Mục tiêu: So sánh vi kẽ trên phục hồi xoang trám loại II của ba hệ thống keo dán và composite khác nhau.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 54 răng cối nhỏ người đã nhổ chia ngẫu nhiên thành 5 nhóm.
Thực hiện phục hồi xoang trám loại II bằng Tetric N-Bond Self-Etch/ Tetric® N-Ceram Bulk Fill (nhóm 1);
OptiBond All-In-One/ Sonic Fill (nhóm 2); G-Bond/G-ænial Universal Flo (nhóm 3) và 2 nhóm chứng. Cả 5
nhóm đều trải qua 500 chu trình nhiệt và nhuộm xanh methylen 2% trong 24 giờ. Đánh giá vi kẽ bán định lượng
bằng thang đo điểm số và định lượng bằng đo đạc trên hình ảnh dưới kính hiển vi phân cực.
Kết quả: Theo phương pháp bán định lượng, tại thành nướu, không có sự khác biệt về vi kẽ của nhóm 2 và
nhóm 3 (p > 0,05). Tại mặt nhai, không có sự khác biệt về vi kẽ của nhóm 1 và nhóm 3 (p > 0,05) ( kiểm định
Mann-Whitney). Theo phương pháp định lượng, độ dài xâm nhập phẩm nhuộm trung bình của nhóm 2 < nhóm 3
< nhóm 1, tuy nhiên khác biệt là không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm 3 và nhóm 1 (Turkey - p > 0,05 ).
Kết luận: Khả năng hạn chế vi kẽ của các vật liệu lần lượt là: nhóm 2>nhóm 3>nhóm 1.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng hạn chế vi kẽ của composite trám một khối và composite bơm trám từng lớp (Nghiên cứu in vitro), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 128
KHẢ NĂNG HẠN CHẾ VI KẼ CỦA COMPOSITE TRÁM MỘT KHỐI
VÀ COMPOSITE BƠM TRÁM TỪNG LỚP (NGHIÊN CỨU IN VITRO)
Trần Hồng Xuân*, Hoàng Tử Hùng**, Phạm Văn Khoa**
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh vi kẽ trên phục hồi xoang trám loại II của ba hệ thống keo dán và composite khác nhau.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 54 răng cối nhỏ người đã nhổ chia ngẫu nhiên thành 5 nhóm.
Thực hiện phục hồi xoang trám loại II bằng Tetric N-Bond Self-Etch/ Tetric® N-Ceram Bulk Fill (nhóm 1);
OptiBond All-In-One/ Sonic Fill (nhóm 2); G-Bond/G-ænial Universal Flo (nhóm 3) và 2 nhóm chứng. Cả 5
nhóm đều trải qua 500 chu trình nhiệt và nhuộm xanh methylen 2% trong 24 giờ. Đánh giá vi kẽ bán định lượng
bằng thang đo điểm số và định lượng bằng đo đạc trên hình ảnh dưới kính hiển vi phân cực.
Kết quả: Theo phương pháp bán định lượng, tại thành nướu, không có sự khác biệt về vi kẽ của nhóm 2 và
nhóm 3 (p > 0,05). Tại mặt nhai, không có sự khác biệt về vi kẽ của nhóm 1 và nhóm 3 (p > 0,05) ( kiểm định
Mann-Whitney). Theo phương pháp định lượng, độ dài xâm nhập phẩm nhuộm trung bình của nhóm 2 < nhóm 3
0,05 ).
Kết luận: Khả năng hạn chế vi kẽ của các vật liệu lần lượt là: nhóm 2>nhóm 3>nhóm 1.
Từ khoá: composite trám một khối, vi kẽ.
ABSTRACT
THE ABILITY OF COMPOSITE BULK FILL AND COMPOSITE INJECTABLE INCREMENT IN
REDUCING MICROLEAKAGE (IN VITRO STUDY)
Tran Hong Xuan, Hoang Tu Hung, Pham Van Khoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 128 - 134
Objective: The objective of this study was to compare the micro leakage of standardized Class II cavities
among three different bonding and composite systems.
Materials and method: Fifty-four non-carious, extracted human premolars were divided into 5 groups.
Standardized Class II cavities were prepared and restorations were done with the following materials: Tetric N-
Bond Self-Etch/ Tetric® N-Ceram Bulk Fill (Group 1), OptiBond All-In-One/ Sonic Fill (Group 2), G-Bond/G-
ænial Universal Flo (Group 3). The specimens were thermo cycled, immersed in 2% methylene blue for 24 hours,
then cut and examined for micro leakage at gingival and occlusal wall. Micro leakage was evaluated by semi-
quantitative method with ranks score and quantitative method by measuring the length of micro leakage on the
image under polarizing microscope using Auto CAD software.
Results: According to semi-quantitative method, there was no statistically significant difference of the micro
leakage between group 2 and group 3 (p> 0.05) at gingival and occlusal walls (Mann-Whitney test). According to
quantitative methods, the average of dye penetration length in group 2 was less than in group 3 and greatest in
group 1, but there was no statistically significant difference between group 1 and group 3 (Turkey - p> 0.05).
Conclusions: The ability of materials in the reducing micro leakage was greatest in group 2, than group 3
and group 1, respectively.
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM
** Bộ môn Chữa Răng Nội Nha, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Hồng Xuân ĐT: 0913528184 Email: drtranhongxuan@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 129
Key words: composite bulk fills micro leakage.
MỞ ĐẦU
Composite nha khoa được xem là vật liệu
trám phổ biến nhất hiện nay(2). Bên cạnh những
ưu điểm về thẩm mỹ, tiết kiệm mô
răngcomposite nha khoa vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế, trong đó, sự co khi trùng hợp là một
trong những khuyết điểm lớn nhất. Để khắc
phục sự co này, kỹ thuật trám từng lớp được đề
nghị tuy nhiên vẫn chưa có những bằng chứng
thuyết phục rằng kỹ thuật này giảm được vi kẽ.
Bề dày trùng hợp không quá 2mm cũng là một
hạn chế lớn của composite. Trước đây, đối với
những xoang trung bình và lớn, quy trình trám
trở nên nhiều công đoạn do bắt buộc dùng kỹ
thuật trám từng lớp và đòi hỏi phải cô lập trong
thời gian kéo dài. Một vài năm gần đây,
composite trám một khối (“composite bulk fill”)
được giới thiệu ra thị trường với những cải tiến
về công thức và đặc biệt độ sâu khi trùng hợp
lên đến 4mm(2,11). Sử dụng loại composite mới
này, bác sĩ răng hàm mặt có thể thao tác theo kỹ
thuật trám một khối, tiết kiệm thời gian, và hạn
chế kẽ hở giữa các lớp vật liệu so với kỹ thuật
trám từng lớp. Thêm vào đó, những thay đổi
trong từng thành phần của mỗi composite mới
này cũng hướng đến một độ co thấp khi trùng
hợp, độ chịu lực cao và thẩm mỹ ưu việt hơn.
Hiện nay, trên thị trường Việt Nam cũng đã xuất
hiện vài loại composite một khối như Tetric® N-
Ceram Bulk Fill (Ivoclar Vivadent) và Sonic Fill
(Kerr). Độ nhớt của composite cũng là một trong
những yếu tố quyết định sự tiếp hợp thành
xoang của vật liệu. Composite lỏng cho độ lan
chảy tốt lại có độ co khi trùng hợp lớn và dễ bị
mài mòn. Composite đặc cho bề mặt cứng
nhưng dễ tạo khoảng trống với thành, góc
xoang, khó thao tác. Composite bơm (“composite
injectable”) là loại composite kết hợp những ưu
điểm của composite lỏng và composite đặc, có
độ nhớt thấp và bề mặt cứng hơn, chống mài
mòn, có thể dùng trám răng sau. Hiện nay, trên
thị trường đã có loại composite bơm đầu tiên là
G-ænial Universal Flo.
Như vậy, nếu thực tế giống như tuyên bố
của nhà sản xuất, thì những sản phẩm mới đầy
ưu điểm và tiềm năng này sẽ rất hữu ích trên
lâm sàng, từ đó có thể làm thay đổi thói quen sử
dụng composite của người bác sĩ răng hàm mặt
cũng như mở ra những hướng nghiên cứu và
thực hành hoàn toàn mới. Tuy vậy đây là vấn đề
khá mới nên chưa có nhiều nghiên cứu ở cả Việt
Nam và trên thế giới để xác minh về những đặc
tính này. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
so sánh vi kẽ (dựa trên phương pháp bán định
lượng và định lượng) của xoang trám loại II sử
dụng ba hệ thống phục hồi composite trực tiếp:
Tetric N-Bond Self-Etch/ Tetric® N-Ceram Bulk
Fill, OptiBond All-In-One/ Sonic Fill, G-Bond/G-
ænial Universal Flo. Trong nghiên cứu cũng đề
nghị một phương pháp xác định vi kẽ mới bằng
đo đạc trên hình ảnh chụp dưới kính hiển vi
phân cực.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trong phòng thí
nghiệm (in vitro).
Đối tượng, vật liệu, phương tiện nghiên
cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 54 răng cối nhỏ người,
nhổ vì lí do chỉnh hình răng mặt. Các răng được
làm sạch, khử khuẩn trong dung dịch 0,5%
Chloramine T và bảo quản trong nước muối sinh
lý 0,9% cho đến khi sử dụng(5).
Tạo xoang và thực hiện phục hồi
Sửa soạn xoang loại II phía gần hoặc phía
xa (NT: 4mm, GX: 1,5 mm, nhai-nướu: 4 mm),
thành nướu trên đường nối men xê măng
1mm. Chia ngẫu nhiên vào 3 nhóm thử
nghiệm (16 răng/nhóm) và 2 nhóm chứng (3
răng/nhóm). Mỗi răng được trám ngay sau khi
tạo xoang xong.
Nhóm 1: Thực hiện phục hồi với keo dán tự
xoi mòn Tetric N-Bond Self-Etch và composite
một khối Tetric® N-Ceram Bulk Fill,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 130
Nhóm 2: Thực hiện phục hồi với keo dán tự
xoi mòn OptiBond All-In-One và composite một
khối Sonic Fill.
Nhóm 3: Thực hiện phục hồi với keo dán tự
xoi mòn G-Bond và composite bơm trám từng
lớp G-ænial Universal Flo.
Nhóm chứng 1: tạo xoang nhưng không
thực hiện phục hồi
Nhóm chứng 2: thực hiện các phục hồi giống
nhóm 1, 2, 3
Hoàn tất và đánh bóng miếng trám.
Chu trình nhiệt
Cho tất cả 5 nhóm qua chu trình nhiệt với
500 chu kỳ nhiệt giữa hai mức nhiệt độ tối đa
550C ± 10C và 50C ± 10C, thời gian ngưng tại mỗi
điểm nhiệt là 25 giây và thời gian chuyển đổi là 5
giây.
Phủ lớp cách ly
Các răng được bít kín chóp và quét sơn cách
ly toàn bộ răng trừ phần phục hồi và 1mm mô
răng xung quanh bờ miếng trám. Đối với nhóm
chứng 1, quét sơn cách ly lên toàn bộ răng trừ
phần tạo xoang chưa phục hồi và 1mm mô răng
xung quanh xoang. Đối với nhóm chứng 2, quét
sơn cách ly phủ kín toàn bộ phục hồi và mô răng.
Nhuộm
Ngâm mẫu vào dung dịch nhuộm xanh
methylen 2% trong 24 giờ.
Các răng sau đó được rửa sạch dung dịch
nhuộm và chôn trong khối nhựa tự cứng trong
suốt.
Cắt răng
Cắt đôi răng theo chiều gần xa qua giữa
miếng trám bằng đĩa cắt kim cương (bề dày
0,35mm) có nước làm mát. Thay đĩa sau mỗi 2
răng được cắt. Đánh bóng mặt cắt bằng tay với
giấy nhám từ 800-1000 grid. Sau đó, mẫu được
bảo quản khô trong hộp kín, mã hoá và chuyển
đến quan sát viên.
Đánh giá vi kẽ
Đánh giá vi kẽ bằng phương pháp bán định
lượng:
Dùng thang đo của Ferrari (1996).
Các mẫu được đánh giá theo kiểu “mù
đơn” bởi hai quan sát viên độc lập theo cùng
thang đánh giá và ghi vào phiếu đánh giá theo
mã số của mẫu. Người đánh giá quan sát dưới
kính hiển vi nổi, độ phóng đại 30 lần và đưa ra
kết quả dựa trên thang điểm từ 0 đến 3.
Tại thành nướu
0: không có sự thâm nhập của chất nhuộm
1: sự thâm nhập của chất nhuộm không quá
½ thành nướu
2: sự thâm nhập của chất nhuộm vượt quá ½
thành nướu nhưng chưa đến thành trục
3: sự thâm nhập của chất nhuộm đến hoặc
vượt qua thành trục
Tại men trên thành trục mặt nhai
0: không có sự thâm nhập của chất nhuộm
1: sự thâm nhập của chất nhuộm không quá
½ bề dày lớp men
2: sự thâm nhập của chất nhuộm vượt quá ½
bề dày lớp men nhưng chưa đến đường nối men
- ngà
3: sự thâm nhập của chất nhuộm đến hoặc
vượt qua đường nối men – ngà
Sau đó kết quả được so sánh, đối chiếu và
cả hai quan sát viên thống nhất lại một kết quả
chung cho những mẫu bất tương đồng.
Đánh giá vi kẽ bằng phương pháp định
lượng
Quan sát dưới kính hiển vi phân cực Nikon
Eclipse LV100POL ở độ phóng đại 50 lần. Chụp
ảnh miếng trám dưới kính hiển vi bằng máy
chụp kỹ thuật số Nikon E8400 (gắn cố định với
kính). Dùng phần mềm Auto CAD để đo đạc.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 131
KẾT QUẢ
Nhóm chứng
Kết quả 100% thành xoang bị nhuộm xanh
methylene ở nhóm tạo xoang nhưng không
trám, và 100% không xâm nhập phẩm nhuộm ở
nhóm bôi cách ly toàn bộ bề mặt răng và miếng
trám cho thấy phương pháp nhuộm và cách ly
có hiệu quả.
Vi kẽ đánh giá theo thang điểm số mức độ
xâm nhập
Mức độ vi kẽ đánh giá tại thành nướu và tại
mặt nhai được trình bày trong bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1. Mức độ vi kẽ đánh giá tại thành nướu
Nhóm Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 Tổng
1 0 0 0 16 16
2 5 4 4 3 16
3 4 2 1 9 16
Tại thành nướu, mức độ vi kẽ của nhóm 2 và
3 là tương đương nhau và ít vi kẽ hơn nhóm 1
(kiểm định Mann- Whitney).
Bảng 2. Mức độ vi kẽ đánh giá tại mặt nhai
Nhóm Độ 0 Độ 1 Độ 2 Độ 3 Tổng
1 2 2 0 12 16
2 11 5 0 0 16
3 0 7 0 9 16
Tại mặt nhai, mức độ vi kẽ của nhóm 1 và 3
là tương đương nhau và nhiều vi kẽ hơn nhóm 2
(kiểm định Mann-Whitney).
Bảng 3. Số lượng vi kẽ quan sát được ở các nhóm
Nhóm Không có vi
kẽ
Mặt
nhai
Vi kẽ thành
nướu
Cả hai vị
trí
1 0 14 16 14
2 4 5 11 4
3 0 16 12 12
Tổng 4 35 39 30
Kết quả về số lượng mẫu có xâm nhập phẩm
nhuộm cho thấy số lượng mẫu có vi kẽ chiếm đa
số 44/48 mẫu, chiếm tỉ lệ 91,67%; số lượng mẫu
không có vi kẽ chiếm tỉ lệ 8,33% (Bảng 3).
Định lượng vi kẽ bằng đo đạc trên hình ảnh
chụp dưới kính hiển vi phân cực
Theo phương pháp đo độ dài xâm nhập
phẩm nhuộm, kết quả nghiên cứu cho thấy độ
dài vi kẽ của ba nhóm khác biệt có ý nghĩa thống
kê (Bảng 4). Trong đó độ dài vi kẽ nhóm phục
hồi bằng composite Tetric® N-Ceram Bulk
Fill/Tetric N-Bond Self-Etch > G-ænial Universal
Flo/G-Bond > Sonic Fill/OptiBond All-In-One,
tuy nhiên sự khác biệt giữa nhóm phục hồi bằng
G-Bond/G-ænial Universal Flo và nhóm
OptiBond All-In-One/Sonic Fill là không có ý
nghĩa thống kê (Bảng 5).
Bảng 4. Chiều dài xâm nhập phẩm nhuộm tại giao
diện miếng trám và mô răng ở vị trí mặt cắt
Nhóm n TB (mm) ĐLC KTC 95% Giá trị p
1 16 4,093 1,194 3,456 – 4,729
0,000* 2 16 1,449 1,201 0,809 – 2,090
3 16 2,855 1,870 1,859 – 3,852
Phân tích ANOVA một yếu tố
*: p < 0,001, khác biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng5. So sánh bắt cặp mức độ vi kẽ giữa các nhóm
Nhóm 1 2 3
1 - 0,000* 0,052
k
2 - 0,024*
3 -
Kiểm định Mann-Whitney
*: p < 0,001, khác biệt có ý nghĩa thống kê
k: khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05)
BÀN LUẬN
Phương pháp đánh giá
Hầu hết những phương pháp hiện hành mã
hóa mức độ thâm nhập chất nhuộm và được
thống kê theo thang đo lường thứ tự 0 - 3, 0 - 4
hoặc A, B, C. Trên thực tế, việc quan sát trực tiếp
dưới kính có thể cho những kết quả chủ quan.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đề nghị một
phương pháp xác định chiều dài vi kẽ thông qua
chụp hình dưới kính hiển vi phân cực và đo
bằng phần mềm Auto CAD. Phương pháp này
sử dụng biến định lượng liên tục, có giá trị phân
biệt hơn thang đo lường phân hạng, cho kết quả
có giá trị và tổng quát hơn.
Việc chuẩn bị mẫu để quan sát dưới kính
hiển vi phân cực cũng tương tự như quan sát
dưới kính soi nổi mà không cần thêm bất kỳ giai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 132
đoạn xử lý mẫu nào khác, dễ dàng lưu trữ dữ
liệu, thuận tiện cho nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Wahab về vi kẽ của
composite, việc sử dụng AutoCAD sẽ giúp
tăng độ chính xác lên 20 lần so với phương
pháp đánh giá bằng điểm số thông thường(14).
Tuy nhiên tác giả Wahab chỉ dùng máy chụp
hình chụp lại mẫu và chuyển dữ liệu vào Auto
CAD để đo. Trong khi đó, chúng tôi lại chụp
hình dưới kính hiển vi phân cực độ phóng đại
50 lần, kết hợp thước trắc vi làm công cụ để
chuyển đổi tỉ lệ xích trong CAD, sự xác định
kích thước xoang và độ xâm nhập phẩm
nhuộm trong nghiên cứu của chúng tôi có độ
chính xác rất cao.
Việc đánh giá vi kẽ chỉ dựa trên 1 lát cắt
trong nghiên cứu này có thể cho kết quả hạn chế.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy sự khác
biệt giữa quan sát trên 1, 2 hay 3 lát cắt là khác
nhau không có ý nghĩa(8).
Bàn luận về kết quả nghiên cứu
Về vi kẽ và các vấn đề liên quan
Kết quả cho thấy độ dài vi kẽ giữa ba nhóm
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Nhóm phục hồi
bằng Tetric® N-Ceram Bulk Fill và hệ thống dán
Tetric N-Bond Self-Etch là có vi kẽ cao nhất với
tất cả các mẫu đều có sự thâm nhập chất nhuộm
(chiếm tỉ lệ 100%) và trung bình thâm nhập
phẩm nhuộm là 4,093mm. Độ dài xâm nhập
phẩm nhuộm ở nhóm sử dụng G-ænial
Universal Flo + G-Bond đứng thứ nhì với trung
bình là 2,855mm, nhưng cũng có tỉ lệ xâm nhập
phẩm nhuộm là 100%. Nhóm phục hồi với Sonic
Fill + OptiBond All-In-One có độ xâm nhập
phẩm nhuộm trung bình là 1,449mm ít nhất
trong ba nhóm và có 25% mẫu không xâm nhập
phẩm nhuộm. Như vậy, composite một khối
Sonic Fill và keo dán OptiBond All-In-One cho
thấy khả năng trám kín tốt nhất trong 3 nhóm.
Trong nghiên cứu này G-ænial Universal Flo
với kỹ thuật trám từng lớp cho kết quả tỉ lệ và độ
dài vi kẽ xâm nhập nhiều hơn có ý nghĩa so với
hệ thống Sonic Fill nhưng lại ít hơn Tetric® N-
Ceram Bulk Fill. Như vậy, có thể kỹ thuật trám
từng lớp giúp làm giảm vi kẽ, tuy nhiên hệ
thống Sonic Fill đã chứng minh trám một khối
vẫn có thể thực hiện được và cho một kết quả
khả quan.
Trong ba loại composite nghiên cứu thì G-
ænial Universal Flo có độ co thể tích khi trùng
hợp cao nhất 3,95%. Theo các nghiên cứu trên
thế giới, độ co khi trùng hợp của Tetric® N-
Ceram Bulk Fill là 1,94% không chênh lệch nhiều
với Sonic Fill là 1,6 -1,99%, thuộc nhóm
composite có độ co thấp. Tuy nhiên, vật liệu có
độ co thấp không thật sự làm giảm ngẫu lực co
khi trùng hợp(7). Ngẫu lực co phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là tính chất
của vật liệu phục hồi và tác nhân dán(9). Theo
Fabiannelli và cs, các composite có sự co thể tích
trong quá trình trùng hợp khoảng 2,6% đến
4,8%, trong khi đó các tác nhân dán có độ bền
dán vào ngà hơn 20 Mpa, vượt qua cả lực co tạo
ra trong quá trình trùng hợp (13 đến 17 Mpa),
tuy nhiên tổng lực co vẫn lớn hơn độ bền dán
ảnh hưởng đến sự tiếp hợp bờ miếng trám(4).
Hệ thống Sonic Fill kết hợp keo dán
OptiBond All-In-One cho kết quả ít vi kẽ hơn có
ý nghĩa thống kê so với hai nhóm còn lại có thể
do công thức độc đáo cho đặc tính có thể chuyển
đổi độ nhớt của Sonic Fill dưới tác động sóng
âm. Thành phần composite của Sonic Fill chứa
hỗn hợp Bis-GMA, Bis-EMA là những monomer
có độ quánh cao kết hợp với TEGDMA lỏng. Lúc
đầu khi đặt composite vào trong xoang, tính
chảy lỏng giúp composite có thể bao phủ tốt bề
mặt của xoang trám, sau đó khi ngừng tác động
âm, composite chuyển thành trạng thái độ nhớt
cao phù hợp cho công việc điêu khắc, tạo hình
miếng trám. Không dùng tác động âm nhưng
bản chất chảy lỏng của TEGDMA cùng sự thay
thế Bis-GMA bằng UDMA và Bis-MEPP trong
công thức G-ænial Universal Flo cũng cho phép
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 133
vật liệu tiếp hợp thành xoang tốt hơn. Tetric® N-
Ceram Bulk Fill có độ quánh cao hơn hẳn so với
Sonic Fill và G-ænial Universal Flo. Điều này có
thể đã ảnh hưởng đến sự tiếp hợp bờ của
composite khiến mức độ vi kẽ cao hơn.
Hệ số giãn nở nhiệt của composite resins lớn
hơn cấu trúc răng (9 - 11ppm/C0) khoảng ba lần
và điều này thay đổi theo tỷ lệ phần trăm thành
phần hạt độn(6). Composite resins với hàm lượng
hạt độn thấp hơn, sẽ có một sự giãn nở nhiệt cao
hơn so với vật liệu có hàm lượng hạt độn cao
hơn. Composite nhóm 2 Sonic Fill có phần trăm
thể tích hạt độn là 83% cao hơn so với nhóm
Tetric® N-Ceram Bulk Fill và G-ænial Universal
Flo là (61% và 50%), do đó tính chất composite
được cải thiện hơn.
Về keo dán
Những khác biệt về vi kẽ có thể do sự khác
nhau về hệ thống dán. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, nhóm sử dụng OptiBond All-In-One
cho kết quả ít vi kẽ nhất, tương tự trong nghiên
cứu của Dalli và cs (2013)(3), Vijay (2012)(13).
Keo dán OptiBond All-In-One có một sự kết
hợp độc đáo của ba yếu tố: ethanol, acetone và
nước, có khả năng loại thải nước trong keo
dán nhiều hơn và giảm cơ hội tạo thành
khoảng trống. Trong khi đó, Tetric N-Bond
Self-Etch chỉ có nước làm dung môi. Nhiệt độ
sôi cao và áp suất hơi nước thấp đồng nghĩa
với dung môi này rất khó khăn để loại bỏ
nước sau khi được đặt vào răng. Tay và cs cho
thấy nước dư thừa trong lớp keo ở thành
xoang sẽ dẫn đến ngậm nước(10).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 44/48
mẫu phát hiện có sự xâm nhập phẩm nhuộm,
chiếm tỉ lệ 91,67%. Như vậy, hầu hết các mẫu
đều có vi kẽ ở thành nướu, mặt nhai hoặc cả
hai. Nghiên cứu của Moorthy và cs (2012) về
biến dạng múi và vi kẽ ở phục hồi răng cối
nhỏ với vật liệu composite một khối lỏng cho
thấy tỉ lệ mẫu có sự thâm nhập phẩm nhuộm
là 100%(6). Nghiên cứu invitro của Safa Tuncer
và cs (2013) về hiệu quả của 2 composite trám
một khối trên răng đã điều trị nội nha cho
thấy tỉ lệ mẫu có sự thâm nhập phẩm nhuộm
thành nướu là 98,8%(12). Trong nghiên cứu của
Cao Ngọc Khánh (2013) về so sánh vi kẽ trên
xoang loại II sử dụng composite răng sau trám
một khối có và không có lót lớp composite
lỏng tỉ lệ mẫu có sự thâm nhập phẩm nhuộm
thành nướu là 83%. Như vậy từ các kết quả về
số lượng mẫu có vi kẽ luôn chiếm đa số trên
tổng số mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi
và các nghiên cứu khác trên thế giới cho thấy
vi kẽ vẫn là thử thách mà những vật liệu mới,
kỹ thuật mới chưa chinh phục được(1).
KẾT LUẬN
Nhóm phục hồi bằng composite một khối
Sonic Fill cho kết quả vi kẽ ít nhất và khác biệt có
ý nghĩa thống kê so với nhóm dùng G-ænial
Universal Flo và Tetric® N-Ceram Bulk Fill.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Ngọc Khánh, Đinh Thị Khánh Vân, Bùi Huỳnh Anh
(2014). So sánh vi kẽ trên xoang loại II