Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 384 
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT THÙY PHỔI VỚI SỰ HỖ TRỢ 
CỦA NỘI SOI LỒNG NGỰC TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH 
Nguyễn Thế Vũ*, Lê Tiến Dũng*, Nguyễn Thanh Hiền*, Trương Thanh Thiết* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả, tính an toàn của phẫu thuật cắt thùy phổi với sự hỗ trợ của nội 
soi lồng ngực tại khoa Ngoại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch 
Kết quả: Trong thời gian từ 2/2007 đến 8/2011 có 43 bệnh nhân được phẫu thuật cắt thùy phổi với sự hỗ 
trợ của nội soi lồng ngực. Trong đó có 20 nam và 23 nữ, độ tuổi trung bình là 50,3 (từ 21 đến 73 tuổi). Phổi phải 
có 26, phổi trái có 17. Bệnh lý phẫu thuật: ung thư phổi là 22 (51,2%), u lao là 7 (16,3%), dãn phế quản là 5 
(11,6%), viêm phổi giả u là 5 (11,6%), kén phế quản là 3 (7%) và 1 u mạch máu (2,3%). Thời gian phẫu thuật 
trung bình 120 phút (từ 90 đến 210 phút). Lượng máu mất trung bình 148ml (từ 50ml đến 350ml). Thời gian 
dùng thuốc giảm đau morphin sau mổ là 1 ngày đối với tất cả các trường hợp. Số ngày hậu phẫu trung bình 4,8 
ngày (từ 2 ngày đến 20 ngày). Không có biến chứng chảy máu trong và sau phẫu thuật. Có 4 trường hợp (9,3%) 
có rò khí sau mổ kéo dài trên 7 ngày trong đó có 2 trường hợp (4,7%) phải phẫu thuật nội soi bơm TALC làm 
dính màng phổi. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt thùy phổi với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực có thể thực hiện an toàn, hiệu 
quả với tỷ lệ biến chứng thấp và rút ngắn thời gian hồi phục cho bệnh nhân. Đối với ung thư phổi không 
tế bào nhỏ giai đoạn sớm, VATS có thể thực hiện kỹ thuật cắt thùy phổi kết hợp với lấy hạch triệt để như 
với phẫu thuật mở ngực. 
Từ khóa: cắt thùy phổi nội soi. 
ABSTRACT 
VATS LOBECTOMY AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL 
Nguyen The Vu, Le Tien Dung, Nguyen Thanh Hien, Truong Thanh Thiet 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 383 - 387 
Objective: To evaluate the efficiency and safety of VATS Lobectomy at Pham Ngoc Thach 
Hospital’s Surgical Department. 
Results: from February 2007 to August 2011 there were 43 VATS lobectomy cases. Among them there are 
20 men and 23 women, the average age is 50.3 y,o(from 21 to 73y,o). There are 26 patients who have lesion in 
right lung and 17 patients in the left.Histopathology: lung cancer: 22 (51.2%), tuberculoma: 7 (16.3%), 
bronchiectasis : 5 (11.6%), pseudotumor pneumonia: 5 (11.6%), bronchial cyst: 3 (7%) and vascular tumor: 1 
(2.3%). The average operation time is 120 minutes (from 90 to 210 minutes). The average quantity of blood loss is 
148ml (from 50ml to 350ml). The average time of morphine use for post-operative pain releaf is one day in all 
cases. The average post-operative time is 4.8 days (from 2 days to 20 days). No bleeding complication during and 
after the operation. There are four cases (9.3%) which have post-operative air leak lasting more than 7 days, 
among them ,2 cases (4.7%) required a talc pleurodesis under thoracoscopy. 
Conclusion: VATS lobectomy can be handled efficiently and safely with lower complication rate and earlier 
recovery. In early stage non-small cell lung cancer, VATS can be performed both lobectomy and radical 
* Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thế Vũ ĐT: 0983109079 Email: 
[email protected] 
* Bệnh viện Bình Dân 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 385 
lymphadenectomy exactly as an open-chest surgery. 
Keyword: VATS lobectomy. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật cắt thùy phổi qua nội soi lồng 
ngực đã được báo cáo lần đầu tiên bởi Kirby và 
Walker WS vào năm 1993(3,11). Cùng với sự xuất 
hiện của các dụng cụ phẫu thuật nội soi mới và 
với những ưu điểm: ít sang chấn, thời gian hồi 
phục nhanh, thẩm mỹ, nội soi lồng ngực đã 
được áp dụng rộng rãi trong phẫu thuật cắt 
thùy phổi tại nhiều trung tâm phẫu thuật lớn 
trên thế giới cũng như tại một số khoa phẫu 
thuật lồng ngực tại Việt nam. Cho đến nay, đã 
có những báo cáo về ứng dụng VATS trong cắt 
thùy phổi tại các bệnh viện như bệnh viện Bình 
dân, bệnh viện Việt Đức(4,10). 
Khoa Ngoại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là 
một khoa mới được thành lập vào năm 2004, 
nhưng chúng tôi đã bắt đầu ứng dụng nội soi 
lồng ngực trong chẩn đoán và điều trị các bệnh 
lý lồng ngực như: bệnh lý trung thất, tràn khí 
màng phổi ngay từ thời gian đầu. Mặc dù phẫu 
thuật cắt thùy phổi qua nội soi lồng ngực là kỹ 
thuật mới và đòi hỏi trang thiết bị cũng như 
kinh nghiệm của phẫu thuật viên nhưng với sự 
giúp đỡ của hội Phổi Pháp - Việt, chúng tôi đã 
thực hiện phẫu thuật này từ năm 2007. Cho đến 
nay đã có 43 trường hợp cắt thùy phổi qua 
VATS được thực hiện thành công. 
Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả, 
tính an toàn của phẫu thuật cắt thùy phổi với sự 
hỗ trợ của nội soi lồng ngực tại bệnh viện Phạm 
Ngọc Thạch. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Trong thời gian từ tháng 2/2007 đến 8/2011 
đã có 43 bệnh nhân được cắt thùy phổi qua 
VATS tại khoa ngoại bệnh viện Phạm Ngọc 
Thạch, trong đó có 20 nam và 23 nữ. Tuổi trung 
bình là: 50,25 (từ 21 - 73 tuổi). 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu 
Quy trình phẫu thuật 
Trước tiên BN được gây mê bằng ống NPQ 
hai nòng. 
Tư thế nghiêng và độn gối bên ngực đối 
diện hoặc dùng bàn gấp để các khoảng gian 
sườn giãn rộng. 
Chọn vị trí rạch da khoảng 2cm để đặt trocar 
(thường khoảng khoang liên sườn 7 hoặc 8 phía 
trước đường nách giữa), đưa camera vào 
khoang phế mạc qua vị trí này. 
Đánh giá tổn thương, thực hiện sinh thiết 
(nếu chưa có bằng chứng mô bệnh học), quyết 
định phương pháp phẫu thuật: ngưng, chuyển 
mổ mở hay mổ bằng VATS. 
Nếu quyết định mổ bằng VATS thì tiếp tục 
mở ngực dài khoảng 4 - 6cm, thường ở khoang 
gian sườn 3 - 4 ngực bên hoặc đường sau. Có thể 
sử dụng banh sườn nhỏ trong một số trường 
hợp. Nếu sử dụng banh sườn thì lúc này video 
chỉ có giá trị là nguồn sáng cho quan sát. Sử 
dụng dụng cụ nội soi như kẹp phổi, dao siêu 
âm, clip nội soi hay stapler. Kết thúc cuộc mổ, 
phần phổi đã cắt và khối u sẽ được cho vào một 
túi và kéo ra ngoài. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tuổi, Giới 
Tuổi 
Nhỏ nhất: 21 tuổi 
Lớn nhất: 73 tuổi 
Trung bình: 50,25 tuổi 
Giới 
Nam 20 trường hợp 
Nữ: 23 trường hợp 
Bệnh lý phẫu thuật 
Bệnh lý Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Ung thư phổi 22 51,2 
U lao 7 16,3 
Dãn phế quản 5 11,6 
Viêm phổi giả u 5 11,6 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 386 
Bệnh lý Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Kén phế quản 3 3 
U mạch máu 1 1 
Tổng số 43 100 
Vị trí thùy phổi 
Vị trí Số bệnh nhân Tỷ lệ 
Thùy trên phải 8 18,6 
Thùy giữa phải 6 13,9 
Thùy dưới phải 12 27,9 
Thùy trên trái 7 16,3 
Thùy dưới trái 10 23,3 
 Tổng số 43 100 
Kích thước tổn thương 
Nhỏ nhất: 2 cm 
Lớn nhất: 7cm 
Trung bình: 4,7cm 
Thời gian phẫu thuật, lượng máu mất 
Thời gian phẫu thuật trung bình: 142 phút 
(từ 90 phút đến 210 phút). 
Lượng máu mất trung bình: 165ml (từ 50ml 
đến 400ml). 
Thời gian hậu phẫu 
Thời gian hậu phẫu trung bình: 4,8 ngày (từ 
2 ngày đến 20 ngày). 
Có 4 trường hợp (9,3%) rò khí kéo dài trên 7 
ngày trong đó có 2 trường hợp phải tiến hành 
soi lồng ngực để gây dính màng phổi. 
Lượng dịch dẫn lưu trong 24 giờ đầu 
trung bình: 322,5 ml (từ 100ml đến 600ml). 
Không có trường hợp nào phẫu thuật lại do 
chảy máu sau mổ. 
Xếp loại TNM các trường hợp ung thư 
phổi (UICC 2009) 
 N0 N1 N2 Tổng số 
T1B (2 - <3cm 2 (IA) 4 (IIA) 2 (IIIA) 8 
T2A (3 - <5cm) 4 (IIA) 2 (IIB) 5 (IIIA) 11 
T2B (5 - <7cm) 0 1 (IIB) 2 (IIIA) 3 
Tổng số 6 7 9 22 
BÀN LUẬN 
Chỉ định 
Phẫu thuật cắt thùy phổi qua nội soi đã 
được nhiều phẫu thuật viên áp dụng trong điều 
trị các bệnh lý lành tính và ác tính của phổi như: 
ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm 
có kích thước khối u nhỏ hơn 6cm, các bệnh lý 
phổi lành tính như: u mạch máu, u lao, giãn phế 
quản, kén phế quản, u nấm phổi hay khí phế 
thũng(12,13). 
Trong nhiều báo cáo, các tác giả cũng đưa ra 
các chống chỉ định cho phẫu thuật cắt thùy phổi 
qua nội soi: kích thước tổn thương hay khối u 
phổi lớn hơn 6cm, dày dính màng phổi toàn bộ, 
khối u phổi xâm lấn thành ngực(2,7). 
Một số tác giả đã đưa ra chống chỉ định 
tương đối cho các trường hợp: sau hóa trị hay xạ 
trị, hạch xâm lấn vào mạch máu do lo ngại việc 
bóc tách sẽ làm chảy máu, khối u phổi nằm ở vị 
trí trung tâm(2). 
Bệnh lý phẫu thuật chủ yếu trong báo cáo 
này là ung thư phổi không tế bào nhỏ với 22 
trường hợp, đứng thứ hai là u lao. Trong các 
trường hợp phẫu thuật ung thư, chúng tôi đã 
tiến hành VATS cắt thùy phổi cho 9 trường hợp 
ung thư phổi ở giai đoạn IIIA do có hạch di căn 
ở vị trí dưới carina, cửa sổ phế chủ hay cạnh khí 
quản trong đó có 1 trường hợp có kích thước 
khối u ở thùy dưới phổi phải có kích thước 7cm. 
Kỹ thuật của cắt thùy phổi qua nội soi lồng 
ngực 
Cho đến nay, kỹ thuật VATS cắt thùy phổi 
được hầu hết các phẫu thuật viên áp dụng là 
thông qua một đường rạch nhỏ 4 - 6 cm kết hợp 
với từ 2 đến 4 trocar(2,3,5,11,13). Đối với cắt thùy 
phổi hoàn toàn qua nội soi, dụng cụ banh sườn 
không được sử dụng và phẫu trường được quan 
sát chủ yếu qua màn hình video. Trong trường 
hợp cắt thùy phổi với sự hỗ trợ của video, 
đường rạch da có thể từ 8 - 10 cm kết hợp với sử 
dụng dụng cụ banh sườn, ống soi được sử dụng 
như nguồn sáng hỗ trợ. Phẫu thuật viên có thể 
kết hợp quan sát phẫu trường trực tiếp và qua 
màn hình video. Có sự khác biệt về mức độ đau 
sau mổ của bệnh nhân đối với việc sử dụng các 
dụng cụ banh sườn(2,5). 
Trong VATS cắt thùy phổi, các phẫu thuật 
viên có thể sử dụng các dụng cụ phẫu thuật 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 387 
thông thường kết hợp với các dụng cụ nội soi(2,7). 
Tuy nhiên điểm khác biệt của kỹ thuật VATS cắt 
thùy phổi đối với cắt thùy phổi thông thường là 
phẫu trường thường được phẫu thuật viên quan 
sát qua màn hình vdeo(2). Các stappler thường 
được sử dụng để cắt các rãnh liên thùy, phế 
quản và các mạch máu lớn. 
Hình 1, hình 2: Phẫu thuật cắt thùy dưới phổi trái 
qua nội soi với đường rạch da 5cm 
Trong 43 trường hợp VATS cắt thùy phổi, 
chúng tôi đã sử dụng đường rạch từ 4-6 cm 
kết hợp với một banh sườn nhỏ, số lượng 
trocar sử dụng từ 2 - 3 trocar. Về vị trí đường 
rạch, chúng tôi thường sử dụng đường mở 
ngực bên đối với các tổn thương ở thùy trên 
và thùy giữa, đường mở ngực sau đối với các 
tổn thương thùy dưới. Chúng tôi sử dụng các 
dụng cụ phẫu thuật thông thường để bóc tách 
các mạch máu và hạch. Stappler được sử dụng 
để khâu cắt nhu mô phổi, cắt khâu các mạch 
máu bằng chỉ và clip. 
Hiệu quả của VATS cắt thùy phổi 
Cho đến nay ưu điểm của VATS nói chung 
và VATS cắt thùy phổi nói riêng đều được tất cả 
các phẫu thuật viên thừa nhận. Đó là: giảm đau 
cho bệnh nhân, thời gian hồi phục nhanh, thẩm 
mỹ. Đối với phẫu thuật ung thư, khả năng nạo 
vét hạch triệt để tương đương với phẫu thuật 
mở. Sugiura H và cs(9) đã báo cáo thời gian phẫu 
thuật VATS cắt thùy phổi tương đương phẫu 
thuật mở ngực và lượng máu mất trung bình ít 
hơn mở ngực (150±126ml so với 300±192 ml của 
phẫu thuật mở ngực. Nghiên cứu của Demmy 
và Curtis(1), thời gian nằm viện sau VATS là 5,3 ± 
3,7 ngày so với 12,2 ± 11,1 ngày của mổ mở, còn 
theo Walter và cs thì thời gian nằm viện là 4 so 
với 7 ngày(8). 
Biến chứng làm các phẫu thuật viên lo ngại 
nhất khi tiến hành VATS cắt thùy phổi là chảy 
máu do rách mạnh máu trong khi bộc lộ mạch 
máu. Tuy nhiên những báo cáo gần đây cho 
thấy tỷ lệ chảy máu là dưới 1% và có thể xử lý 
được(7). Một biến chứng khác có thể gặp là rò khí 
kéo dài sau mổ, nhưng với việc sử dụng rộng rãi 
stapper để cắt nhu mô phổi và phế quản thì tỷ lệ 
rò khí kéo dài chỉ còn khoảng từ 4% đến 5%(5,6). 
Trong báo cáo này, thời gian phẫu thuật 
trung bình của chúng tôi là là 142 phút và lượng 
máu mất trung bình là 165 ml. Chúng tôi gặp 1 
trường hợp rách động mạch trung thất khi đang 
bóc tách và phải xử lý bằng clip và khâu mạch 
máu. Trong số 43 trường hợp VATS cắt thùy 
phổi của chúng tôi, tỷ lệ rò khí kéo dài trên 7 
ngày là 4 trường hợp (9,3%) trong đó có 2 
trường hợp phải nội soi lồng ngực làm dính. 
Chúng tôi không có trường hợp nào chảy máu 
hậu phẫu phải phẫu thuật lại. Tỷ lệ rò khí sau 
mổ của chúng tôi cao hơn các tác giả khác có thể 
do chúng tôi không sử dụng hoàn toàn stapler 
để khâu cắt nhu mô phổi. Tất cả các bệnh nhân 
đều chỉ sử dụng thuốc giảm đau tiêm trong 24 
giờ đầu sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình 
là 4,8 ngày. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 388 
Đối với các trường hợp phẫu thuật ung thư 
phổi, chúng tôi đều tiến hành nạo vét toàn bộ 
các hạch nhìn thấy trong quá trình phẫu thuật. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật cắt thùy phổi với sự hỗ trợ của 
nội soi lồng ngực có thể thực hiện an toàn, hiệu 
quả với tỷ lệ biến chứng thấp. Đối với ung thư 
phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, qua phẫu 
thuật nội soi lồng ngực có thể thực hiện cắt thùy 
phổi và nạo vét hạch triệt để. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Demmy TL, Curtis JJ. Minimally invasive lobectomy directed 
toward frail and high-risk patients: a case-control study. Ann 
Thorac Surg 1999;68:194 –200. 
2. Kent M, Avelo-Rivera M and Luketich J: “Minimally Intensive 
Surgery for Lung Cancer”, Lung cancer 2010, Chapter 12, 180-192. 
3. Kirby TJ, Rice TW: Thoracoscopic lobectomy. Ann Thorac Surg 
56(3):784-786,1993. 
4. Lê Ngọc Thành, Phạm Hữu Lư, Đỗ Tất Thành, Dương Văn Đoàn, 
Nguyễn Sỹ Khánh và cs, “Cắt thùy phổi qua phẫu thuật nội soi 
lồng ngực nhân một trường hợp mổ thành công tại bệnh viện Việt 
Đức”, Tạp chí Y học Việt nam, tập 352, tr 453-457. 
5. McKenna R.J, Houck W, Fuller CB. Video-assisted thoracic surgery 
lobectomy: experience with 1,100 cases. Ann Thorac Surg 
2006;81:421– 6. 
6. Onaitis MW, Petersen RP, Balderson SS, et al. Thoracoscopic 
lobectomy is a safe and versatile procedure: experience with 500 
consecutive patients. Ann Surg 2006;244:420 –5. 
7. Robert J. McKenna JR: “Minimally Intensive Techniques for the 
Management of Lung Cancer” Principles and Practice of Lung 
Cancer 4th Edition, Chapter 31, 455-458. 
8. Scott WJ., Allen MS., Darling G, Meyers B, Decker PA., Putnam 
JB., Mckenna RW., Landrenau RJ., Jones DR., Inculet RI., 
Malthaner RA.,”Video-assisted thoracic surgery versus open 
lobectomy for lung cancer: A secondary analysis of data from the 
American College of Surgeons Oncology Group Z0030 
randomized clinical trial”, J Thorac Cardiovasc Surg 2010;139:976-
983© 2010. 
9. Sugiura H, Morikawa T, Kaji M, et al “Longterm benefits for the 
quality of life after video-assited thoracoscopic lobectomy in 
patients with lungcancer” Surg Laparocs Percutant Tech, 1999;9(6), 
403-8. 
10. Văn Tần, Hoàng Danh Tấn, Trần Công Quyền, Hồ Huỳnh Long 
“Phẫu thuật cắt phổi ung thư nội soi lồng ngực hỗ trợ (VATS)”, 
Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, phụ bản của tập 14-số 1-
2010, tr135-139. 
11. Walker WS: Carnochan FM, Pugh GC: Thoracoscopic pulmonary 
lobectomy. Early operative experience and prelimimary clinicals 
results. J Thorac Cardiovasc Surg 106(6): 1111-1117, 1993. 
12. Weber A, Stammberger U, Inci I, Schmid RA., et al. (2001) 
Thoracoscopic lobectomy for benign disease – a single centre study 
on 64 cases. European Journal of Cardio-Thoracic Surgery 
20(3):443-448, 
13. Yim AP.C.: Video-assisted lobectomy: Indication and Techniques. 
Heart, Lung and Circulation 10(2): A33-A34, 2001