Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phương pháp khâu rách chóp xoay qua nội soi trên cộng đồng
người việt.
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu mô tả.
Kết quả: 144 trường hợp rách chóp xoay đã được khâu qua nội soi. Thời gian theo dõi trung bình 31 tháng
(11 tháng‐ 55 tháng). Rách bán phần là 77 (53,47%), rách toàn phần là 67 (46,53%). Các thương tổn đi kèm:
SLAP 21 trường hợp, rách đầu dài gân nhị đầu 22 trường hợp. 62 trường hợp được khâu 1 hàng, 72 trường hợp
khâu 2 hàng. Điểm constant trước mổ là 38,5, sau mổ là 87,8. Điểm UCLA là 32,4. Điểm UCLA sau mổ đạt tốt
và rất tốt chiếm 93 % các trường hợp.
Kết luận: Khâu chóp xoay qua nội soi mang lại kết quả chức năng tốt cho bn và ít có biến chứng.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả khâu chóp xoay qua nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 63
KẾT QUẢ KHÂU CHÓP XOAY QUA NỘI SOI
Tăng Hà Nam Anh*, Nguyễn Huy Toàn*, Cao Bá Hưởng*, Phạm Thế Hiển*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phương pháp khâu rách chóp xoay qua nội soi trên cộng đồng
người việt.
Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu mô tả.
Kết quả: 144 trường hợp rách chóp xoay đã được khâu qua nội soi. Thời gian theo dõi trung bình 31 tháng
(11 tháng‐ 55 tháng). Rách bán phần là 77 (53,47%), rách toàn phần là 67 (46,53%). Các thương tổn đi kèm:
SLAP 21 trường hợp, rách đầu dài gân nhị đầu 22 trường hợp. 62 trường hợp được khâu 1 hàng, 72 trường hợp
khâu 2 hàng. Điểm constant trước mổ là 38,5, sau mổ là 87,8. Điểm UCLA là 32,4. Điểm UCLA sau mổ đạt tốt
và rất tốt chiếm 93 % các trường hợp.
Kết luận: Khâu chóp xoay qua nội soi mang lại kết quả chức năng tốt cho bn và ít có biến chứng.
Từ khóa: khớp vai, rách chóp xoay, nội soi khớp vai.
ABSTRACT
RESULT OF ARTHROSCOPIC ROTATOR CUFF REPAIR.
Tang Ha Nam Anh, Nguyen Huy Toan, Cao Ba Huong, Pham The Hien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 62 ‐ 66
Purpose: This study was performed to evaluate the result of rotatorcuff tear repaired by shoulder
arthroscopy.
Type of Study: prospective cases report.
Methods: We present the results of arthroscopic repair of rotatorcuff tears in 144 patients. All shoulders
were evaluated using the UCLA rating scale and the Constant score.
Results: 144 patients were enrolled. Time follow‐up ranged from 11 months to 55 months (mean 31
months). There were 77 cases (53.47%) of partial tear, 67 cases (46.53%) of full‐thickness tear. The concomitant
injury were: 21 SLAP, 22 biceps tear. 62 cases were repaired by single row technique, 72 cases by double row
technique. The Constant score was 38.5 and 87.8 pre‐ and post‐op. UCLA score was 32.4. 93% of the patients
have excellent and good results.
Conclusions: Arthroscopic repair of the rotatorcuff tear had satisfactory postoperative results and good
functional results. However, these technically demanding arthroscopic procedures require advanced arthroscopic
skills and experience.
Key words: shoulder, rotator cuff tear, shoulder arthroscopy.
MỞ ĐẦU
Chóp xoay của khớp vai là tên gọi chung
cho nhóm 4 cơ bám vào chỏm xương cánh tay:
gân dưới vai bám vào mấu động bé, gân trên
gai và gân dưới gai bám vào mấu động lớn,
gân cơ tròn bé bám vào mặt sau dưới của
chỏm xương cánh tay.
Ngày nay, bệnh lý rách chóp xoay có thể
được điều trị theo nhiều cách khác nhau phụ
thuộc vào giai đoạn tổn thương, tình trạng bệnh
* Khoa Chấn thương chỉnh hình bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: ThS BS Tăng Hà Nam Anh ĐT: 0933002400 Email: tanghanamanh@yahoo.fr
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 64
nhân, và mức độ hoạt động thể lực của bệnh
nhân. Điều trị bảo tồn bằng thuốc, vật lý trị liệu
và tiêm corticoide vào khoang dưới mỏm cùng
có thể đem lại kết quả tốt cho bệnh nhân ở giai
đoạn sớm (Neer I‐II)(4). Tuy nhiên các tác giả
Gartsman(3) và Ruotolo đã chứng minh việc
khâu lại chóp xoay đem lại kết quả tốt hơn điều
trị bảo tồn(5). Có rất nhiều kỹ thuật dùng để khâu
chóp xoay từ mổ mở để tạo đường hầm cho gân
đính vào xương cho đến đường mổ nhỏ với sự
trợ giúp của nội soi. Kết quả của các phương
pháp theo các báo cáo là khá tốt. Tuy nhiên các
phương pháp mổ mở kinh điển cho kết quả
chức năng khớp vai sau mổ kém hơn khi so
sánh với phương pháp mổ nội soi hoặc mổ với
đường mổ nhỏ(8) vì gây teo cơ delta. Nội soi
khớp vai giúp phẫu thuật viên khâu được chóp
xoay, loại bỏ sự chèn ép của mỏm cùng trên
chóp xoay mà không làm tổn hại đến cơ delta.
Tại Việt Nam, kỹ thuật nội soi khớp vai đã
được triển khai bước đầu cho việc điều trị các
tổn thương trật khớp vai tái hồi, tổn thương sụn
viền trên từ trước ra sau và khâu rách chóp
xoay. Tuy nhiên trong y văn Việt Nam chưa có
những nghiên cứu cụ thể đánh giá kết quả chức
năng khớp vai sau mổ theo tuổi, giới, kiểu rách
chóp xoay v.v, đánh giá các thương tổn khớp vai
kèm theo rách chóp xoay, đánh giá các biến
chứng của phương pháp khâu chóp xoay hoàn
toàn qua nội soi trên bệnh nhân Việt Nam.
Mục tiêu
Đánh giá kết quả khâu chóp xoay qua nội soi
về: phục hồi chức năng và biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả các bệnh nhân trên 18 tuổi, có các dấu
hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của rách chóp
xoay bán phần hay toàn phần, đã được điều trị
bằng thuốc kháng viêm giảm đau nonsteroide
hoặc corticoide, thuốc giảm đau đơn thuần,
thuốc giãn cơ, tập vật lí trị liệu trong vòng ít
nhất 12 tuần (thời gian để gân lành vào xương
theo nghiên cứu trên thực nghiệm của
St.Pierre(6)).
Tiêu chuẩn loại trừ
BN có chống chỉ định phẫu thuật vì bệnh lý
nội khoa hoặc không thể gây mê nội khí quản.
Những bệnh nhân có rách chóp xoay rất lớn
không thể khâu lại được cũng được loại trừ ra
khỏi nhóm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu mô tả, mức độ tin cậy 4.
Phương pháp phẫu thuật
BN được kê tư thế nằm nghiêng bên vai
lành, vào khớp vai qua 2 cổng trước và sau, cắt
lọc sạch mô viêm trong khớp, đánh dấu gân
rách bằng chỉ nylon số 1.
Tư thế mổ nằm nghiêng, kéo tay và các đường vào
khớp vai.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 65
Sau đó vào khoang dưới mỏm cùng từ cổng
sau, bộc lộ gân rách, mở cổng bên, mài mỏm
cùng vai, mở các cổng bên phụ nếu cần thiết để
đóng neo chỉ, khâu gân rách tùy theo kiểu rách.
Rách < 1cm: khâu bằng kỹ thuật khâu một
hàng hoặc bắc cầu bằng chỉ neo vào mấu
động lớn.
Từ 1‐5cm: Kiểu rách hình liềm khâu trực tiếp
đầu gân rách vào mấu động lớn bằng chỉ neo
bằng kỹ thuật khâu một hàng hoặc bắc cầu.
Kiểu rách hình chữ U hay chữ L khâu gân
theo kiểu bên‐bên bằng chỉ không tan fiberwire
số 2 để biến thành kiểu rách hình liềm và sau đó
khâu đính vào mấu động lớn bằng kỹ thuật
khâu một hàng hay bắc cầu.
Trong trường hợp xương xốp chúng tôi tiến
hành đóng neo mặt ngoài mấu động lớn và
khâu gân theo kiểu một hàng theo kiểu néo ép
cột buồm để tránh neo bị nhổ bật. Trong trường
hợp này bệnh nhân sẽ được mang đai Desault
thay vì mang đai chóp xoay.
Sau mổ bệnh nhân được mang đai bảo vệ
chóp xoay với cánh tay dạng 30 độ, đưa trước 30
độ và xoay trong 30 độ trong 2‐6 tuần tùy theo
kích thước vết rách.
Đánh giá kết quả điều trị
Bệnh nhân được theo dõi và đánh giá hàng
tháng để kiểm tra và hướng dẫn tập vật lí trị
liệu.
Chức năng khớp vai được đánh giá bằng hai
thang điểm Constant và UCLA.
Phương pháp xử lí số liệu
Tất cả số liệu được xử lí bằng phần mềm
thống kê Stata phiên bản 10.0. Phép kiểm t test
được dùng để kiểm tra sự khác biệt kết quả chức
năng khớp vai giữa các nhóm so sánh với P<0,05
được xem là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Từ 1/6//2007 đến 31 /12/2010 có 144 trường
hợp khâu chóp xoay qua nội soi và theo dõi
được. Trong đó:
Giới
Nam: 61 trường hợp; nữ 83 trường hợp.
Tuổi
Trung bình 53 (19‐84 tuổi).
10
20
30
40
50
60
70 <3
từ
từ
từ
từ
Biểu đồ 1: Phân bố số bệnh nhân theo nhóm tuổi
Thời gian theo dõi trung bình là 31 tháng (11 tháng‐
55 tháng).
Rách bán phần là 77 (53,47%), rách toàn
phần là 67 (46,53%). Trong nhóm rách toàn phần
có 1 ca rách nhỏ, 49 ca rách trung bình, 14 ca
rách lớn và 3 ca rách rất lớn.
62 trường hợp được khâu 1 hàng, 72 trường
hợp khâu 2 hàng.
Điểm Constant trung bình trước mổ là 38,5,
sau mổ là 87,8, khác biệt có ý nghĩa thống kê (t
test, P= 0,001 < 0,05)
Điểm UCLA sau mổ trung bình là 32,4
Bảng: Phân loại kết quả chức năng khớp vai sau mổ
theo điểm UCLA.
Phân loại Số bệnh
nhân
Tỉ lệ Tổng cộng
dồn
Rất tốt 67 46,53% 46,53%
Tốt 67 46,53% 93,06%
Trung bình 10 6,94% 100%
Tổng cộng 144 100%
Trong nhóm tuổi từ 65 trở lên có 7 trường
hợp đạt kết quả rất tốt, 5 trường hợp tốt và 2
trường hợp trung bình theo thang điểm UCLA.
Bảng: Phân loại kết quả chức năng khớp vai sau mổ
theo phân loại điểm UCLA ở bệnh nhân trên 65 tuổi.
Phân loại Số bệnh nhân >65 tuổi Tỉ lệ
Tổng cộng
dồn
Rất tốt 7 50% 50%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 66
Tốt 5 35,7% 85,7%
Trung bình 2 14,3% 100
Tổng cộng 14 100
Trong số 144 bệnh nhân theo dõi được
chúng tôi có tiến hành đánh giá thang điểm
Constant cho tay bên lành và nhận thấy thậm
chí ngay cả tay bên lành bệnh nhân cũng rất khó
đạt được 100 điểm theo thang điểm này mà
nguyên nhân là do sức cơ tay người Việt rất khó
đạt được 25 pound như quy định trong thang
điểm Constant.
Chúng tôi tiến hành đánh giá thang điểm
Constant cho cả tay bên bệnh sau mổ và tay bên
lành, sau đó chúng tôi đánh giá tỉ lệ phần trăm
tay bên bệnh đạt so với bên lành. Kết quả có 96
bệnh nhân đã được đánh giá chức năng khớp
vai cả hai tay. Nếu lấy mốc 90% chức năng vai
bên bệnh đạt được so với bên lành thì chúng tôi
có tỉ lệ 75% bệnh nhân sau mổ tay bên bệnh đạt
được 90% so với tay lành. Nếu lấy mốc 80%
(chúng tôi chọn con số 80% vì nếu xếp loại theo
UCLA thì nếu bệnh nhân đạt 28 điểm so với
tổng số 35 điểm tức là 80% so với tổng điểm tối
đa) thì chúng tôi có 86 trên 96 bệnh nhân đạt
được mức này chiếm 90%. Hay nói cách khác
90% bệnh nhân đạt được mức 80% chức năng
vai so với bên lành.
So sánh điểm Constant và UCLA sau mổ
trung bình của nữ 87,85 (n=83) và nam 87,65
(n=61) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (t
test, P=0,9 và 0,82 >0,05). Như vậy không có sự
khác biệt về kết quả giữa hai nhóm nam và nữ
hay nói cách khác kết quả sau mổ không lệ
thuộc giới tính.
So sánh điểm Constant và UCLA sau mổ
trung bình giữa nhóm rách bán phần và rách
toàn phần cũng cho thấy kết quả khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (t test, P= 0,81 và
0,70>0,05).
Trong số 144 bệnh nhân có 62 bệnh nhân
được khâu kiểu một hàng, 72 bệnh nhân được
khâu kiểu hai hàng, 10 bệnh nhân được khâu
kiểu xuyên gân nên không nằm trong hai nhóm
này và được để riêng. So sánh 2 kĩ thuật khâu 1
hàng và 2 hàng về điểm Constant và UCLA
chức năng khớp vai sau mổ khác nhau không có
ý nghĩa thống kê (t test, P=0,98 và 0,72 >0,05).
Có tổn thương đi kèm là 43 trường hợp
chiếm 29,8%. Các thương tổn đi kèm bao gồm
rách một phần hay toàn phần đầu dài gân nhị
đầu chiếm 22 ca, tổn thương sụn viền trên từ
trước ra sau 21 ca. So sánh giữa nhóm có tổn
thương kèm theo với nhóm rách chóp xoay đơn
thuần, điểm Constant và UCLA trước và sau mổ
giữa 2 nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống
kê (t test, P=0,49 và 0,3 >0,05). Hay nói cách khác
chức năng khớp vai trước và sau mổ của nhóm
có tổn thương kèm theo không khác biệt so với
nhóm chỉ rách chóp xoay đơn thuần. Do vậy
chúng tôi cho rằng nên mạnh dạn xử lí thương
tổn đi kèm.
Mặc dù chưa có nghiên cứu nào trong nước
so sánh kết quả giữa điều trị bảo tồn và phẫu
thuật nhưng nhóm bệnh nhân chúng tôi thường
đã được điều trị nội khoa trước đó với thuốc
kháng viêm giảm đau, đôi khi corticoide uống
hoặc chích vào khớp vai. Hơn nữa đối với rách
chóp xoay cho đến thời điểm hiện tại không có
thuốc đặc hiệu cũng như không có phương
pháp điều trị đặc hiệu riêng. Do vậy có thể xem
như kết quả chức năng khớp vai so sánh trước
và sau mổ là nhóm chứng tự thân. Và căn cứ vào
kết quả trên chúng tôi nhận thấy việc phẫu thuật
nội soi khâu chóp xoay mang lại kết quả tốt cho
bệnh nhân bị rách chóp xoay.
Các biến chứng
Biến chứng hay gặp sau mổ khâu chóp xoay
đó là cứng hay hạn chế vận động khớp vai sau
mổ. Tuy nhiên khi bệnh nhân được chỉ dẫn tập
vật lí trị liệu biến chứng hạn chế vận động vai sẽ
cải thiện dần trong vòng 1 năm kể từ lúc mổ.
100% bệnh nhân có biến chứng thoát dịch
ra ngoài khớp vai, biểu hiện bằng tình trạng
sưng nề khớp vai và vùng ngực sau mổ do
bơm nước vào trong khớp vai, với nhiều mức
độ khác nhau. Tuy nhiên chưa đến mức chèn
ép khoang do thoát dịch khớp vai sau mổ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương 67
Tình trạng này sẽ giảm và biến mất trong vòng
2 đến 3 ngày sau mổ.
Việc đánh giá kết quả chức năng khớp vai
sau mổ và sự lành gân cũng có nhiều ý kiến
khác nhau. Tác giả Boileau(1) dùng hình ảnh
cộng hưởng từ kiểm tra sau mổ khâu chóp
xoay qua nội soi trên 65 bệnh nhân đã cho thấy
chỉ có 71% bệnh nhân lành gân nhưng có đến
62/65 tức là 95% bệnh nhân hài lòng với kết
quả khâu chóp xoay qua nội soi, cải thiện hoàn
toàn lực nâng tay. Tác giả cho rằng hình ảnh
cộng hưởng từ chỉ cho phép nhìn thấy lỗ rách
gân mà không cho phép đánh giá chính xác
gân lành một phần hay lành hoàn toàn. Tác giả
Zlatkin(9) chỉ ra sự khó khăn khi chụp cộng
hưởng từ lại sau khi mổ khâu chóp xoay
nguyên nhân là do các mảnh kim loại từ các
dụng cụ lưỡi bào khớp hay lưỡi mài khớp làm
hình ảnh cộng hưởng từ bị sai lệch.
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, 100%
bệnh nhân từ chối chụp MRI kiểm tra, tuy
nhiên với thời gian theo dõi trung bình 31
tháng là khá dài và đủ để đánh giá sự suy
giảm chức năng vai nếu như bệnh nhân có bị
tái rách. Kết quả cuối cùng 93,06% từ tốt đến
rất tốt tương đương với nhóm nghiên cứu thử
nghiệm trước đây là 92% từ tốt đến rất tốt và
như vậy khả năng suy giảm chức năng khớp
vai theo thời gian là không đáng kể.
KẾT LUẬN
Từ 1/6/2007 đến 31/12/2010 qua 144 bệnh
nhân bị rách chóp xoay vai được phẫu thuật và
theo dõi, chúng tôi rút ra được một số kết luận
như sau:
Phương pháp nội soi khâu chóp xoay mang
lại kết quả phục hồi chức năng tốt cho BN, giúp
trở lại sinh hoạt và khả năng làm việc như trước
mổ. Điểm UCLA sau mổ đạt tốt và rất tốt là
93,06% trường hợp.
Biến chứng thường gặp nhất là thoát dịch ra
ngoài khớp vai và cứng khớp sau mổ, tuy nhiên
các biến chứng này tự ổn định và có thể khắc
phục được nhờ vào tập vật lí trị liệu sau mổ.
Tuy nhiên, hạn chế của đề tài là không đánh
giá được chính xác kết quả lành gân, mặc dù
thời gian theo dõi trung bình đủ dài 31 tháng để
đánh giá khả năng tái rách chóp xoay nếu có.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boileau P. Brassart N (2005). “Arthroscopic repair of full
thickness tear of the supraspitus: does the tendon really
heal?”. J Bone Joint Surg Am, vol 87, pp 1229‐1240.
2. Burkhart S.S, Lo I.K.Y, Brady P.C (2006). A cowboy’s guide to
advanced shoulder arthroscopy. Lippincott Williams &Wilkins
Philadelphia, pp 53‐109.
3. Garstman GM (1990). “Arthroscopic acromioplasty for lesions
of the rotator cuff”. J Bone Joint Surg Am, vol 72, pp 169‐180.
4. Neer II C.S (1972). “Anterior acromioplasty for the chronic
impingement syndrome in the shoulder: a preliminary
report”. The Journal of Bone & Joint Surgery, vol 54‐A, pp 41‐54.
5. Ruotolo C, Nottage W.M (2002). “Surgical and nonsurgical
management of rotator cuff tears”. Arthroscopy, vol 18, No 5
(May‐June), pp 527‐531.
6. St.Pierre P, Olsen EJ, Elliott JJ et al (1995). “Tendon healing to
cortical bone compared with healing to a cancellous trough: a
biomechanical and histological evaluation in goats”. J Bone
Joint Surg Am, Vol 77, pp 1858‐1866.
7. Wilson F, Hinov V, Adams G (2002). “Arthroscopic Repair of
Full‐Thickness Tears of the Rotator Cuff: 2‐ to 14‐Year Follow‐
up”. The Journal of Arthroscopic and Related Surgery, Vol 18, No
2 (February), pp 136–144.
8. Yukihiko H, Satoru S, Narumichi M (2004). “Atrophy of the
deltoid Muscle Following Rotator Cuff Surgery”. J Bone Joint
Surg Am, vol 86, pp 1414‐1419.
9. Zlatkin MB (2003). MRI of the shoulder. Lippincott William &
Wilkin. Philadelphia. 2nd edition., pp 251.
Ngày nhận bài báo 16‐09‐2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23‐03‐2013
Ngày bài báo được đăng: 20–04‐2013