ục tiêu: Khảo sát tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt và mối
tương quan giữa tổn thương cơ với đặc điểm lỗ gãy, dịch tễ và biểu hiện lâm sàng.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp, thực hiện trên 60 trường hợp gãy sàn có biểu hiện
tổn thương cơ trực dưới.
Kết quả: 71,7% gãy sàn theo kiểu gián tiếp, 93,3% có bề ngang lỗ gãy ≥10mm, 93,3% có chiều dài ≥20mm,
và 78,3% có độ trũng ≥10mm. Kích thước trung bình của lỗ gãy là 16,2x28,8x13,6mm với diện tích trung bình
là 372mm2, và thể tích trung bình là 3531mm3. Đặc điểm về rối loạn vận nhãn bao gồm chỉnh thị chiếm 83,4%,
lé đứng lên chiếm 10,0% và lé đứng xuống chiếm 6,6%. Hạn chế vận nhãn lên chiếm tỷ lệ 86,7% với mức độ
hạn chế trung bình là -2,2 độ, hạn chế vận nhãn xuống chiếm 40,0% với mức độ hạn chế trung bình là -0,8 độ.
Tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới qua bao gồm xơ dính bao cơ chiếm 58,3%, rách thân cơ chiếm 31,7%,
kẹt cơ vào lỗ gãy chiếm 6,7%, và đứt rời cơ chiếm 3,3%. Tổn thương kẹt cơ vào lỗ gãy chỉ gặp ở các lỗ gãy có bề
ngang dưới 10mm với biểu hiện lâm sàng đặc trưng là lé đứng xuống và thử nghiệm kéo cơ lên trên dương tính.
Tổn thương xơ dính bao cơ chỉ có biểu hiện hạn chế vận nhãn lên, trong khi mắt vẫn chỉnh thị và vận nhãn
xuống bình thường. Tổn thương rách thân cơ thường có hạn chế vận nhãn xuống không hoàn toàn và mắt lé
đứng lên hoặc chỉnh thị. Tổn thương đứt rời cơ có đặc điểm lâm sàng là lé đứng lên và vận nhãn lên bình
thường.
Kết luận: Các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt bao gồm xơ dính bao cơ,
rách thân cơ, đứt rời cơ và kẹt cơ vào lỗ gãy. Các hình thái này có thể chẩn đoán được trước mổ qua các đặc điểm
về lé đứng, thử nghiệm kéo cơ và rối loạn vận nhãn.
10 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 122
KHẢO SÁT CÁC HÌNH THÁI TỔN THƯƠNG CƠ TRỰC DƯỚI
SAU CHẤN THƯƠNG GÃY SÀN HỐC MẮT
Trần Kế Tổ*, Lê Minh Thông*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt và mối
tương quan giữa tổn thương cơ với đặc điểm lỗ gãy, dịch tễ và biểu hiện lâm sàng.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có can thiệp, thực hiện trên 60 trường hợp gãy sàn có biểu hiện
tổn thương cơ trực dưới.
Kết quả: 71,7% gãy sàn theo kiểu gián tiếp, 93,3% có bề ngang lỗ gãy ≥10mm, 93,3% có chiều dài ≥20mm,
và 78,3% có độ trũng ≥10mm. Kích thước trung bình của lỗ gãy là 16,2x28,8x13,6mm với diện tích trung bình
là 372mm2, và thể tích trung bình là 3531mm3. Đặc điểm về rối loạn vận nhãn bao gồm chỉnh thị chiếm 83,4%,
lé đứng lên chiếm 10,0% và lé đứng xuống chiếm 6,6%. Hạn chế vận nhãn lên chiếm tỷ lệ 86,7% với mức độ
hạn chế trung bình là -2,2 độ, hạn chế vận nhãn xuống chiếm 40,0% với mức độ hạn chế trung bình là -0,8 độ.
Tỷ lệ các hình thái tổn thương cơ trực dưới qua bao gồm xơ dính bao cơ chiếm 58,3%, rách thân cơ chiếm 31,7%,
kẹt cơ vào lỗ gãy chiếm 6,7%, và đứt rời cơ chiếm 3,3%. Tổn thương kẹt cơ vào lỗ gãy chỉ gặp ở các lỗ gãy có bề
ngang dưới 10mm với biểu hiện lâm sàng đặc trưng là lé đứng xuống và thử nghiệm kéo cơ lên trên dương tính.
Tổn thương xơ dính bao cơ chỉ có biểu hiện hạn chế vận nhãn lên, trong khi mắt vẫn chỉnh thị và vận nhãn
xuống bình thường. Tổn thương rách thân cơ thường có hạn chế vận nhãn xuống không hoàn toàn và mắt lé
đứng lên hoặc chỉnh thị. Tổn thương đứt rời cơ có đặc điểm lâm sàng là lé đứng lên và vận nhãn lên bình
thường.
Kết luận: Các hình thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương gãy sàn hốc mắt bao gồm xơ dính bao cơ,
rách thân cơ, đứt rời cơ và kẹt cơ vào lỗ gãy. Các hình thái này có thể chẩn đoán được trước mổ qua các đặc điểm
về lé đứng, thử nghiệm kéo cơ và rối loạn vận nhãn.
Từ khoá: cơ trực dưới, gãy sàn hốc mắt, rối loạn vận nhãn, lé đứng.
ABSTRACT
CHARACTERS OF INJURED INFERIOR RECTUS MUSCLE IN ORBITAL FLOOR FRACTURES
Tran Ke To, Le Minh Thong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 122 - 131
Purpose: To asses a propotion of injured inferior rectus muscle in orbital floor fractures and a relation with
size of floor fractures, epidemiology and clinical manifestations.
Method: A descriptive prospective study of clinical features and their relationship with the appearances of
injured inferior rectus muscle in 90 cases of orbital foor fracture with injury of inferior rectus muscle.
Results: indirect floor fractures reached to 71.7%, average dimension of the fractures was
16.2x28.8x13.6mm, average area was 372mm2, and average volume was 3531mm3. 93.3% of floor fractures had a
width over than 10mm, 93.3% of cases had a length over than 20mm, and 78.3% of cases had a height over than
10mm. Clinical features of the eye movement included orthophoria in 83.4%, up- deviation in 10.0%, down-
deviation in 6.6%, upgaze restriction in 86.7% with an average degree being -2.2 and downgaze restriction in
40.0% with an average degree being -0.8. Features of the appareance of injured inferior muscle included the
muscle capsule adherence to surrounding orbital tissue in 58.3%, a tear of the muscle in 31.7%, the muscle
*Bộ Môn Mắt, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Trần Kế TổĐT: 0908453685 Email: bstranketo@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 123
entrapment to a floor fracture in 6.7%, a break of the muscle in 3.3%. The muscle entrapment which appeared
only in the fractures with a width less than 10mm had down-deviation and positive forced duction test as
characteristic clinical features. The muscle capsule adherence had upgaze restriction, orthophoria and normal
downgaze movement. A muscle tear had partial downgaze restriction, and up-deviation or orthophoria. The
muscle break had total downgaze restriction and up-deviation.
Conclusion: 4 types of injured inferior muscle which were the muscle capsule adherence to surrounding
orbital tissue, the muscle tear, the muscle entrapment and the muscle break could be defined before the surgery by
vertical deviation, forced duction test and types of ocular movement restriction.
Keywords: inferior rectus muscle, orbital floor fracture, ocular movement disorder, vertical deviation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sàn hốc mắt có cấu tạo bởi những lớp
xương mỏng giữa mô hốc mắt với xoang hàm
nên dễ bị gãy vỡ khi xảy ra chấn thương vùng
đầu mặt. Gãy sàn hốc mắt sau chấn thương
thường gây ảnh hưởng nặng nề về mặt thẩm
mỹ qua biểu hiện mắt thụt, mắt thấp và gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thị
giác hai mắt qua biểu hiện song thị, lé đứng và
rối loạn vận nhãn. Do vị trí giải phẫu nằm dọc
theo sàn hốc mắt nên cơ trực dưới có thể bị tổn
thương khi có vỡ sàn. Nghiên cứu về các hình
thái tổn thương cơ trực dưới sau chấn thương
gãy sàn hốc mắt và mối tương quan với các
đặc điểm lâm sàng nhằm giúp chẩn đoán tình
trạng cơ trước khi tiến hành phẫu thuật lót sàn
hốc mắt.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế tiến
cứu cắt ngang mô tả có phân tích.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các trường hợp gãy sàn hốc mắt sau chấn
thương có biểu hiện song thị hoặc lé đứng kết
hợp hạn chế vận nhãn xuống và hoặc hạn chế
vận nhãn lên với thử nghiệm kéo cơ lên trên
dương tính đến khám và điều trị tại khoa thần
kinh nhãn khoa bệnh viện Mắt Thành phố Hồ
chí minh từ 4/2007 đến 10/2008.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các trường hợp có liệt dây thần kinh vận
nhãn hoặc tổn thương các cơ khác không phải cơ
trực dưới hoặc có chống chỉ định phẫu thuật
hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp tiến hành
Ghi nhận các biến số nghiên cứu bao gồm
đặc điểm lỗ gãy sàn hốc mắt (kiểu gãy, kích
thước trung bình), tình trạng lé đứng (chỉnh
thị, lé đứng lên, lé đứng xuống), mức độ vận
nhãn lên xuống (Độ 0 khi hoạt trường cơ
100%, độ 1 khi hoạt trường cơ ≥75%, độ 2 khi
hoạt trường cơ ≥50%, độ 3 khi hoạt trường
≥25% và độ 4 khi hoạt trường <25%) và tình
trạng cơ trực dưới khi phẫu thuật thám sát.
Phân tích thống kê
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 với mức ý
nghĩa thống kê p<0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dịch tễ
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ của các bệnh nhân
T số % p
Nam 45 75%
Giới tính
Nữ 15 25%
0,001
TNGT 50 83,3%
Đánh nhau 6 10% Nguyên nhân
Tai nạn sinh hoạt 4 6,7%
0,001
HCM 20 33,3%
Nơi cư trú
Tỉnh thành khác 4 6,7%
0,001
6-17 tuổi 6 10%
18-60 tuổi 53 88,3%
61-65 tuổi 1 1,7%
0,001
Tuổi
Trung bình 28±11
Trước ½ tháng 11 18,3%
Sau ½ tháng 49 81,7% Nhập viện
Trung bình 2,8±5,3
0,001
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 124
Đặc điểm về lỗ gãy sàn hốc mắt
Bảng 2: Đặc điểm về lỗ gãy sàn hốc mắt
Tsố % p
Gãy đơn thuần 27 45,0%
Gãy phối hợp 33 55,0%
0,750
Gián tiếp 49 71,7%
Kiểu gãy
sàn
Trực tiếp 11 18,3%
0,001
<10mm 4 6,7%
Bề ngang
≥10mm 56 93,3%
0,001
<20mm 4 6,7%
Chiều dài
≥20mm 56 93,3%
0,001
<10mm 13 21,7%
Độ trũng
≥10mm 47 78,3%
0,001
Bề ngang 16,2±3,5
Chiều dài 28,8±4,0
Độ trũng 13,6±5,8
Diện tích 372±107
Kích thước
trung bình
Thể tích 3531±1984
Đặc điểm về lé đứng và vận nhãn
Bảng 3: Đặc điểm về lé đứng và vận nhãn
Tsố % p
Không lé 50 83,4%
Lé đứng lên 6 10,0% Lé đứng
Lé đứng xuống 4 6,6%
0,001
Độ 0 8 13,3%
Độ 1 – 3 52 86,7%
HCVN
lên
Độ 4 0 0%
0,001
Độ 0 36 60,0%
Độ 1 – 3 22 36,7%
HCVN
xuống
Độ 4 2 3,3%
0,197
Tỷ lệ hình thái tổn thương cơ trực dưới:
Bảng 4: Tỷ lệ hình thái tổn thương cơ trực dưới
Tsố % p
Xơ dính bao cơ 35 58,3%
Rách thân cơ 19 31,7%
Kẹt cơ lỗ gãy 4 6,7%
Đứt rời thân cơ 2 3,3%
0.001
Tương quan giữa hình thái tổn thương cơ
với đặc điểm lỗ gãy, lé đứng và HCVN
Bảng 5: Tương quan giữa xơ dính bao cơ trực dưới
với đặc điểm lỗ gãy, lé đứng và HCVN
Xơ dính bao cơ
Không Có
p-χ2
Gãy đơn thuần 13 14
Gãy phối hợp 12 21
0,434
Gãy gián tiếp 20 29
Kiểu gãy
sàn
Gãy trực tiếp 5 6
0,778
Xơ dính bao cơ
Không Có
p-χ2
<10mm 4 0
Bề ngang
≥10mm 21 35
0,026
<20mm 2 2
Chiều dài
≥20mm 23 33
0,557
<10mm 6 7
Độ trũng
≥10mm 19 28
0,758
Không lé 15 35
Lé đứng lên 6 0 Lé đứng
Lé đứng xuống 4 0
0,001
Độ 0 8 0
Độ 1-3 17 35 HCVN lên
Độ 4 0 0
0,001
Độ 0 1 35
Độ 1-3 22 0 HCVN xuống
Độ 4 2 0
0,001
Bảng 6: Tương quan giữa rách thân cơ trực dưới với
đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN
Rách thân cơ
Không Có
p-χ2
Gãy đơn thuần 19 8
Gãy phối hợp 22 11
0,788
Gãy gián tiếp 33 16
Kiểu gãy
sàn
Gãy trực tiếp 8 3
0,729
<10mm 4 0
Bề ngang
≥10mm 37 19
0,297
<20mm 3 1
Chiều dài
≥20mm 38 18
0,767
<10mm 9 4
Độ trũng
≥10mm 32 15
0,937
Không lé 35 15
Lé đứng lên 2 4 Lé đứng
Lé đứng xuống 4 0
0,045
Độ 0 2 6
Độ 1 – 3 39 13 HCVN lên
Độ 4 0 0
0,010
Độ 0 36 0
Độ 1-3 3 19 HCVN xuống
Độ 4 2 0
0,001
Bảng 7: Tương quan giữa kẹt cơ trực dưới vào lỗ gãy
với đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN.
Kẹt cơ lỗ gãy
Không Có
p-χ2
Gãy đơn thuần 23 4
Gãy phối hợp 33 0
0,063
Gãy gián tiếp 46 3
Kiểu gãy
sàn
Gãy trực tiếp 10 1
0,556
<10mm 0 4
Bề ngang
≥10mm 56 0
0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 125
Kẹt cơ lỗ gãy
Không Có
p-χ2
<20mm 3 1
Chiều dài
≥20mm 53 3
0,247
<10mm 9 2
Độ trũng
≥10mm 47 2
0,458
Không lé 50 0
Lé đứng lên 6 0 Lé đứng
Lé đứng xuống 0 4
0,001
Độ 0 8 0
Độ 1 – 3 48 4 HCVN lên
Độ 4 0 0
0,555
Độ 0 35 1
Độ 1-3 19 3 HCVN xuống
Độ 4 2 0
0,292
Bảng 8: Tương quan giữa đứt rời cơ trực dưới với
đặc điểm lỗ gãy sàn, lé đứng và HCVN
Đứt rời cơ
Không Có
p-χ2
Gãy đơn thuần 26 1
Gãy phối hợp 32 1
0,063
Gãy gián tiếp 48 1
Kiểu gãy
sàn
Gãy trực tiếp 10 1
0,556
<10mm 4 0
Bề ngang
≥10mm 54 2
0,001
<20mm 4 0
Chiều dài
≥20mm 54 2
0,247
<10mm 12 1
Độ trũng
≥10mm 46 1
0,458
Không lé 50 0
Lé đứng lên 4 2 Lé đứng
Lé đứng xuống 4 0
0,001
Độ 0 6 2
Độ 1 – 3 52 0
Độ 4 0 0
0,555 HCVN
lên
Trung bình 2,2±1,1
Độ 0 36 0
Độ 1 – 3 22 0
Độ 4 0 2
0,292 HCVN
xuống
Trung bình 0,8 ± 1,1
BÀN LUẬN
Đặc điểm về dịch tễ
Giới tính
Tỷ lệ nam giới trong nghiên cứu là 75,0% cao
hơn nhiều so với nữ giới (p=0,001). Nhận định
này tương đồng với kết quả của những nghiên
cứu khác như Mansouri năm 2000(33) nhận thấy
giới nam chiếm 70%, Steven năm 2001(31) là 64%,
Hosal năm 2002(14) là 71,4%, Ben Simon năm
2009(3) là 74% và Wang Ning-Chia năm 2010(32) là
75,6%. Điều này được lý giải là do nam giới liên
quan nhiều đến tai nạn hơn nữ giới như lái xe
nhiều hơn, tốc độ lưu thông nhanh hơn, tham
gia nhiều hoạt động có nguy cơ chấn thương cao
hơn so với nữ giới.
Nguyên nhân chấn thương
Chấn thương do tai nạn giao thông chiếm
đa số với tỷ lệ 83,3%. Kết quả này tương
đương với các nghiên cứu khác trong nước
như Trần Đình Lập, Dương Anh Quân năm
2006(31) là 91,3%, Trịnh Xuân Trang năm 2006(32)
là 78%. Trong khi đó, nguyên nhân gãy thành
hốc mắt chiếm tỷ lệ cao nhất ở nước ngoài là
do tai nạn sinh hoạt theo Mansouri năm
2000(21) là 70% (tai nạn giao thông chỉ chiếm
30%), Hosal năm 2002(12) là 57,1% (tai nạn
giao thông chiếm 14,3%), Kyung-Chul Yoon
năm 2003(16) là 68,2% (tai nạn giao thông chiếm
9,1%), Ben Simon năm 2009(1) là 44% (tai nạn
giao thông chiếm 16%) và Wang Ning-Chia
năm 2010(30) là 43,9% (tai nạn giao thông chiếm
29,3%). Sự khác biệt này có thể được giải thích
qua phương tiện di chuyển chủ yếu ở Việt
Nam là xe gắn máy nên dễ bị chấn thương
vùng đầu mặt và hốc mắt khi bị tai nạn. Trong
khi ở nước ngoài di chuyển chủ yếu bằng
phương tiện giao thông công cộng và xe 4
bánh nên khả năng chấn thương vùng hốc mắt
thấp hơn.
Nơi cư trú
Bệnh nhân cư trú ở thành phố Hồ Chí
Minh chiếm tỷ lệ cao nhất là 33,3% so với các
tỉnh thành khác chỉ chiếm <6,7% (p=0,001). Sự
khác biệt này có thể được giải thích qua mật
độ giao thông và tỷ lệ xảy ra tai nạn giao thông
tại các thành phố lớn thường cao hơn so với
những nơi khác, tương tư như nhận định của
Scott K. McClatchey năm 2003(22).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 126
Lứa tuổi bị gãy thành hốc mắt
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu là 28 tuổi, tương đồng với kết quả
của Ozturk năm 2005(23) là 28 tuổi, thấp hơn so
với nghiên cứu của Hosal năm 2002(12) là 32 tuổi
và Ben Simon năm 2009(1) là 33 tuổi. Lứa tuổi
gặp nhiều nhất là 18 – 60 tuổi với tỷ lệ là 88,3%
(p=0,001). Trần Đình Lập, năm 2006 nhận thấy
lứa tuổi từ 18-60 chiếm tỷ lệ cao nhất là 83%(31).
Điều này có thể được lý giải là do nhóm tuổi 18-
60 thường có nhiều hoạt động dễ gây chấn
thương vùng đầu mặt như di chuyển bằng xe
gắn máy, tai nạn lao động, chơi thể thao, đánh
nhau nhiều hơn so với các lứa tuổi khác.
Thời điểm nhập viện
Thời gian từ khi chấn thương đến khi nhập
viện điều trị trung bình là 2,8 tháng, cao hơn
nhiều so với các nghiên cứu ở nước ngoài như
Mansouri năm 2000(21) là 25 ngày, Steven năm
2001 là 7,5 ngày, Hosal năm 2002(12) là 10 ngày,
Rohei Koide năm 2003(15) là 14 ngày, Kyung-
Chul Yoon năm 2003(16) là 12,8 ngày, Caroll năm
2010(3) là 7 ngày, Gosau năm 2010(11) là 2,9 ngày
và Wang Ning-Chia năm 2010(30) là 22,9 ngày.
81,75% trong tổng số bệnh nhân trong nghiên
cứu đến khám và điều trị về mắt muộn hơn ½
tháng kể từ thời điểm chấn thương. Điều này
cho thấy bệnh nhân bị gãy thành hốc mắt ở
trong nước thường đến khám và điều trị muộn
hơn nhiều so với các trường hợp gãy thành hốc
mắt ở nước ngoài. Smith năm 1984(29) cho rằng
phẫu thuật nên được thực hiện trong vòng 2
tuần sau chấn thương để giảm nguy cơ khiếm
dưỡng gây xơ teo mô liên kết hốc mắt và khối
mỡ quanh cơ trực dưới đã thoát vị qua lỗ gãy.
Đối với các trường hợp kẹt cơ vào lỗ gãy thì
Jordan năm 1998(13) cho rằng phẫu thuật nên
được tiến hành trong 2 đến 4 ngày sau chấn
thương, Sires năm 1998(27) thì cho rằng trong
trường hợp kẹt cơ có phản xạ mắt tim thì phẫu
thuật tái tạo sàn hốc mắt cần được tiến hành
khẩn cấp. Nhiều tác giả như Egbert năm 2000(9),
Ben Simon năm 2009(1), Wang Ning-Chia năm
2010(30) cũng cho rằng can thiệp phẫu thuật phục
hồi sàn hốc mắt càng sớm thì càng có nhiều khả
năng hồi phục vận nhãn sau mổ. Tuy nhiên,
Sang Hun Lee năm 2005(25) nghiên cứu các
trường hợp song thị tồn tại sau phẫu thuật nâng
sàn hốc mắt nhận thấy mức độ rối loạn chức
năng vận nhãn trước mổ càng nhiều thì khả
năng tồn tại song thị sau mổ càng lớn và việc
tiến hành phẫu thuật lót sàn sớm trong vòng 2
tuần sau chấn thương cũng không thể giúp cơ tự
hồi phục chức năng trong nhiều trường hợp.
Đặc điểm lỗ gãy sàn hốc mắt
Gãy sàn đơn thuần và gãy sàn kèm gãy các
thành khác
Bảng 1 cho thấy tỷ lệ gãy sàn phối hợp với
gãy thành khác là 55,0% khác biệt không có ý
nghĩa thống kê so với gãy sàn đơn thuần. Tỷ lệ
gãy sàn phối hợp theo nghiên cứu của Wang
Ning-Chia năm 2010(30) là 31,7% thấp hơn so với
nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể cho
thấy tình trạng gãy sàn sau chấn thương ở các
bệnh nhân trong nước nặng nề hơn so với các
nghiên cứu ở nước ngoài.
Gãy sàn trực tiếp và gãy sàn gián tiếp
Theo Fujino, năm 1980(10), gãy sàn hốc mắt
kèm theo gãy bờ dưới thường xảy ra do tác
động trực tiếp vào bờ hốc mắt nên còn được
gọi là kiểu gãy sàn trực tiếp. Trong khi đó, gãy
sàn không kèm gãy bờ dưới thường là do sự
gia tăng áp lực trong hốc mắt gián tiếp gây ra
gãy sàn nên còn được gọi là kiểu gãy sàn gián
tiếp. Bờ dưới hốc mắt ít khi bị gãy là do đặc
điểm giải phẫu rất dày và chắc chắn của bờ
dưới hốc mắt so với sàn hốc mắt vừa mỏng
manh, vừa tiếp giáp với xoang hàm to bên
dưới, lại vừa chịu sự va chạm trực tiếp của mô
hốc mắt, đặc biệt là nhãn cầu. Điều này lý giải
cho tỷ lệ kiểu gãy trực tiếp trong nghiên cứu
chỉ chiếm tỷ lệ 18,3% thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với kiểu gãy gián tiếp với bờ hốc
mắt bình thường (p=0,001).
Kích thước lỗ gãy sàn và thể tích mô thoát vị
Kích thước trung bình (ngang, dài, độ
trũng) của lỗ gãy sàn là 16,2 x 28,8 x 13,6mm,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Mắt 127
diện tích trung bình của lỗ gãy là 372mm2 và
thể tích mô thoát vị qua lỗ gãy là 3531mm3.
Các lỗ gãy sàn có bề ngang hẹp dưới 10mm
chỉ chiếm tỷ lệ 6,7% thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với lỗ gãy có bề ngang rộng từ 10mm trở
lên. Theo Egbert, năm 2000(9) và Kyung-Chul
Yoon, năm 2003(16) gãy sàn có lỗ gãy hẹp hoặc
gãy kiểu của sổ đóng thường chỉ gặp sau chấn
thương hốc mắt ở trẻ con do đặc điểm xương
của trẻ còn đàn hồi tốt hơn xương của người
trưởng thành. Như vậy tỷ lệ thấp của các lỗ gãy
hẹp <10mm được giải thích qua tỷ lệ của bệnh
nhân dưới 18 tuổi là 6,7% thấp hơn nhiều so với
93,3% bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên.
Các lỗ gãy thuộc kiểu gãy sàn sau với chiều
dài lỗ gãy từ 20mm trở lên chiếm tỷ lệ 93,3%.
Theo Seiff S.R., năm 1996(26) trong các trường
hợp gãy bung vỡ hốc mắt (blow-out fracture) thì
gãy sàn sau thường gặp hơn gãy sàn trước. Đặc
điểm này được đề cập đầu tiên bởi Pfeiffer năm
1943. Smith năm 1957(28) chứng minh qua thực
nghiệm trên sọ khô nhận thấy khi nhãn cầu bị
đẩy ra sau về trong vào vùng 25mm từ đỉnh hốc
mắt thì sàn hốc mắt ở phía sau sẽ bị vỡ bung.
Điều này được giải thích qua cấu tạo về mặt giải
phẫu, phía trước ngoài của sàn hốc mắt được tạo
nên bởi xương hàm trên và xương gò má dày
hơn nhiều so với phần xương phía sau đoạn gần
đỉnh hốc mắt tạo thành từ đầu trên của xương
khẩu cái. Mặt khác, sàn hốc mắt có độ dốc
hướng lên trên nên phần sàn phía sau sẽ chịu
phần lớn lực tác động trực tiếp từ nhãn cầu sau
chấn thương(22).
78,3% bệnh nhân có độ trũng lỗ gãy sàn từ
10mm trở lên. Trịnh Xuân Trang, năm 2009(32)
nhận thấy khi độ trũng trên 10mm thì mắt
thường hạ thấp trên 1,6mm và kích thước lỗ gãy
thường trên 50% diện tích sàn. Về mặt giải phẫu,
nhãn cầu được treo giữ bên trong hốc mắt là nhờ
các cơ vận nhãn và các vòng xơ liên kết giữa bao
cơ với màng xương hốc mắt. Các vòng xơ này có
tác dụng như những ròng rọc cho các cơ vận
nhãn. Lisman năm 1987(18) và Scott K. năm
2003(22) nhận thấy mức độ trũng xuống của
mảnh gãy khi có gãy sàn sau chấn thương sẽ tạo
ra sự co kéo hệ thống mô sợi xơ liên kết góp
phần gây ra tổn thương ở cơ trực dưới.
Tình trạng lé đứng và HCVN sau chấn
thương gãy sàn hốc mắt
Tình trạng lé đứng
Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân không bị
lé đứng ở cả hai lô nghiên cứu là 83,4% nhiều
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh
nhân có lé đứng lên hoặc lé đứng xuống
(p=0,001). Tỷ lệ này tương tự với kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác như Hosal
năm 2002(12) là 83%, Sang Hun Lee năm 2005(25)
là 81,8%. Các tác giả này cho rằng sở dĩ các
trường hợp gãy thành hốc mắt có HCVN sau
chấn thương nhưng thường không có lé khi
nhìn thẳng là do nguyên nhân kẹt cơ hoặc xơ
dính cơ vào mô xung quanh ở khu vực xích
đạo nhãn cầu tương tự với lý giải của Lerman
năm 1970(17). Lerman cho rằng khi vị trí kẹt cơ
trực dưới nằm ngay xích đạo nhãn cầu thì mắt
sẽ chỉnh thị, khi vị trí kẹt cơ nằm trước trước
xích đạo thì nhãn cầu sẽ bị kéo xuống gây ra lé
đứng xuống, và vị trí nếu kẹt nằm sau xích đạo
thì nhãn cầu sẽ bị đẩy lên trên gây ra lé đứng
lên. Ludwig năm 2001(19) cũng giải thích cho
các trường hợp lé đứng qua vị trí dính của vạt
cơ rách ra từ cơ trực dưới. Khi vạt rách ra của
cơ trực dưới dính