Mở đầu: Phẫu thuật ngách trán là một trong những phẫu thuật nội soi phức tạp và khó khăn nhất. Trong
đó, tế bào agger nasi có vai trò rất quan trọng để hiểu rõ giải phẫu ngách trán và ứng dụng trong phẫu thuật.
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của tế bào agger nasi lên độ hẹp ngách trán, thời gian phẫu thuật ngách
trán và kích thước lỗ thông xoang trán
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 69 ngách trán được phẫu thuật từ
tháng 9/2009 đến tháng 7/2010 tại bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM
Kết quả: 6 dạng mỏm móc được xác định bằng SNAP. 3 dạng thường gặp nhất là týp A(17,4%), týp
B(42%), týp C(20,3%). Tỷ lệ tế bào agger nasi là 42% và chỉ tìm thấy với mỏm móc týp B. Trên mặt phẳng
sagittal, ngách trán nằm sau: tế bào agger nasi, ngách tận, tế bào sàng trán; ngách trán nằm trước: tế bào trên ổ
mắt, tế bào bóng trán và tế bào trên bóng. Diện tích lỗ thông xoang trán trung bình là 52,42mm2 và tế bào agger
nasi không ảnh hưởng lên độ rông lỗ thông xoang trán. Ngách trán khi có tế bào agger nasi (1,051mm ± 0,574)
hẹp hơn so với khi không có (2,317mm ± 0,799) với p < 0,05. Về phẫu thuật ngách trán, thời gian phẫu thuật kéo
dài hơn khi có tế bào agger nasi (p < 0,05). Khi có sự hiện diện đồng thời tế bào agger nasi và tế bào trên bóng,
thời gian phẫu thuật sẽ càng kéo dài hơn.
Kết luận: Tế bào agger nasi có ảnh hưởng đến phẫu thuật điều trị viêm xoang trán. Do đó cẩn phải nghiên
cứu kỹ CT scan trước khi phẫu thuật
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tương quan giữa tế bào agger nasi và độ hẹp ngách trán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 208
KHẢO SÁT TƯƠNG QUAN GIỮA TẾ BÀO AGGER NASI
VÀ ĐỘ HẸP NGÁCH TRÁN
Lê Quang*, Nguyễn Thị Ngọc Dung**
TÓM TẮT
Mở đầu: Phẫu thuật ngách trán là một trong những phẫu thuật nội soi phức tạp và khó khăn nhất. Trong
đó, tế bào agger nasi có vai trò rất quan trọng để hiểu rõ giải phẫu ngách trán và ứng dụng trong phẫu thuật.
Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của tế bào agger nasi lên độ hẹp ngách trán, thời gian phẫu thuật ngách
trán và kích thước lỗ thông xoang trán
Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 69 ngách trán được phẫu thuật từ
tháng 9/2009 đến tháng 7/2010 tại bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM
Kết quả: 6 dạng mỏm móc được xác định bằng SNAP. 3 dạng thường gặp nhất là týp A(17,4%), týp
B(42%), týp C(20,3%). Tỷ lệ tế bào agger nasi là 42% và chỉ tìm thấy với mỏm móc týp B. Trên mặt phẳng
sagittal, ngách trán nằm sau: tế bào agger nasi, ngách tận, tế bào sàng trán; ngách trán nằm trước: tế bào trên ổ
mắt, tế bào bóng trán và tế bào trên bóng. Diện tích lỗ thông xoang trán trung bình là 52,42mm2 và tế bào agger
nasi không ảnh hưởng lên độ rông lỗ thông xoang trán. Ngách trán khi có tế bào agger nasi (1,051mm ± 0,574)
hẹp hơn so với khi không có (2,317mm ± 0,799) với p < 0,05. Về phẫu thuật ngách trán, thời gian phẫu thuật kéo
dài hơn khi có tế bào agger nasi (p < 0,05). Khi có sự hiện diện đồng thời tế bào agger nasi và tế bào trên bóng,
thời gian phẫu thuật sẽ càng kéo dài hơn.
Kết luận: Tế bào agger nasi có ảnh hưởng đến phẫu thuật điều trị viêm xoang trán. Do đó cẩn phải nghiên
cứu kỹ CT scan trước khi phẫu thuật.
Từ khóa: tế bào agger nasi, mỏm móc, ngách trán
ABSTRACT
RELATION BETWEEN AGGER NASI CELL AND FRONTAL RECESS
Le Quang, Nguyen Thi Ngoc Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 208 - 215
Background: The endoscopic frontal recess approach is one of the most difficult procedures of ESS. Agger
nasi cell is a key point to understand anatomy of frontal recess and to apply in frontal sinus surgery.
Objectives: to evaluate the effect of agger nasi cell on the narrow of frontal recess, frontal sinus surgery and
dimension of frontal sinus ostium
Method: The prospective study on 69 frontal recesses at HCM city ENT hospital, from September 2009 to
June 2010.
Results: 6 types of uncinate process are identified by SNAP. 3 popular types are type A(17.4%), type
B(42%) and type C(20.3%). The proportion of agger nasi cell is 42% and this cell is only found in type B of
uncinate process. On sagittal plan, frontal recess is posterior to agger nasi cell, terminal recess, frontalethmoidal
cell; frontal recess is anterior to supraorbital ethmoidal cell, frontal bullar cell and suprabullar cell. Frontal ostium
sectional area is 52.42mm2 and agger nasi does not affect on this area. The dimension of frontal recess are more
* Bệnh viện Tai Mũi Họng TP. HCM ** BM. Tai Mũi Họng - Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS Lê Quang ĐT: 0908639917 Email: lequang81@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 209
narrow as agger nasi cell exist (p<0,05). In endoscopic surgery for frontal sinusitis, duartion of operation is
longer when agger nasi cell exist (p< 0,05). And this duation is much affected when both agger nasi cell and
suprabullar cell exist.
Conclusion: Agger nasi cell has a vital role in surgical treatment of frontal sinusitis. Therefore, careful
investigation of CT scan is very essential.
Keywords: agger nasi cell, uncinate process, frontal recess.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý xoang trán thường do tình trạng
viêm niêm mạc, tạo nên tắc nghẽn thứ phát của
dẫn lưu xoang, đặc biệt là vùng ngách trán.
Kháng sinh, giảm phù nề và những thuốc điều
trị xoang khác sẽ giúp cải thiện tình trạng viêm
của niêm mạc và thiết lập lại dẫn lưu xoang. Tuy
nhiên, những trường hợp tiến triển, có tình
trạng hẹp dẫn lưu nhiều và viêm nhiễm kéo dài,
thì cần phải có can thiệp phẫu thuật và phẫu
thuật nội soi mũi xoang hiện nay là lựa chọn
điều trị cho tình trạng viêm xoang mạn tính
không đáp ứng với điều trị.
Trong phẫu thuật xoang trán, lấy bỏ tế bào
agger nasi (AN) thường là yếu tố chính để làm
sạch ngách trán bị tắc nghẽn. Tuy nhiên, tế bào
này cũng chính là yếu tố gây khó khăn khi xác
định lỗ thông xoang trán trong phẫu thuật.
Hình ảnh học chẩn đoán hệ thống xoang
trước mổ là thiết yếu để hiểu rõ cấu trúc phức
tạp và phát hiện những cấu trúc giải phẫu có
nguy cơ gây ra bít tắt dẫn lưu xoang trán.
Ngoài nội soi, chụp cắt lớp điện toán ba chiều
đa đầu dò được sử dụng để đánh giá giải phẫu
trước mổ. Có sự thống nhất giữa dữ liệu thu
được từ hình ảnh CT scan và những dữ liệu có
được từ phẫu tích giải phẫu. Do đó, trong
nghiên cứu này, hình ảnh CT scan có tái tạo
hình ảnh mặt phẳng đứng dọc được ghi nhận
từ các bệnh nhân với bệnh lý xoang mạn tính,
đã được đánh giá.
Thêm vào đó, xác định rõ ràng tế bào agger
nasi là thử thách ngay cả khi có CT scan tái tạo
ba chiều, nên việc có thêm hỗ trợ tạo hình ba
chiều của SNAP sẽ giúp việc xác định được rõ
ràng hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
phương pháp tạo hình không gian ba chiều để
mô tả sự liên quan trong không gian giữa đường
dẫn lưu xoang trán và các tế bào khí xung
quanh. Đồng thời, đánh giá khoảng cách hẹp
của ngách trán có bị ảnh hưởng bởi yếu tố nào
hay không. Mục đích của nghiên cứu này là ứng
dụng phương pháp mới để xác định các yếu tố
tác động đến ngách trán về khoảng cách hẹp
cũng như thời gian phẫu thuật vùng ngách trán,
trong đó chú trọng vai trò của tế bào agger nasi.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân trên 15 tuổi được phẫu thuật nội
soi điều trị viêm mũi xoang mạn tính tại bệnh
viện Tai Mũi Họng thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian từ tháng 11/2009 đến tháng
7/2010. Đối tượng nghiên cứu được chọn khi có
đủ các điều kiện của tiêu chuẩn chọn bệnh.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân có viêm xoang trán mạn tính và
được phẫu thuật.
Bệnh nhân có đầy đủ dữ liệu về hình ảnh
nội soi mũi xoang, video phẫu thuật và hình ảnh
CT scan đa lớp cắt có tái tạo.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đáp ứng tiêu chuẩn chọn
mẫu.
Khi dùng SNAP, không phân tích được cấu
trúc giải phẫu từ dữ liệu CT scan.
Không đạt được tiêu chí của phẫu thuật
xoang trán.
Bệnh nhân có các chẩn đoán:
Các khối u vùng mũi và xoang.
Có tiền sử phẫu thuật mũi xoang trước đây.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 210
Có tiền sử chấn thương vùng mũi xoang
trước đây.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Dựa vào ước lượng cỡ mẫu cho nghiên cứu
mô tả thông qua tỷ lệ:
Với = 0,05 thì = 1,96
p = 0,78(3) là tỷ lệ tế bào agger nasi trong nghiên cứu của
tác giả Landsberg
e = 0,1 là mức sai số
Tính được cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu
là n = 66 đối tượng
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân được khám nội soi, ghi hình và
ghi nhận các triệu chứng lâm sàng của tình trạng
bệnh lý viêm mũi xoang mạn tính. Các bệnh
nhân có chỉ định sẽ được chụp CT scan đa lớp
cắt, có tái tạo. Sử dụng phần mềm SNAP(6) để
phân tích dữ liệu CT scan. Tiến hành phân loại
vị trí bám đầu trên của mỏm móc theo tác giả
Roee Landsberg(3) và xác định sự hiện diện của
các tế bào vùng ngách trán theo phân loại Kuhn
mới(5,2). Cũng từ cơ sở dữ liệu này, ngách trán, vị
trí hẹp nhất của ngách trán và cấu trúc giải phẫu
liên quan đến vị trí hẹp được xác định. Dùng
SNAP đo vị trí hẹp, đường kính lỗ thông xoang
trán trên các mặt phẳng khác nhau. Khi bệnh
nhân được phẫu thuật, quá trình phẫu thuật
được ghi hình lại để phân tích thời gian phẫu
thuật ngách trán và đánh giá phẫu thuật có đạt
tiêu chí:
Qua lỗ thông xoang trán, có thể quan sát
được một phần xoang trán bằng optic 30o.
Khi dùng ánh sáng của optic chiếu vào lỗ
thông xoang trán, sẽ thấy được hình ảnh phản
sáng trên trán của bệnh nhân.
Xử lý và phân tích số liệu
Xử lý và phân tích bằng chương trình SPSS
for window 16.0.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu được thực hiện trên 39 bệnh
nhân và mỗi bên xoang được tính là một đối
tượng nghiên cứu.
Tiến hành phân tích dữ liệu 69 đối tượng
nghiên cứu (có 9 trường hợp bị loại).
Đặc điểm giải phẫu
Mỏm móc týp B chiếm tỷ lệ cao nhất 42%.
Hai loại tiếp theo thường gặp trong lô nghiên
cứu là týp C (20,3%) và týp A (17,4%). Týp D, E,
F lần lượt là 8,7% 2,9% và 8,7%. Tỷ lệ tế bào
agger nasi là 42% và chỉ xuất hiện ở dạng mỏm
móc týp B.
Tương quan giữa ngách trán và tế bào liên
quan trên mặt phẳng sagital
Bằng mô tả đơn thuần, nhận thấy, trên mặt
phẳng đứng dọc, ngách trán luôn nằm sau các
cấu trúc: tế bào agger nasi, ngách tận, tế bào
sàng trán (type 1,2 và 3). Tế bào sàng trên ổ mắt,
tế bào bóng trán và tế bào trên bóng là những
cấu trúc nằm sau ngách trán.
Tương quan giữa tế bào agger nasi và ngách
trán
Về độ hẹp ngách trán
Thống kê ban đầu cho thấy, khi có tế bào
agger nasi độ hẹp là 1,051mm ± 0,574 và khi
không có độ hẹp là 2,317mm ± 0,799.
Bảng 1: Kết quả phép kiểm ANOVA về độ hẹp ngách
trán của hai nhóm
Tổng bình phương
ĐT
D
Trung bình
bình phương F p
Giữa
nhóm 26,937 1 26,937 52,811 0,000
Trong
nhóm 34,174 67 0,510
Tổng
cộng 61,111 68
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 211
Như vậy, khoảng cách ngách trán ở nhóm có
tế bào agger nasi hẹp hơn so với nhóm không có
tế bào agger nasi, có ý nghĩa thống kê.
Tác động của tế bào vách liên xoang trán (ISSC)
Bảng 2: Kiểm tra sự tác động của tế bào vách liên
xoang trán
Nguồn F p pETA2
ISSC 2,673 0,107 0,040
AN 18,881 0,000 0,225
ISSC * AN 4,242 0,043 0,061
Tương tác giữa hai yếu tố trong mô hình
trên cho kết quả p = 0,043 < 0,05. Như vậy, tác
động của tế bào agger nasi trên khoảng cách
ngách trán chịu ảnh hưởng của tế bào vách liên
xoang trán. Tuy nhiên, một mình tế bào vách
liên xoang trán sẽ không ảnh hưởng đến khoảng
cách ngách trán khi không có sự hiện diện của tế
bào agger nasi (p = 0,107 > 0,05).
Kiểm tra tác động của ISSC:
Bảng 3: Sử dụng phương pháp Contrast
Giá trị của Contrast
Sai số
chuẩn t ĐTD P
Không
ISSC -1,445 0,180 -8,014 65 0,000
Có ISSC -0,515 0,413 -1,247 65 0,217
Như vậy, tác động của tế bào liên vách
xoang trán là theo chiều hướng thuận lợi.
Khoảng cách ngách trán rộng hơn khi không có
sự hiện diện của cả hai loại tế bào.
Về diện tích lỗ thông xoang trán
Bảng 4: Đặc điểm thống kê về diện tích lỗ thông
xoang trán
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
d (sagital) 4,699 14,740 8,535 2,105
d (axial) 2,374 15,180 7,868 2,864
S 16,918 101,166 52,419 21,533
Diện tích lỗ thông xoang trán được ước
lượng dựa trên đường kính lỗ thông xoang trán
trên hai mặt phẳng ngang và đứng dọc theo
công thức tính diện tích hình eclip
với kết quả là S = 52,419 ± 21,533 (mm2).
Bảng 5: Phép kiểm Robust của diện tích lỗ thông
xoang trán
Thống kê ĐTD1 ĐTD2 p
Welch 1,776 1 50,233 0,189
Brown-Forsythe 1,776 1 50,233 0,189
Với F(1, 50) = 1,776 (p = 0,189 > 0,05). Như
vậy, độ rộng của lỗ thông xoang trán không phụ
thuộc và sự hiện diện của tế bào agger nasi.
Tương quan giữa agger nasi và thời gian phẫu
thuật ngách trán
Thống kê ban đầu cho thấy, thời gian phẫu
thuật trung bình khi có tế bào agger nasi là
14,824 phút ± 9,792 và khi không có là 6,989 phút
± 6,273.
Bảng 6: Phép kiểm Robust
Thống kê ĐTD1 ĐTD2 P
Welch 14,307 1 44,324 0,000
Brown-Forsythe 14,307 1 44,324 0,000
Giá trị từ phép kiểm Robust cho p < 0,05
giúp khẳng định thời gian phẫu thuật của nhóm
có tế bào agger nasi kéo dài hơn nhóm không có.
Tác động của tế bào trên bóng
Bảng 7: Kiểm tra yếu tố tác động của tế bào trên
bóng(SBC)
Nguồn F p p ETA2
SBC 7,020 0,010 0,097
AN 18,940 0,000 0,226
SBC * AN 5,552 0,021 0,079
Phép kiểm định kiểm tra sự tương tác giữa
hai yếu tố cho kết quả p = 0,021 < 0,05. Như vậy,
tác động của agger nasi trên thời gian phẫu
thuật có bị tác động của sự hiện diện tế bào trên
bóng.
Sử dụng phương pháp Contrast để kiểm tra
tác động của tế bào trên bóng
Bảng 8: Kết quả của phương pháp Contrast
Contrast
Giá trị của
Contrast
Sai số
chuẩn t ĐTD P
Không SBC 3,646 2,027 1,799 35,982 0,080
Có SBC 12,258 3,251 3,770 15,846 0,002
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 212
Với p = 0,002 < 0,05 có thể kết luận: tế bào
agger nasi có vai trò chính, ảnh hưởng đến thời
gian phẫu thuật, nhưng nếu thêm có sự hiện
diện của tế bào trên bóng, thời gian phẫu thuật
sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn.
BÀN LUẬN
Đặc điểm giải phẫu
Phân loại mỏm móc theo Roee Landsberg
Phần dưới của mỏm móc thường được quan
sát dễ dàng nhưng chỉ với ống soi 0o phần trên
của mỏm móc không thể thấy được. Do đó,
phẫu thuật viên thường xem mỏm móc như là
một mõm ngắn và lờ đi phần gắn trên của mỏm
móc. Stamberger, đã đề cập đến chân bám trên
của mỏm móc và mô tả vị trí bám là xương giấy,
nền sọ, hoặc cuốn giữa. Tuy nhiên tác giả không
mô tả những dạng khác hoặc dạng kết hợp và tỷ
lệ của nó. 6 loại mỏm móc đã được xác định dựa
vào phân loại của Roee Landsberg. Ba loại đầu
chiếm tỷ lệ cao nhất (79,7%). Týp A có chân bám
trên của mỏm móc hướng ra ngoài đến xương
giấy. Kết quả là, phễu sàng, luôn luôn nằm
ngoài mỏm móc, bị đóng lại ở đầu trên bởi một
túi cùng gọi là ngách tận. Týp B với mỏm móc là
thành sau dưới của tế bào agger nasi và phễu
sàng bị đóng ở phía trên bởi sàn tế bào agger
nasi. Týp C có hai chân bám: một hình thành
ngách tận giống týp A, và một gắn vào chổ nối
cuốn giữa và mảnh sàng. Trong nghiên cứu của
tác giả Roee Landsberg, 3 týp này cũng chiếm tỷ
lệ cao nhất (88%) nhưng có sự khác biệt trong
từng thành phần, týp A (52%), týp B (18,5%) và
týp C (17,5%). Sự khác biệt này có thể do dân số
nghiên cứu khác nhau (Roee Landsberg nghiên
cứu trên người bình thường còn chúng tôi
nghiên cứu trên bệnh nhân có bệnh lý viêm
xoang mạn tính có viêm xoang trán) và sự khác
biệt về giải phẫu theo dân tộc.
Tương quan giải phẫu ngách trán và các tế
bào vùng ngách trán
Trong các nghiên cứu trước đây, các tác giả
thường chỉ nêu lên sự liên quan giải phẫu học
của từng tế bào riêng biệt vùng ngách trán với
ngách trán. Như trong nghiên cứu của Van
Alyea, tác giả chỉ nhận xét về tế bào agger nasi.
Còn tác giả Bent và cộng sự(1), nhận xét về tất cả
tế bào sàng trán. Trong định nghĩa về tế bào
bóng trán, Van Alyea có nêu rằng đây là tế bào
có sự thông khí dọc theo sàn sọ xâm lấn vào lỗ
thông xoang trán và ở phía sau ngách trán. Theo
Lee, tế bào trên bóng nằm sau ngách trán và dọc
theo sàn sọ.
Về tương quan vị trí giữa ngách trán trên
mặt phẳng sagittal, chúng tôi nhận thấy, ngách
trán nằm sau tế bào agger nasi, tế bào sàng trán,
và nằm trước so với tế bào trên ổ mắt, tế bào
bóng trán, và tế bào trên bóng. Kết quả này hòan
toàn phù hợp với hình thái giải phẫu của các tác
giả đã nêu. Với việc tổng hợp và xác định lại
tương quan giữa ngách trán và các tế bào vùng
ngách trán, việc đọc CT scan sagittal để xác định
ngách trán có thể sẽ dễ dàng hơn.
Tương quan giữa tế bào agger nasi và
ngách trán
Độ hẹp ngách trán
Agger nasi khi hiện diện, nằm phía trước
so với ngách trán và có thể gây hẹp cơ học với
ngách trán khi thông khí nhiều. Như vậy, sự
hiện diện của tế bào này cũng đồng nghĩa với
việc ngách trán có nguy cơ hẹp nhiều hơn so
với các loại khác. Các tác giả như Schaefer,
Loury, Metson, Van Alyea cũng đồng ý với
quan điểm này.
Kết luận này phù hợp với nghiên cứu khi
cho kết quả ngách trán hẹp hơn khi có sự hiện
diện của tế bào agger nasi (khoảng cách trung
bình của ngách trán ở nhóm có tế bào agger nasi
là 1,051mm khác biệt có ý nghĩa thống kê so với
nhóm không có tế bào agger nasi là 2,317mm).
Từng trường hợp cụ thể của mỏm móc và sự
phối hợp với tế bào agger nasi sẽ được phân tích
để thấy rõ hơn kết luận này. Đối với mỏm móc
týp C, mặc dù có vẻ như đã chặn dẫn lưu ngách
trán, nhưng trên tạo hình ba chiều bằng SNAP,
dẫn lưu ngách trán đi giữa hai chân bám và
hướng ra sau, xuống dứơi, với khoảng cách
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 213
ngách trán trung bình khá rộng rãi trong trường
hợp này. Với mỏm móc týp D, E, F, ngách trán
có thể dễ dàng tiếp cận sau khi lấy đi phần bỏ
chân bám trên của mỏm móc, do có sự thông
thương trực tiếp từ xoang trán đến phễu sàng và
khoảng cách ngách trán thường chính là khoảng
cách từ mặt ngoài mỏm móc đến vách mũi
xoang. Về khía cạnh giải phẫu, mỏm móc týp A
và týp B có cùng chung dạng của ngách trán. Vị
trí hẹp thường ở vị trí mỏm móc và cuốn giữa và
độ hẹp ngách trán lúc này phụ thuộc và độ rộng
của ngách tận hoặc mức độ thông khí của tế bào
agger nasi. Nhưng khi kết quả của nghiên cứu
này cho thấy, tính trên toàn bộ nhóm nghiên
cứu ngách trán vẫn hẹp hơn khi có tế bào agger
nasi (mỏm móc týp B). Ngoài ra, cũng có những
trường hợp mỏm móc týp A, C, D, E và F có
kèm theo sự thông khí nhiều của tế bào bóng
sàng, tế bào trên bóng hoặc tế bào bóng trán làm
ngách trán hẹp đi nhiều so với dạng có tế bào
agger nasi, nhưng tính trên tổng số, lại không có
ý nghĩa về mặt thống kê.
Vai trò tế bào vách liên xoang trán
Trong trường hợp có tế bào này, vách liên
xoang bị lệch ra ngoài và có thể làm hẹp lỗ
thông xoang trán. Thêm vào đó, lúc này lỗ
xoang trán không còn là cấu trúc nằm ở sát
trong nhất, mà là nằm phía ngoài so với tế bào
này. Do đó, sự hiện diện của tế bào nằm ở
vùng thấp như tế bào vách liên xoang trán
phải được chú ý. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu chỉ cho thấy lỗ thông xoang trán sẽ rộng
nhất khi không có tế bào liên vách xoang trán
và tế bào agger nasi.
Tế bào agger nasi và lỗ thông xoang trán
Không giống như xoang sàng hay xoang
bướm, theo ý kiến của tác giả Roee Landsberg,
xoang trán không có lỗ thông đúng nghĩa. Lỗ
thông, được định nghĩa trong từ điển y khoa là
lỗ mở giữa hai khoang riêng biệt. Có thể thấy rõ
trên mặt phẳng đứng dọc, cấu trúc gọi là lỗ
thông xoang trán thực chất là đường kính hẹp
nhất hay vị trí eo, trong sự liên tục giữa khoang
sàng và xoang trán. Đường kính trung bình mà
tác giả Roee Landsberg đo được trên mặt phẳng
sagittal là 7,22mm (của chúng tôi là 8.53mm) và
trên mặt phẳng axial là 8.92mm (của chúng tôi là
7,87mm). Diện tích trung bình của lỗ thông là
50,5 mm2 (so với 52,42mm2 trong nghiên cứu của
chúng tôi). Kết quả giữa hai nghiên cứu không
quá khác biệt.
Tác giả Jacobs và cộng sự chỉ nghiên cứu
đường kính lỗ thông xoang trán trên mặt phẳng
đứng dọc, và báo cáo có những trường hợp lớn
hơn 10mm. Chúng tôi cũng có những trường
hợp tương tự và giá trị lớn nhất mà chúng tôi đo
được là 14,74mm. Kết quả của tác giả Jacobs còn
đề cập đến xu hướng tăng chiều dài của đường
kính và độ lớn của tế bào agger nasi nhưng
chúng tôi chỉ thực hiện kiểm chứng để đánh giá
liên quan giữa độ rộng diện tích lỗ thông xoang
trán và sự hiện diện của tế bào agger nasi.
Nhưng kết quả cho thấy không có sự liên hệ nào
giữa độ rộng lỗ thông xoang trán và sư hiện
diện của tế bào agger nasi.
Tương quan giữa agger nasi và thời gian
phẫu thuật ngách trán
Dẫn lưu xoang trán trong trường hợp có tế
bào agger nasi và nhất là khi tế bào này thông
khí tốt, dịch tiết phải đi vòng qua tế bào này,
qua thành sau trong trước khi xuống được
khoang mũi. Và cách duy nhất để tiếp cận là qua
thành sau v