Khảo sát tần suất và nhu cầu điều trị rối loạn cương trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2

Mục đích: Khảo sát tần suất và nhu cầu điều trị rối loạn cương (RLC) trên bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) típ 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thực hiện từ tháng 5/2009-5/2010, khảo sát 350 bệnh nhân nam ĐTĐ típ 2 đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM. RLC được đánh giá bằng bảng IIEF-5. Nhu cầu điều trị RLC được đánh giá qua phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi. Thống kê bằng phần mềm Stata 10.0. Kết quả: Tần suất RLC ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 là 64,28 % (n=350) (KTC 95%: 59,28% - 69,28%), trong đó RLC nhẹ 10%; RLC nhẹ-TB 12,57%; RLC TB 16,85%; RLC nặng 24,86%. Tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 càng cao ở những bệnh nhân tuổi càng cao, thời gian bị ĐTĐ càng lâu, không kiểm soát tốt đường huyết và có biến chứng của ĐTĐ. Trong những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị RLC, 74,22% có nhu cầu điều trị RLC. Kết luận: RLC gặp sớm và nhiều ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với tỉ lệ cao bệnh nhân bị RLC mức độ nặng. Hơn 2/3 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với RLC có nhu cầu điều trị RLC.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tần suất và nhu cầu điều trị rối loạn cương trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 31 KHẢO SÁT TẦN SUẤT VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN CƯƠNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 Phạm Nam Việt*, Vũ Hồng Thịnh 1 TÓM TẮT Mục đích: Khảo sát tần suất và nhu cầu điều trị rối loạn cương (RLC) trên bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) típ 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thực hiện từ tháng 5/2009-5/2010, khảo sát 350 bệnh nhân nam ĐTĐ típ 2 đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM. RLC được đánh giá bằng bảng IIEF-5. Nhu cầu điều trị RLC được đánh giá qua phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi. Thống kê bằng phần mềm Stata 10.0. Kết quả: Tần suất RLC ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 là 64,28 % (n=350) (KTC 95%: 59,28% - 69,28%), trong đó RLC nhẹ 10%; RLC nhẹ-TB 12,57%; RLC TB 16,85%; RLC nặng 24,86%. Tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 càng cao ở những bệnh nhân tuổi càng cao, thời gian bị ĐTĐ càng lâu, không kiểm soát tốt đường huyết và có biến chứng của ĐTĐ. Trong những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị RLC, 74,22% có nhu cầu điều trị RLC. Kết luận: RLC gặp sớm và nhiều ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với tỉ lệ cao bệnh nhân bị RLC mức độ nặng. Hơn 2/3 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với RLC có nhu cầu điều trị RLC. Từ khóa: tần suất, rối loạn cương, đái tháo đường típ 2, nhu cầu điều trị. ABSTRACT PREVALENCE AND NEED FOR TREATMENT OF ERECTILE DYSFUNCTION IN TYPE 2 DIABETIC PATIENTS Pham Nam Viet, Vu Hong Thinh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 31 - 37 Objectives: To estimate the prevalence and need for treatment of erectile dysfunction (ED) in type 2 diabetic patients. Material and methods: Cross-sectional study was conducted between May 2009 and May 2010, included 350 type 2 diabetic outpatients at University Medical Center, Ho Chi Minh city. We used the International Index for Erectile Function-5 criteria (IIEF-5) to identify mild, mild to moderate, moderate and complete ED. Participants having ED were interviewed with questionnaire to determine the need for treatment. Statistics was done by Stata 10.0. Results: The prevalence of ED in type 2 diabetic patients was 64.28% (n=350; 95% confidence interval 59.28%-69.28%). The prevalence of mild, mild to moderate, moderate and complete ED were 10; 12.57; 16.85 and 26.86%, respectively. The prevalence and severity of ED increased with age, duration of diabetes and complication of diabetes. 74.22% type 2 diabetic patients with ED need for ED treatment. 1 Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM (University Medical Center in Ho Chi Minh city) Tác giả liên hệ: Ths.Bs Phạm Nam Việt, ĐT: 0903854222, Email: bsphamnamviet@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Chuyên Đề Thận Niệu 32 Conclusions: We found a high prevalence of ED in type 2 diabetic patients. ED occurs at an earlier age in diabetic men. Moreover, diabetic patients have more severe ED. More than 2 in 3 type 2 diabetic patients with ED seek ED treatment. Key words: prevalence, erectile dysfunction, type 2 diabetic, need for treatment. MỞ ĐẦU Rối loạn cương (RLC) là tình trạng người đàn ông không thể đạt tới hay duy trì được sự cương dương vật đủ cứng để giao hợp thỏa mãn(12,21). RLC là một bệnh lý thường gặp, nghiên cứu Massachusetts trên nam giới lớn tuổi (MMAS) được tiến hành trên 1290 đàn ông tuổi từ 40-70 ở Hoa Kỳ, ghi nhận 52% có RLC ở một mức độ nào đó(8). Tại Việt Nam tần suất RLC khoảng 15,7%(21). RLC thường đi kèm và là biến chứng của những bệnh mạn tính như đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh tim mạch, suy thận mạn và bệnh thần kinh(14). ĐTĐ là rối loạn nội tiết thường kết hợp với RLC nhất và RLC là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ do biến chứng mạch máu và bệnh thần kinh(16). Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tần suất RLC ở bệnh nhân ĐTĐ cao hơn trong dân số nam giới chung, nhưng kết quả rất thay đổi từ 20-90%(3,5,7,15,21). Người bệnh RLC thường giấu bệnh, ngại đi khám bệnh và ngại khai bệnh với thầy thuốc(21). Ngay cả ở Hoa Kỳ, trong một nghiên cứu có 74% bệnh nhân không khai bệnh RLC khi họ đi khám bệnh về niệu khoa vì cảm thấy bối rối, 82% bệnh nhân rất muốn bác sĩ của họ hỏi hoặc đề cập tới vấn đề RLC của họ(2). Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung khảo sát những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM nhằm vào hai mục tiêu: Xác định tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân có nhu cầu điều trị RLC trong số những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có RLC. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Những bệnh nhân nam được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 đang điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết bệnh viện Đại Học Y dược TP.HCM. Tiêu chuẩn chọn bệnh - Bệnh nhân nam độ tuổi 25-75, đã có vợ. - Đã được chẩn đoán ĐTĐ típ 2, đang điều trị ngoại trú, hồ sơ điều trị ngoại trú có ghi nhận đầy đủ thông tin về chẩn đoán, kết quả gần nhất của đường huyết khi đói, HbA1c, các thuốc đang sử dụng, các biến chứng nếu có. - Còn hoạt động tình dục trong 6 tháng trước khảo sát. - Đồng ý trả lời khảo sát. Tiêu chuẩn loại trừ - Không đồng ý tham gia trả lời. - Không có hoạt động tình dục trong vòng 6 tháng trước khảo sát. - Đang có những bệnh nặng như nhồi máu cơ tim, suy tim nặng, tai biến mạch máu não chưa ổn định, yếu liệt nặng, lao phổi tiến triển, nhiễm khuẩn cấp tính, suy hô hấp. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu thống kê mô tả cắt ngang với phương thức phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân theo bảng câu hỏi và ghi nhận những số liệu khác từ hồ sơ bệnh án. Cỡ mẫu Cỡ mẫu được tính theo công thức: n = Z21- /2 P(1-P)/d2.Với: P là tỉ lệ RLC ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 theo y văn (chọn P=65,4%(6) ); Z1-/2 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 33 =1,96 (khoảng tin cậy 95%); Độ chính xác d=5%. Ta tính được n=348. Dự kiến lấy mẫu là 350 bệnh nhân. Thu thập và xử lý số liệu Thời gian lấy mẫu từ tháng 05/2009- 05/2010. Thu thập số liệu theo bảng soạn sẵn: ghi nhận thông tin từ hồ sơ bệnh án và bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp. Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê Stata 10.0. Phương pháp đánh giá kết quả Đánh giá RLC Bác sĩ trực tiếp hỏi bệnh nhân và đánh giá RLC theo bảng câu hỏi IIEF-5 (International Index for Erectile Function–5 criteria), mức độ RLC được chia theo điểm số IIEF-5 như sau(17): - Không RLC: 22-25 - RLC nhẹ: 17-21 - RLC nhẹ tới trung bình: 12-16 - RLC trung bình (TB): 8-11 - RLC nặng: 5-7 Đánh giá về nhu cầu điều trị RLC Để đánh giá nhu cầu điều trị RLC ở những bệnh nhân ĐTĐ típ 2, trong số những bệnh nhân có điểm số IIEF-5 ≤ 21 (được chẩn đoán RLC theo tiêu chuẩn bảng điểm IIEF-5(17)), chúng tôi dùng bảng câu hỏi soạn sẵn(5,11) để chọn ra những người mà tình trạng cương của họ có làm ảnh hưởng chất lượng sống. Và từ trong số những người RLC có làm ảnh hưởng chất lượng sống đó, qua bảng câu hỏi để xác định những người có nhu cầu điều trị RLC. Để đánh giá RLC có làm ảnh hưởng chất lượng sống của bệnh nhân hay không, chúng tôi cải biên mẫu câu hỏi của tác giả Hui-Meng Tan trong nghiên cứu “Thái độ của nam giới châu Á đối với các tình huống đời sống và tình dục” (the Asian MALES study)(20), chúng tôi rút gọn phần trả lời là có hoặc không (tác giả Hui-Meng Tan chia trả lời theo mức độ từ 1 đến 5 điểm). Theo đó những người có điểm số IIEF-5 ≤ 21 sẽ được hỏi tình trạng cương hiện tại có ảnh hưởng đến 6 khía cạnh của cuộc sống không (trả lời có hoặc không): (1) Cuộc sống gia đình; (2) Công việc hàng ngày; (3) Mối quan hệ với vợ; (4) Cuộc sống tình dục; (5) Sức khỏe; (6) Sự hài lòng chung về cuộc sống. Nếu trả lời RLC có làm ảnh hưởng đến 1 trong 6 khía cạnh của cuộc sống thì xếp vào nhóm RLC có ảnh hưởng chất lượng sống, nếu trả lời không có ảnh hưởng cả 6 khía cạnh thì xếp vào nhóm không có ảnh hưởng chất lượng sống. Để đánh giá nhu cầu điều trị RLC, chúng tôi dựa theo cách nghiên cứu của tác giả De Boer(4) và Baldwin(2). Những người thuộc nhóm RLC có ảnh hưởng chất lượng sống sẽ được hỏi họ có muốn điều trị RLC không, với 3 lựa chọn trả lời là: (1) Tôi đã, đang điều trị RLC; (2) Tôi muốn điều trị RLC nhưng chưa điều trị; (3) Tôi không muốn điều trị RLC. Được xếp vào nhóm có nhu cầu điều trị RLC khi trả lời: (1) Đã, đang điều trị RLC; hoặc (2) Muốn được điều trị RLC nhưng chưa điều trị. Ngoài ra bệnh nhân đã có điều trị RLC còn được hỏi lựa chọn điều trị của họ: - Đến bác sĩ (bác sĩ tây y). - Đến lương y (bác sĩ đông y, thầy thuốc y học dân tộc). - Tự mua thuốc ở nhà thuốc (tây y). - Tự điều trị bằng tập luyện, thảo dược, thức ăn, thức uống. - Lựa chọn khác. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Chuyên Đề Thận Niệu 34 KẾT QUẢ Từ tháng 5/2009 đến tháng 5/2010, chúng tôi thu thập số liệu được 350 bệnh nhân nam ĐTĐ típ 2 theo tiêu chuẩn chọn bệnh. Trong đó có 5 bệnh nhân khám tại phòng khám Nam khoa vì RLC, làm xét nghiệm phát hiện ĐTĐ sau đó điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết và phòng khám Nam khoa (BV Đại Học Y Dược TP.HCM). Tần suất rối loạn cương trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 Trong nghiên cứu của chúng tôi số bệnh nhân nam ĐTĐ típ 2 bị RLC theo tiêu chuẩn của bảng điểm số IIEF-5 là 225 bệnh nhân, chiếm tần suất là 64,28% (khoảng tin cậy 95% là từ 59,28% đến 69,28%), trong đó RLC nhẹ 10%; RLC nhẹ-TB 12,57%; RLC TB 16,85%; RLC nặng 24,86%. Tần suất và mức độ rlc theo nhóm tuổi Biều đồ 1: Tần suất và mức độ RLC theo nhóm tuổi Tần suất RLC theo nghề nghiệp Bảng 1: Tần suất RLC theo nghề nghiệp Nghề nghiệp Số bệnh nhân RLC (tỉ lệ) Số bệnh nhân không RLC (tỉ lệ) Tổng số BN Trí thức, quản lý, nhân viên văn phòng 49 (62%) 30 (38%) 79 Lao động phổ thông, chân tay, buôn bán 110 (60,1%) 73 (39,9%) 183 Hưu trí, nghỉ việc 66 (75%) 22 (25%) 88 Tổng 225 125 350 Tần suất RLC theo thời gian biết bị ĐTĐ Bảng 2: Tần suất RLC theo thời gian biết bị ĐTĐ Thời gian biết bị ĐTĐ Số bệnh nhân RLC (tỉ lệ) Số bệnh nhân Không RLC (tỉ lệ) Tổng số BN <5 năm 109 (58%) 79 (42%) 188 5-10 năm 68 (63,55%) 39 (36,45%) 107 >10 năm 48(87,3%) 7 (12,7%) 55 Tổng 225 125 350 Tần suất RLC theo kiểm soát đường huyết Bảng 3: Tần suất RLC theo kiểm soát đường huyết Kiểm soát được đường huyết Số bệnh nhân RLC (tỉ lệ) Số bệnh nhân Không RLC (tỉ lệ) Tổng số BN Có 128 (60,4%) 84 (39,6%) 212 Không 97 (70,3%) 41 (29,7%) 138 Tổng 225 125 350 Tần suất RLC theo biến chứng của ĐTĐ Bảng 4: Tần suất RLC theo biến chứng ĐTĐ Biến chứng của ĐTĐ Số bệnh nhân RLC (tỉ lệ) Số bệnh nhân Không RLC (tỉ lệ) Tổng số BN Có 173 (79,7%) 44 (20,3%) 217 Không 52 (39,1%) 81 (60,9%) 133 Tổng 225 125 350 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 35 Nhu cầu điều trị rối loạn cương Nhu cầu điều trị RLC Bảng 5: Nhu cầu điều trị RLC RLC Có ảnh hưởng chất lượng sống Có nhu cầu điều trị RLC RLC Không ảnh hưởng chất lượng sống Không có nhu cầu điều trị RLC Chưa điều trị RLC Có điều trị RLC 117 (52%) (20 RLC nhẹ-TB + 40 RLC TB + 57 RLC nặng) 50 (22,22%) (7 RLC nhẹ-TB + 15 RLC TB + 28 RLC nặng) 16 (7,12%) (10 RLC nhẹ-TB + 4 RLC TB + 2 RLC nặng) 167 (74,22%) (27 RLC nhẹ-TB + 55 RLC TB + 85 RLC nặng) Số lượng BN (tỉ lệ) (số bệnh nhân theo mức độ RLC) 42 (18,66%) (35 RLC nhẹ + 7 RLC nhẹ-TB) 183 (81,34%) (37 RLC nhẹ-TB + 59 RLC TB + 87 RLC nặng) Tổng số 225 (100%) (35 RLC nhẹ + 44 RLC nhẹ-TB + 59 RLC TB + 87 RLC nặng) Các cách lựa chọn điều trị Biều đồ 2: Các cách lựa chọn điều trị BÀN LUẬN Bàn luận về vấn đề phát hiện bệnh ĐTĐ nhờ RLC Trong nghiên cứu này, có 5 bệnh nhân được phát hiện ĐTĐ nhờ triệu chứng RLC (số lượng bệnh nhân được phát hiện ĐTĐ nhờ triệu chứng RLC thật sự nhiều hơn nếu mẫu là những bệnh nhân đi khám RLC ở phòng khám Nam khoa, còn trong nghiên cứu này mẫu là những bệnh nhân đang điều trị ĐTĐ ở phòng khám Nội tiết). Có một tỷ lệ RLC xuất hiện như là triệu chứng đầu tiên của ĐTĐ. Thật vậy, theo Suks Minhas(16), trong một nghiên cứu 497 người đàn ông đi khám vì RLC, có 11,1% tìm thấy bị ĐTĐ chưa được chẩn đoán và ngoài ra có 4,2% bị rối loạn dung nạp glucose. Theo Lasantha S. Malavige(15), 12% nam giới đi khám vì RLC phát hiện ra bị ĐTĐ chưa được chẩn đoán, điều này cho thấy sự quan trọng trong việc tầm soát ĐTĐ ở những bệnh nhân bị RLC. Bàn luận về tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 Bảng 6: So sánh kết quả tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Tác giả Cỡ mẫu Tuổi Phương pháp chẩn đoán RLC Tần suất RLC Ahmed I. El-Sakka và cộng sự (Ả rập Saudi, 2002) 562 27-84 Bảng IIEF (sử dụng 6 câu hỏi: câu 1-5 và câu 15). 86,1% N.H. Cho và cộng sự (Hàn Quốc, 2005) 1312 40-65 Bảng IIEF-5 (nhưng chỉ chia 3 mức độ RLC, điểm IIEF-5 từ 18-25 thì xếp vô không RLC) 65,4% Huỳnh Quốc Hội (Việt Nam, 2007) 105 38-70 Bảng IIEF-5 (chia 3 mức độ RLC, điểm IIEF-5 từ 22-25 thì xếp vô không RLC) 51,43% Chúng tôi (Việt Nam, 2010) 350 30-75 Bảng IIEF-5 (chia 4 mức độ RLC, điểm IIEF-5 từ 22-25 thì xếp vô không RLC) 64,28% So sánh với những tác giả cũng nghiên cứu về tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ (so sánh dưới đây chỉ có giá trị tương đối vì các nghiên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Chuyên Đề Thận Niệu 36 cứu sử dụng mẫu, phương pháp và chuẩn đánh giá không đồng nhất), kết quả của chúng tôi tương tự với kết quả N.H. Cho và cộng sự (Hàn Quốc, 2005) là 65,4%(3), S.C. Siu và cộng sự (Hồng Kông, 2001) là 63,6%(21); cao hơn kết quả của Huỳnh Quốc Hội (Việt Nam, 2007) là 51,43%(12), Domenico Fedele và cộng sự (Ý, 1998) là 35,8%(7); thấp hơn kết quả của Ahmed I. El- Sakka và cộng sự (Ả rập Saudi, 2002) là 81,6%(5). Tần suất RLC theo độ tuổi, nghề nghiệp, thời gian bị ĐTĐ, kiểm soát đường huyết và biến chứng của ĐTĐ trong nghiên cứu của chúng tôi (các trị số P đều nhỏ hơn 0,05): tần suất RLC tăng dần theo nhóm tuổi. Mức độ nặng của RLC cũng tăng dần theo nhóm tuổi. Tần suất RLC cao nhất ở nhóm bệnh nhân hưu trí, nghỉ việc, điều này cũng phù hợp vì nhóm bệnh nhân này có tuổi cao hơn các nhóm còn lại. Thời gian biết bị ĐTĐ càng lâu thì tần suất RLC càng cao. Nhóm bệnh nhân kiểm soát tốt đường huyết có tần suất RLC thấp hơn nhóm kiểm soát đường huyết không tốt. Nhóm bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi có tần suất RLC cao hơn nhóm không có biến chứng. Các tác giả khác cũng đều có kết quả tương tự(1,3,5,7,21). Bàn luận về nhu cầu điều trị RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 Với 74,22% bệnh nhân RLC có nhu cầu điều trị, thì 22,22% đã có điều trị, còn 52% chưa điều trị. Điều này cho thấy nhu cầu điều trị RLC cao, nhưng số bệnh nhân thực sự đi tìm kiếm điều trị còn thấp và trên một nửa (52%) chưa điều trị. Theo Fisher(11), tới 70% nam giới bị RLC không tìm kiếm điều trị, và qua khảo sát 27.839 nam giới trên 8 quốc gia, cho thấy ít hơn 16% bệnh nhân RLC đang sử dụng thuốc ức chế men PDE-5 để điều trị tình trạng RLC của họ. Trong nghiên cứu của Raymond C. Rosen và cộng sự(19), trong số 373 nam giới bị ĐTĐ ở độ tuổi 45-75, có 49,8% bị RLC nhẹ hoặc trung bình và 24,8% bị RLC hoàn toàn. Trong số những người còn hoạt động tình dục, có 42,6% tìm kiếm điều trị RLC và 39,7% có dùng thuốc điều trị RLC. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ gần một nửa (48%) bệnh nhân đến điều trị tại bác sĩ (bác sĩ tây y), có tới 40% bệnh nhân tự tìm hiểu và tự điều trị (18% tự mua thuốc và 22% tự điều trị tại nhà) cho thấy bệnh nhân RLC tự điều trị còn nhiều. Trong khi đó, nghiên cứu của Hui- Meng Tan và cộng sự(21), đa số nam giới RLC (83,5%) tìm kiếm điều trị từ bác sĩ tây y. Về việc điều trị RLC không dùng các thuốc tây y, trong nghiên cứu của tác giả Hui-Meng Tan và cộng sự(21), 40% nam giới Trung Quốc lựa chọn điều trị bằng thay đổi lối sống, chế độ ăn; 60% nam giới Malaysia lựa chọn dùng thảo dược và vitamin. Trong nghiên cứu này của chúng tôi, có 22% bệnh nhân điều trị bằng tập luyện, thảo dược, thức ăn, thức uống và 12% bệnh nhân đến lương y (bác sĩ đông y, thầy thuốc y học dân tộc). KẾT LUẬN Tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 trong nghiên cứu này là 64,28%, trong đó RLC nhẹ 10%, RLC nhẹ tới trung bình 12,57%, RLC trung bình 16,85% và RLC nặng 24,86%. Tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 càng cao ở những bệnh nhân tuổi càng cao, thời gian bị ĐTĐ càng lâu, không kiểm soát tốt đường huyết và có biến chứng của ĐTĐ. Trong những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị RLC, 74,22% có nhu cầu điều trị RLC. Nhu cầu điều trị RLC càng cao ở những bệnh nhân càng trẻ và mức độ RLC càng nặng. Tuy nhiên ở những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị RLC này, hơn một nửa (52%) chưa từng điều trị RLC. Có 22,22% bệnh nhân đã có điều trị RLC, trong số đó dưới một nửa (48%) bệnh nhân đến bác sĩ (tây y), 40% bệnh nhân tự điều trị Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 37 không có chẩn đoán và chỉ định của thầy thuốc. Có một số bệnh nhân (trong nghiên cứu này ghi nhận có 5 bệnh nhân) RLC là triệu chứng khiến bệnh nhân đi khám bệnh, nhờ đó phát hiện ĐTĐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bacon, C. G., Hu, F. B., Giovannucci, E., Glasser, D. B., Mittleman, M. A., Rimm, E. B. (2002), "Association of type and duration of diabetes with erectile dysfunction in a large cohort of men". Diabetes Care, 25(8), 1458-1463. 2. Baldwin, K., Ginsberg, P., Harkaway, R. C. (2003), "Under- reporting of erectile dysfunction among men with unrelated urologic conditions". Int J Impot Res, 15(2), 87-89. 3. Cho, N. H., Ahn, C. W., Park, J. Y., Ahn, T. Y., Lee, H. W., Park, T. S., et al. (2006), "Prevalence of erectile dysfunction in Korean men with Type 2 diabetes mellitus". Diabet Med, 23(2), 198-203. 4. De Boer, B. J., Bots, M. L., Nijeholt, A. A., Moors, J. P., Verheij, T. J. (2005), "The prevalence of bother, acceptance, and need for help in men with erectile dysfunction". J Sex Med, 2(3), 445-450. 5. Đỗ Văn Dũng (2008), Thiết kế bộ câu hỏi. Đỗ Văn Dũng (Ed.), Phương pháp nghiên cứu khoa học và phân tích thống kê với phần mềm STATA 10.0 (pp. 67-70), TP.HCM. 6. El-Sakka, A. I., Tayeb, K. A. (2003), "Erectile dysfunction risk factors in noninsulin dependent diabetic Saudi patients". J Urol, 169(3), 1043-1047. 7. Fedele, D., Coscelli, C., Santeusanio, F., Bortolotti, A., Chatenoud, L., Colli, E., et al. (1998), "Erectile dysfunction in diabetic subjects in Italy". Diabetes Care, 21(11), 1973-1977. 8. Feldman, H. A., Goldstein, I., Hatzichristou, D. G., Krane, R. J., McKinlay, J. B. (1994), "Impotence and its medical and psychosocial correlates: results of the Massachusetts Male Aging Study". J Urol, 151(1), 54-61. 9. Fisher, W. A., Rosen, R. C., Eardley, I., Niederberger, C., Nadel, A., Kaufman, J., et al. (2004), "The multinational Men's Attitudes to Life Events and Sexuality (MALES) Study Phase II: understanding PDE5 inhibitor treatment seeking patterns, among men with erectile dysfunction". J Sex Med, 1(2), 150-160. 10. Haro, J. M., Beardsworth, A., Casariego, J., Gavart, S., Hatzichristou, D., Martin-Morales, A., et al. (2006), "Treatment- seeking behavior of erectile dysfunction patients in Europe: Results of the Erectile Dysfunction Observational Study". J Sex Med, 3(3), 530-540. 11. Hartmann, U., Burkart, M. (2007), "Erectile dysfunctions in patient-physician communication: optimized strategies for addressing sexual issues and the benefit of usin