970, Email:thiennhan130402@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 351
2,69 more than commencement treatment in the first year. Conclusion: ratio of successful treatment is high,
pretreatment period more than 1 yr will have unsuccessful results higher.
Keywords: Epilepsy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần
tại cộng đồng trong đó có bệnh động kinh đã
được triển khai từ nhiều năm nay và đã đạt
được những thành công nhất định. Tuy nhiên,
tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân động kinh vẫn cao
gấp hai đến ba lần so với dân số bình thường.
Bệnh để lại nhiều hậu quả nặng nề về sức khỏe,
tâm lý xã hội, giảm chất lượng cuộc sống. Tỷ lệ
bệnh nhân được quản lý so với số bệnh nhân
trong cộng đồng còn rất thấp. Nguyên nhân của
tình trạng trên có thể xuất phát từ những đặc
điểm của bệnh nhân động kinh chưa phù hợp
với các thiết kế chương trình, do hiệu quả điều
trị của chương trình chưa cao.
Nhằm tìm hiểu kết quả điều trị, các yếu tố
liên quan đến điều trị thất bại ở nhóm bệnh
nhân đang quản lý. Chúng tôi thực hiện khảo
sát trên toàn bộ bệnh nhân đang được quản lý
tại thành phố Vũng Tàu đến 31 tháng 12 năm
2009.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định
động kinh theo định nghĩa của LHQTCĐK, và
có tên trong danh sách quản lý tại trung tâm Y
tế thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
đến ngày 31/12/ 2009.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân nghi ngờ động kinh, bệnh nhân
bỏ trị, bệnh nhân không có mặt tại địa phương
vào thời điểm khảo sát và bệnh nhân từ chối
cung cung cấp thông tin.
Thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi, thăm
khám và tham khảo hồ sơ của bệnh nhân. Địa
điểm thực hiện tại các trạm y tế, nơi bệnh nhân
đăng ký nhận thuốc hàng tháng. Nếu không
thực hiện được tại trạm y tế, bệnh nhân sẽ được
thăm khám và phỏng vấn tại nhà.
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi thu thập số liệu dựa theo bộ câu
hỏi nghiên cứu động kinh của viện Thần kinh
nhiệt đới Limoges - Pháp
Xử lý số liệu
Số liệu được mã hóa bằng phần mềm
Epidata 3.1 và phân tích bằng phần mềm stata
10.
Các yếu tố khảo sát
Giới tính, tuổi, tuổi xuất hiện cơn động kinh
đầu tiên, bệnh nội khoa, bệnh và thiếu sót thần
kinh kèm theo. Phân loại cơn, phương pháp
dùng thuốc chống động kinh hiện tại. Tuân thủ
sử dụng thuốc, nghiện rượu, tái khám định kỳ.
Mức độ đáp ứng điều trị, tuổi bắt đầu điều trị.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong số 223 bệnh nhân được khảo sát, nam
chiếm 56,5%, nữ 97(43,5%). Tuổi trung bình của
bệnh nhân động kinh đang quản lý là 31,6±15,9
tuổi, trẻ nhất là 2 tuổi và già nhất là 83 tuổi.
Nhóm tuổi có số bệnh nhân cao nhất là 21-30
tuổi, chiếm tỷ lệ 25,5%.
Tỷ lệ mắc bệnh nội khoa là 14,8%. Trong 33
bệnh nhân có bệnh nội khoa, chủ yếu là bệnh
tim mạch, huyết áp với tỷ lệ 36,4%, bệnh hô hấp
và bệnh khớp đều chiếm tỷ lệ 12,1%, bệnh tiêu
hóa và bệnh nội tiết, chuyển hóa chiếm tỷ lệ
9,1%. Các bệnh còn lại chiếm tỷ lệ 21,2%.
Có 35,4% số bệnh nhân có bệnh, thiếu sót
thần kinh kèm theo. Ở các nhóm tuổi từ 0 đến
20, từ 21 đến 40, từ 41 đến 60 tỷ lệ bệnh nhân có
bệnh, thiếu sót thần kinh kèm theo gần như
nhau. Tỷ lệ này tăng ở lứa tuổi trên 60. Trong số
bệnh, thiếu sót thần kinh thường gặp có 46,8% là
liệt nửa người, 21,5% bại não, 7,6% u não và
5,1% yếu tứ chi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 352
Cơn toàn thể chiếm tỷ lệ 47,9%, cơn cục bộ
chiếm 49,8%, cơn không xếp loại chiếm 2,3%.
Trong loại cơn toàn thể chủ yếu là dạng co cứng
co giật với tỷ lệ là 40,4%. Trong loại cơn cục bộ,
dạng cơn thường gặp nhất là dạng cơn cục bộ
toàn thể hóa chiếm tỷ lệ cao nhất là 46,2%.
Loại cơn cục bộ xuất hiện nhiều nhất ở độ
tuổi trên 60 với 9/12 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 75%.
Loại cơn toàn thể gặp nhiều nhất ở độ tuổi 0-20
với 38/61 bệnh nhân chiếm 62,3%.
Tỷ lệ không tuân thủ trong sử dụng thuốc
chống động kinh là 43,9%. Tỷ lệ bệnh nhân còn
nghiện rượu là 9,4%. Có đến 72,2% số bệnh
nhân không được tái khám định kỳ.
Tỷ lệ các mức độ đáp ứng điều trị
Hiệu quả Tần số Tỷ lệ % Tỷ lệ % cộng dồn
Tốt 73 32,7 32,7
Trung bình 103 46,2 78,9
Kém 44 19,7 98,6
Không hiệu quả 3 1,4 100
Tổng cộng 223 100
χ2= 9,771, df=3, p=0,001
Hiệu quả điều trị theo loại thuốc sử dụng.
Hiệu quả điều trị
Loại thuốc Tổng cộng
Phenobarbital Valproic Acid Cách khác
Tốt 26 (32,1%) 40 (41,2%) 7 (15,6%) 73 (32,7%)
Trung bình 39 (48,2%) 40 (41,2%) 24 (53,3%) 103 (46,2%)
Kém 15 (18,6%) 16 (16,5%) 13 (28,9%) 44 (19,7%)
Không hiệu quả 1 (1,1 %) 1(1,1%) 1 (2.2%) 3 (1,4%)
Tổng cộng 81 (100%) 97 (100%) 45 (100%) 223 (100%)
Fisher’s exact =0,061
Tỷ lệ điều trị thành công là 78,9% gồm đáp
ứng tốt 32,7% và đáp ứng trung bình là 46,2%.
Tỷ lệ điều trị thất bại là 21,1% bao gồm đáp ứng
kém 19,7% và không hiệu quả 1,4%. Sự khác biệt
giữa các mức độ đáp ứng là có ý nghĩa thống kê
với p=0,001 (p<0,05).
Tỷ lệ mức độ đáp ứng tốt khi dùng Valproic
Acid là 41,2%, trung bình là 41,2%. Tỷ lệ mức độ
đáp ứng tốt khi dùng Phenobarbital là 32,1%,
trung bình là 48,1%. Sự khác biệt về mức độ đáp
ứng giữa các loại thuốc điều trị không có ý
nghĩa thống kê với p = 0.061 (p>0.05).
Liên quan giữa bệnh nội khoa kèm theo
với điều trị thất bại
Bệnh nội khoa kèm
theo Tổng cộng
Có Không
Điều
trị
Thất bại 4 (14,3%) 43 (24,3%) 47 (21,1%)
Thành công 29
(85,7%)
147 (75,7%) 176 (78,9%)
Tổng cộng 33 (100%) 190 (100%) 223 (100%)
χ2=1,87, df=1, p=0,1718
Tỷ lệ thất bại với điều trị bằng thuốc chống
động kinh giữa bệnh nhân có bệnh nội khoa
kèm theo so với bệnh nhân không có bệnh nội
khoa kèm theo không khác nhau có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Liên quan giữa bệnh, thiếu sót thần kinh
với điều trị thất bại
Bệnh, thiếu sót thần
kinh Tổng cộng
Có Không
Điều trị
Thất bại 16 (20,3%) 31 (21,5%) 47 (21,1%)
Thành công 63 (79,7%) 113 (78,5%) 176 (78,9%)
Tổng cộng 79(100%) 144 (100%) 223 (100%)
χ2=0,05, df=1, p=0,8234
Tỷ lệ thất bại với điều trị thuốc chống động
kinh ở hai nhóm bệnh nhân có và không có
bệnh, thiếu sót thần kinh đi kèm khác nhau
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Liên quan giữa tình trạng nghiện rượu với
điều trị thất bại
Nghiện rượu
Tổng cộng
Có Không
Điều trị
Thất bại 3 (14,3%) 44 (21,8%) 47 (21,1%)
Thành công 18 (85,7%) 158 (78,2%) 176 (78,9%)
Tổng cộng 21 (100%) 202 (100%) 223 (100%)
Fisher’s exact =0,578
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 353
Tỷ lệ bệnh nhân nghiện rượu thất bại với
điều trị thuốc chống động kinh không khác có ý
nghĩa thống kê với tỷ lệ bệnh nhân không
nghiện rượu thất bại với thuốc chống động
kinh.
Liên quan giữa loại cơn, loại thuốc, dùng thuốc theo chỉ định, và khoảng thời gian trước
điều trị, với điều trị thất bại
Hiệu quả điều trị
OR
Khoảng tin cậy
95%
P
Thất bại Thành công
Loại cơn
Cục bộ 19 92
0,61 0,32-1,18 0,18
Toàn thể 27 80
Loại thuốc
Phenobarbital 16 65
1,15 0,54-2,47 0,70
Valproic Acid 17 80
Dùng thuốc đúng
hướng dẫn
Có 22 103
0,62 0,31-1,25 0,19
Không 25 73
Khoảng thời gian
trước điều trị
> 1 năm 20 38
2,69 1,28-5,59 0,004
≤ 1 năm 27 138
> 5 năm 8 27
1,26 0,46-3,17 0,60
≤ 5 năm 35 149
> 10 năm 7 18
1,54 0,50-4,18 0,37
≤ 10 năm 40 158
Loại cơn cục bộ hay toàn thể, loại thuốc khi
điều trị đơn trị liệu là Phenobarbital hay
Valproic Acid không ảnh hưởng đến việc điều
trị thất bại. Dùng thuốc không đúng chỉ định
đều không làm tăng nguy cơ điều trị thất bại.
Khoảng thời gian trước điều trị có liên quan
đến điều trị thất bại. Việc bắt đầu điều trị khi
sau 1 năm từ khi có cơn đầu có nguy cơ thất bại
tăng hơn so với điều trị ngay trong năm đầu với
OR=2,69, p=0,003 (p<0,05), khoảng tin cậy 95% là
1,28- 5,59. Việc điều trị trước và sau thời điểm 5
năm, 10 năm không ảnh hưởng đến điều trị thất
bại với OR ở thời điểm 5 năm là 1,26, p=0,60
(p>0,05) khoảng tin cậy 95% là 0,46-3,17 và OR ở
thời điểm 10 năm là 1,54, p=0,37 (p>0,05) khoảng
tin cậy 95% là 0,50-4,18.
BÀN LUẬN
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của tác giả Lê
Văn Tuấn thực hiện tại khoa thần kinh bệnh
viện Chợ Rẫy năm 2002 thấy tỷ lệ hết cơn sau
dùng thuốc là 87,3%, giảm cơn chiếm tỷ lệ
12,7%(2). Tác giả Tô Hồng Đức khảo sát 99 bệnh
nhân điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nhi Đồng I
từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007 thấy
giảm cơn chiếm tỷ lệ 73,3%, tỷ lệ không đáp ứng
với điều trị thuốc là 26,7%(6). Nghiên cứu của
Dương Hữu Lễ có 28,6% số bệnh nhân ổn định,
57,3% số bệnh nhân có hiệu quả trung bình và
14,1% số bệnh nhân không đáp ứng với điều
trị(1). Nghiên cứu của Nguyễn Văn Doanh trên
bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Bắc Ninh có
21,9% bệnh nhân không giảm cơn khi dùng
thuốc(3).
Theo y văn, có khoảng 60% đến 80% số bệnh
nhân động kinh sẽ kiểm soát được cơn giật bằng
thuốc trong đó trên 60% sẽ khỏi hẳn nhờ dùng
thuốc, số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị
bằng thuốc khoảng 25 đến 30%. Một số nghiên
cứu tại bệnh viện có kết quả cao có thể do bệnh
nhân được phân loại cơn chính xác hơn, dùng
thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sỹ hơn các
trường hợp điều trị ngoại trú và thời gian theo
dõi ngắn hơn nên tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng điều
trị cao hơn.
Như vậy, tỷ lệ điều trị thành công trong
nghiên cứu của chúng tôi, tương đương với tỷ lệ
cắt cơn hay giảm cơn trong các nghiên cứu khác.
Tuy nhiên, một tỷ lệ hiệu quả đáp ứng cao
không có nghĩa là địa phương đã thực hiện tốt
việc chẩn đoán và điều trị. Có thể còn những
bệnh nhân không đáp ứng với điều trị hiện
đang nằm ngoài danh sách quản lý của địa
phương.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 354
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mức
độ đáp ứng tốt khi dùng Valproic Acid là 41,2%,
trung bình là 41,2%. Tỷ lệ mức độ đáp ứng tốt
khi dùng Phenobarbital là 32,1%, trung bình là
48,2%. Sự khác biệt về mức độ đáp ứng giữa các
loại thuốc điều trị không có ý nghĩa thống kê
với p = 0,061 (p>0,05).
Mặc dù các dữ kiện ảnh hưởng tới hiệu quả
cắt cơn của các loại thuốc không được khảo sát
trong nhiên cứu của chúng tôi, song qua nghiên
cứu cho thấy hiệu quả của Valproic Acid có xu
hướng tốt hơn so với Phenobarbital, cho dù sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả
này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Doanh với bệnh nhân có đáp ứng
với Depakin là 14 chiếm tỷ lệ 93,3%, số bệnh
nhân có đáp ứng với Gardenal là 26 chiếm tỷ lệ
89,6%(3).
Thời gian trước điều trị là khoảng thời gian
từ khi có cơn đầu tiên đến khi được điều trị. Độ
dài khoảng thời gian trước điều trị tùy thuộc
vào nhiều yếu tố như loại cơn, tần số cơn, nghề
nghiệp của bệnh nhân, tâm lý của gia đình và
bệnh nhân, điều kiện kinh tế của bệnh nhân và
cả khả năng đáp ứng của ngành Y tế.
Theo Samden D. Lhatoo và Josemir
W.Sander, ba nghiên cứu thực hiện ở các nước
đang phát triển trên 1000 bệnh nhân cho thấy
thời gian mang bệnh cũng như số cơn trước khi
điều trị không có giá trị trong tiên lượng kết cục
điều trị(5). Ngược lại, Phan Việt Nga theo dõi 120
bệnh nhân động kinh toàn thể điều trị tại bệnh
viện 103 trong 6 tháng thấy tỷ lệ cắt cơn ở nhóm
có thời gian mắc bệnh trên một năm thấp hơn ở
nhóm có thời gian mang bệnh dưới một năm
(p<0,001)(4).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi xét kết
quả điều trị ở hai mức độ, thành công (gồm tốt
và trung bình) và thất bại (gồm kém và không
đáp ứng) theo các mốc thời gian trước điều trị là
1 năm, 5 năm, và 10 năm. Chúng tôi thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,004
(p<0,05) về nguy cơ điều trị thất bại nếu bệnh
nhân có thời gian trước điều trị dài hơn một
năm so với thời gian trước điều trị từ một năm
trở xuống. Nếu bệnh nhân có thời gian trước
điều trị dài hơn một năm thì khả năng điều trị
thất bại cao gấp 2,69 lần so với điều trị ngay
trong năm đầu. Với các mốc là 5 năm, 10 năm
không cho thấy có sự khác biệt về nguy cơ điều
trị thất bại với p>0,05. Điều này chứng tỏ chậm
trễ trong việc điều trị sẽ làm gia tăng nguy cơ
điều trị thất bại, và mốc 1 năm là mốc cuối cùng
để việc điều trị ít có nguy cơ thất bại.
Loại cơn cục bộ hay toàn thể không cho thấy
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguy cơ
điều trị thất bại giữa hai nhóm bệnh nhân này.
Nguy cơ thất bại của Phenobarbital cao hơn
so với Valproic Acid với OR=1,15, tuy nhiên sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với
p=0,70 (p>0,05). Việc không có sự khác nhau về
nguy cơ thất bại giữa hai loại thuốc có lẽ do
trong hầu hết các trường hợp, khi thất bại với
loại thuốc này, bệnh nhân động kinh đã được sử
dụng loại thuốc còn lại. Bởi vậy vào thời điểm
khảo sát chúng tôi ghi nhận bệnh nhân thất bại
với một loại thuốc đang sử dụng, nhưng thực tế
bệnh nhân đã thất bại với cả hai loại.
Việc dùng thuốc đúng hướng dẫn làm giảm
nguy cơ điều trị thất bại, song sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê có thể có lý do là liều
thuốc hiện thời của các bệnh nhân là khá cao và
loại vi phạm không theo hướng dẫn chủ yếu là
quên liều, tự động giảm liều và tự động dùng
thêm các loại Vitamin.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ điều trị thành
công cao. Bệnh nhân với thời gian trước khi
điều trị cao hơn một năm sẽ có tỉ lệ thất bại điều
trị cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Dương Hữu Lễ (2006). Tình hình quản lý động kinh tại huyện
Châu Thành tỉnh Tiền Giang năm 2005. Luận án chuyên khoa II.
Đại Học Y Dươc Tp.HCM.
2 Lê Văn Tuấn (2003). “Đặc điểm lâm sàng, nguyên nhân và điều
trị bệnh nhân động kinh tại khoa Thần Kinh bệnh viện Chợ
Rẫy”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP. Hồ
Chí Minh, tập 7(1), tr.75-80.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 355
3 Nguyễn Văn Doanh (2007), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ
học và điều trị động kinh ở một cộng đồng dân cư thuộc huyện
Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà
Nội.
4 Phan Việt Nga (2002). Nghiên cứu chẩn đoán và theo dõi kết
quả động kinh toàn thể ở trẻ em (6 đến 15 tuổi). Luận án Tiến sĩ
Y học. Học viện Quân Y.
5 Lhatoo SD and Sander JW (2006). “The Prognosis of Epilepsy in
the Developing Countries”. Epilepsy in the tropics, Landes
Bioscience, pp.20-26
6 Tô Hồng Đức (2008). Phân loại cơn động kinh trẻ em tại bệnh
viện Nhi Đồng I thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học TP. Hồ
Chí Minh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, tập 12(3), tr.172-
175.