Mục tiêu: (1) Khảo sát các phương pháp hiện hành được dùng để chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực
quản (BTNDD-TQ); và (2) khảo sát ý kiến của các bác sĩ tiêu hóa và nội tổng quát về giá trị và khả năng ứng
dụng bộ câu hỏi GERDQ trong thực hành lâm sàng.
Đối tượng và phương pháp: Một bộ câu hỏi về phương pháp sử dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ hiện tại
và giá trị của GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ và ý định sử dụng GERDQ trong tương lai được gởi đến
các bác sĩ làm việc trong hai lĩnh vực nêu trên ở Hà Nội, TP. HCM và Cần Thơ. Mỗi bác sĩ sẽ đánh giá GERDQ
trên 5 – 10 bệnh nhân đã được xác định BTNDD-TQ dựa trên phương pháp chẩn đoán hiện hành và sau đó trả
lời bộ câu hỏi thăm dò ý kiến.
Kết quả: 79 bác sĩ (46 tiêu hóa, 33 nội tổng quát) tham gia nghiên cứu. Hai phương pháp chính được sử
dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ là nội soi và triệu chứng trào ngược điển hình. Chỉ có 30,4% bác sĩ tiêu hóa và
21,2% bác sĩ nội tổng quát chẩn đoán BTNDD-TQ mà không cần yêu cầu nội soi. 50,1% (219/437) bệnh nhân
được chẩn đoán BTNDD-TQ theo các phương pháp hiện hành được yêu cầu nội soi. Trên 90% các bác sĩ cho
rằng GERDQ giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính xác, nhanh chóng, đánh giá mức độ nặng của bệnh và dự định
sử dụng GERDQ trong thời gian tới. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về ý kiến giữa bác sĩ làm việc
trong lĩnh vực tiêu hóa và nội tổng quát.
Kết luận: Nội soi dạ dày vẫn còn được sử dụng khá phổ biến trong chẩn đoán BTNDD-TQ. Có một nhu
cầu sử dụng GERDQ rất lớn nhằm chẩn đoán BTNDD-TQ trong cả lĩnh vực nội tổng quát và tiêu hóa. Cần có
nghiên cứu tại chỗ để xác định giá trị của bộ câu hỏi GERDQ khi ứng dụng vào thực tế Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát ý kiến về các phương pháp chẩn đoán hiện tại và giá trị của bộ câu hỏi GERDQ trong chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 23
KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN HIỆN TẠI
VÀ GIÁ TRỊ CỦA BỘ CÂU HỎI GERDQ TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH
TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY – THỰC QUẢN
Quách Trọng Đức*, Phan Thanh Hương**
TÓM TẮT
Mục tiêu: (1) Khảo sát các phương pháp hiện hành được dùng để chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực
quản (BTNDD-TQ); và (2) khảo sát ý kiến của các bác sĩ tiêu hóa và nội tổng quát về giá trị và khả năng ứng
dụng bộ câu hỏi GERDQ trong thực hành lâm sàng.
Đối tượng và phương pháp: Một bộ câu hỏi về phương pháp sử dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ hiện tại
và giá trị của GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ và ý định sử dụng GERDQ trong tương lai được gởi đến
các bác sĩ làm việc trong hai lĩnh vực nêu trên ở Hà Nội, TP. HCM và Cần Thơ. Mỗi bác sĩ sẽ đánh giá GERDQ
trên 5 – 10 bệnh nhân đã được xác định BTNDD-TQ dựa trên phương pháp chẩn đoán hiện hành và sau đó trả
lời bộ câu hỏi thăm dò ý kiến.
Kết quả: 79 bác sĩ (46 tiêu hóa, 33 nội tổng quát) tham gia nghiên cứu. Hai phương pháp chính được sử
dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ là nội soi và triệu chứng trào ngược điển hình. Chỉ có 30,4% bác sĩ tiêu hóa và
21,2% bác sĩ nội tổng quát chẩn đoán BTNDD-TQ mà không cần yêu cầu nội soi. 50,1% (219/437) bệnh nhân
được chẩn đoán BTNDD-TQ theo các phương pháp hiện hành được yêu cầu nội soi. Trên 90% các bác sĩ cho
rằng GERDQ giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính xác, nhanh chóng, đánh giá mức độ nặng của bệnh và dự định
sử dụng GERDQ trong thời gian tới. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về ý kiến giữa bác sĩ làm việc
trong lĩnh vực tiêu hóa và nội tổng quát.
Kết luận: Nội soi dạ dày vẫn còn được sử dụng khá phổ biến trong chẩn đoán BTNDD-TQ. Có một nhu
cầu sử dụng GERDQ rất lớn nhằm chẩn đoán BTNDD-TQ trong cả lĩnh vực nội tổng quát và tiêu hóa. Cần có
nghiên cứu tại chỗ để xác định giá trị của bộ câu hỏi GERDQ khi ứng dụng vào thực tế Việt Nam.
Từ khóa: Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản, GERDQ
ABSTRACT
A SURVEY ON THE CURRENT METHODS FOR GERD DIAGNOSIS AND THE VALUE OF GERDQ
QUESTIONAIRE
Quach Trong Duc, Phan Thanh Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 23 - 29
Aims: (1) To investigate the current methods for GERD diagnosis (2) to investigate the comments of doctors
working at Departments of Gastroenterology and Departments of Internal Medicine in several cities in Vietnam
on the value and the potential role of GERDQ in clinical practice.
Subjects and methods: A questionaire which includes questions about the current GERD diagnosis
methods and comments regarding the value of GERDQ on GERD diagnosis accuracy, rapidity, severity and
doctors’ intention to use GERDQ in the future was sent to doctors working in the two above-mentioned
departments in Hanoi, Hochiminh and Cantho. Each doctor firstly used the GERDQ questionaire to evaluate 5 to
Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. HCM, Bộ phận Y khoa, Astra Zeneca Việt Nam
Tác giả liên lạc: TS BS Quách Trọng Đức ĐT: 091.8080225, email: drquachtd@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 24
10 patients who had diagnosed with GERD based on their current diagnostic practice and then answered the
questionaire.
Results: There were 79 doctors (46 gastroenterologists, 33 internists) in this survey. Upper gastrointestinal
endoscopy and typical reflux symptoms are the two main methods which were used for GERD diagnosis. Only
30.4% gastroenterologists and 21.2% internists used reflux symptoms alone for GERD diagnosis. 50.1%
(219/437) patients with GERD who were evaluated with GERDQ in our survey were required endoscopy. More
than 90% of doctors agreed that GERDQ could help to diagnose GERD accurately, quickly, to assess the severity
of GERD and intend to use it in the future. There were no significant differences in the comments between
gastroenterologists and internists.
Conclusions: Upper gastrointestinal endoscopy was requested very often in the work-up for GERD
diagnosis. There was an emerging need for GERDQ use among gastroenterologists and internists. A local study
is required in order to validate the role of GERDQ in clinical practice.
Keywords: GERDQ, GERD
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản
(BTNDD-TQ) có tần suất ngày càng tăng ở các
nước Châu Á. Tại Việt Nam, BTNDD-TQ ngày
càng được nhận biết nhiều hơn, thực sự là một
bệnh phổ biến cần được sự quan tâm chẩn đoán
và quản lý đúng mức. Nghiên cứu của chúng tôi
tại bệnh viện ĐHYD TP. Hồ Chí Minh năm 2005
trên hơn 3,000 trường hợp liên tiếp được nội soi
tiêu hóa trên cho thấy tỉ lệ viêm trào ngược dạ
dày – thực quản (VTNDD-TQ) là 15,4%, cao hơn
so với tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng ở cùng thời
điểm; trên 95% trường hợp VTNDD-TQ trên nội
soi là ở mức độ nhẹ (độ A hoặc B theo phân loại
Los – Angeles) và không kèm các biến chứng
nghiêm trọng(5). Điều này cho thấy việc xử trí
bệnh lý này nên được triển khai an toàn ở các cơ
sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Bộ câu hỏi
GERDQ hiện nay đang được đề cao ở các nước
phương Tây với vai trò là một công cụ chẩn
đoán BTNDD-TQ đơn giản nhưng tương đối
chính xác, phù hợp trong chẩn đoán và quản lý
bệnh ở các tuyến y tế cơ sở. Tuy nhiên, bảng câu
hỏi này hiện vẫn còn mới mẻ và chưa được ứng
dụng rộng rãi trên thực tế lâm sàng tại Việt
Nam. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm: (1)
khảo sát các phương pháp chẩn đoán BTNDD-
TQ hiện đang được sử dụng tại một số thành
phố lớn ở Việt Nam, và (2) khảo sát ý kiến các
bác sĩ làm việc ở hai chuyên ngành nội tổng
quát và tiêu hóa về giá trị và khả năng ứng dụng
GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu & các bước tiến hành
Đây là nghiên cứu cắt ngang. Một mẫu
thăm dò ý kiến thống nhất được gởi đến các bác
sĩ thuộc hai chuyên ngành tiêu hóa và nội tổng
quát tại các bệnh viện công lập và bệnh viện tư
tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh
và Cần Thơ. Mẫu thăm dò ý kiến này được đính
kèm với 5 – 10 bệnh án chẩn đoán GERD. Trình
tự các bước tiến hành nghiên cứu như sau:
Bước 1: Mỗi bác sĩ tham gia nghiên cứu sẽ
thực hiện việc đánh giá thang điểm GERDQ trên
các bệnh nhân đã được chẩn đoán BTNDD-TQ
theo các phương pháp chẩn đoán hiện hành.
Mỗi bác sĩ sẽ đánh giá GERDQ cho 5 – 10 trường
hợp. Bộ câu hỏi GERDQ được Việt hóa và sử
dụng trong điều tra này do công ty Astra-
Zeneca cung cấp (bảng 1). Bảng Việt hóa này đã
được xác định là đảm bảo được ý nghĩa của bản
GERDQ gốc bằng tiếng Anh khi kiểm tra bằng
phương pháp dịch ngược.
Bước 2: Mỗi bác sĩ tham gia nghiên cứu sẽ
điền vào phiếu thăm dò ý kiến bác sĩ. Nội dung
của mẫu phiếu thăm dò này bao gồm: thông tin
về chuyên khoa hiện đang công tác và 4 câu hỏi
thăm dò về về giá trị của GERDQ về khả năng:
giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính xác, giúp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 25
chẩn đoán bệnh nhanh hơn, giúp đánh giá mức
độ nặng BTNDD-TQ và ý định của bác sĩ về việc
sử dụng GERDQ trong thời gian tới. Mỗi câu
hỏi nêu trên gồm có 4 cấp độ: hoàn toàn đồng ý,
đồng ý, hơi đồng ý và không đồng ý.
Quản lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 15.0 để quản lý số
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê
mô tả để tính tần suất, trung tình và tỉ lệ. Phép
kiểm 2 và Fisher exact để kiểm định sự khác
biệt về phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ
hiện đang được sử dụng, và ý kiến về bảng
GERDQ giữa các bác sĩ thuộc hai chuyên ngành
tiêu hóa và nội tổng quát.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian
từ tháng 11/2010 đến tháng 04/2011. Có 79 bác sĩ
tại 31 bệnh viện công lập và bệnh viện tư tham
gia vào nghiên cứu, trong đó có 58,2% (46/79)
bác sĩ làm việc tại các khoa / phòng khám tiêu
hóa và 41,8% (33/79) làm việc tại các khoa /
phòng khám nội tổng quát. Có 437 bệnh nhân
được hoàn thành phiếu đánh giá thang điểm
GERDQ. Số bệnh nhân nam chiếm tỉ lệ 42,5%
(186/437) và nữ chiếm 57,5% (251/437). Tuổi
trung bình của bệnh nhân là 43,4 ± 14,9. Có 26%
(114/437) bệnh nhân được chẩn đoán BTNDD-
TQ trước khi được khảo sát trong nghiên cứu
này. Phương pháp được sử dụng để chẩn đoán
BTNDD-TQ ở các bệnh nhân trong khảo sát này
được trình bày ở bảng 2.
Bảng 1. Bộ câu hỏi GERDQ trong chẩn đoán BNTDD-TQ
Số ngày có triệu chứng / tuần qua 0 1 2 – 3 4 – 7
Điểm GERDQ
Ống / bà có thường cảm thấy nóng rát vùng giữa ngực sau xương ức hay
không? (ợ nóng)
0 1 2 3
Ông / bà có thường bị ợ nước chua hoặc thức ăn từ dạ dày lên cổ họng hoặc
miệng hay không? (ợ trớ)
0 1 2 3
Ông / bà có thường bị đau ở vùng giữa bụng trên hay không? 3 2 1 0
Ông / bà có thường bị buồn nôn hay không? 3 2 1 0
Ông / bà có thường bị khó ngủ về đêm vì cảm giác nóng rát sau xương ức và /
hoặc ợ trớ hay không?
0 1 2 3
Ông / bà có thường phải uống thêm thuốc khác ngoài thuốc bác sĩ đã kê toa để
trị chứng ợ nóng và / hoặc ợ hay không?
0 1 2 3
Bảng 2. Phương pháp được sử dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ
PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN
BTNDD-TQ
LẦN KHÁM TRƯỚC
(BN có tiền căn đã được chẩn đoán
BTNDD-TQ) n = 114
LẦN KHÁM
HIỆN TẠI
(n = 437)
Tiền sử bị BTNDD-TQ - 15,1 % (66/437)
Triệu chứng trào ngược điển hình hoặc điều trị thử 76,3% (86/114) 89 % (389/437)
Nội soi tiêu hóa trên 65,8 % (75/114) 50,1 % (219 / 437)
Nhận xét: Có hơn 50% bệnh nhân được
khảo sát trong nghiên cứu này được nội soi
tiêu hóa trên.
Phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ hiện
hành vẫn là nội soi tiêu hóa trên và dựa trên
triệu chứng (TC) hoặc điều trị thử (ĐT thử). Biểu
đồ 1 cho thấy tỉ lệ sử dụng các phương pháp
chẩn đoán bệnh theo chuyên khoa lâm sàng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 26
Biểu đồ 1. Phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ
theo chuyên khoa
Nhận xét: Phần lớn các bác sĩ chỉ định nội
soi tiêu hóa trên ở các trường hợp nghi ngờ
BTNDD-TQ. Tỉ lệ này cao hơn ở nhóm bác sĩ
công tác trong chuyên ngành nội tổng quát
nhưng sự khác biệt giữa hai chuyên khoa không
có ý nghĩa thống kê (Kiểm 2, p = 0,36).
Có 95,2% (416/437) bệnh nhân được hoàn
thành bảng đánh giá triệu chứng theo bộ câu hỏi
GERDQ. 28,1% (117/416) có điểm ảnh hưởng
GERDQ ở mức độ nặng. Phân bố tổng điểm
GERDQ được trình bày theo bảng 2.
Bảng 3. Phân bố tổng điểm GERDQ của bệnh nhân
trong nghiên cứu
ĐIỂM GERDQ n % % TÍCH
LŨY
0 – 2 5 1,2% 1,2%
3 – 7 97 23,3% 24,5%
8 – 10 197 47,4% 71,9%
11 – 18 117 28,1% 100%
TỔNG CỘNG 416 100%
Nhận xét: 75,5% trường hợp bệnh nhân
được chẩn đoán BTNDD-TQ theo phương pháp
thực hành hiện tại có điểm GERDQ ≥ 8.
Bảng 4. Khảo sát ý kiến “GERDQ giúp tăng độ
chính xác trong chẩn đoán BTNDD-TQ”
Ý kiến tính chung
(n, %)
tiêu hóa
(n, %)
Nội tổng quát
(n, %)
Hoàn toàn đồng ý 28 (35,5%) 15 (33%) 13 (39,5%)
Đồng ý 44 (55,7%) 27 (59%) 17 (51,5%)
Hơi đồng ý 04 (5%) 2 (4%) 2 (6%)
Không đồng ý 03 (3,8%) 2 (4%) 1 (3%)
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%)
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1)
Bảng 5. Khảo sát ý kiến “GERDQ hữu ích để đánh
giá mức độ nặng của BTNDD-TQ”
Ý KIẾN TÍNH CHUNG
(n, %)
TIÊU HÓA
(n, %)
NỘI TỔNG
QUÁT (n, %)
Hoàn toàn
đồng ý
35 (44,3%) 18 (39 %) 17 (51,5%)
Đồng ý 38 (48,1%) 26 (57 %) 12 (36,5%)
Hơi đồng ý 5 (6,3%) 2 (4 %) 3 (9%)
Không đồng ý 1 (1,3%) 0 1 (3%)
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%)
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 0,23)
Bảng 6. Khảo sát ý kiến “GERDQ giúp chẩn đoán
BTNDD-TQ nhanh hơn”
Ý KIẾN TÍNH CHUNG
(n, %)
TIÊU HÓA
(n, %)
NỘI TỔNG
QUÁT (n, %)
Hoàn toàn
đồng ý
35 (44,3%) 19 (41,3%) 16 (48,5%)
Đồng ý 37 (46,9%) 23 (50%) 14 (42,5%)
Hơi đồng ý 5 (6,3%) 3 (6,5%) 2 (6%)
Không đồng ý 2 (2,5%) 1 (2,2%) 1 (3%)
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%)
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1).
Bảng 7. Khảo sát ý định sử dụng GERDQ trong thời
gian tới
Ý KIẾN TÍNH CHUNG
(n, %)
TIÊU HÓA
(n, %)
NỘI TỔNG
QUÁT (n, %)
Hoàn toàn
đồng ý
27 (34,2%) 13 (28,3%) 14 (42,5%)
Đồng ý 46 (58,3%) 29 (63%) 17 (51,5%)
Hơi đồng ý 4 (5%) 3 (6,5%) 1 (3%)
Không đồng ý 2 (2,5%) 1 (2,2%) 1 (3%)
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%)
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 27
BÀN LUẬN
Cho đến này vẫn chưa có tiêu chuẩn vàng
để chẩn đoán BTNDD-TQ (kể cả khi đo pH thực
quản 24 giờ)(2). Tuy nhiên, các đồng thuận trên
thế giới cho phép xác định chẩn đoán BTNDD-
TQ dựa trên triệu chứng trào ngược điển hình (ợ
nóng và ợ trớ).(1,7) Phương pháp nội soi tiêu hóa
trên tuy có độ chuyên biệt cao nhưng độ nhạy
chỉ đạt 30 – 40% do đó có thể bỏ sót chẩn đoán
nếu chỉ đơn thuần dựa trên kết quả nội soi.
Trong 60 – 70% các trường hợp còn lại, bệnh
nhân vẫn có thể bị BNTDD-TQ ở thể bệnh
không kèm tổn thương viêm trên nội soi (Non
Erosive Reflux Disease – NERD).
Một điều tra về các phương pháp được sử
dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ ở 6 nước thuộc
khu vực Đông Á (gồm Nhật, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Philippines, Indonesia và Thái Lan) vào
năm 2009 cho thấy phương pháp chẩn đoán phổ
biến biến nhất vẫn là dựa trên triệu chứng lâm
sàng (60%) và kế đến là nội soi dạ dày (30%). Tỉ
lệ bác sĩ yêu cầu nội soi tiêu hóa trên khi chẩn
đoán BTNDD-TQ ở Nhật và Hàn Quốc là các
quốc gia có tỉ lệ ung thư dạ dày thuộc hàng cao
nhất thế giới, cao hơn rõ rệt so với các nước còn
lại nhưng cũng chỉ vào khoảng 50%(3).
Thực tế kết quả của nghiên cứu này cho thấy
nội soi tiêu hóa trên được sử dụng khá nhiều
trong chẩn đoán BTNDD-TQ ở nước ta: hơn
50% trên tổng số 437 bệnh nhân được khảo sát
trong nghiên cứu này được nội soi. Khi khảo sát
riêng ý kiến của các bác sĩ theo chuyên ngành
làm việc về các phương pháp dùng để chẩn
đoán BTNDD-TQ trong thực hành lâm sàng, chỉ
có 30,4% bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và 21,2%
các bác sĩ nội tổng quát sử dụng đơn thuần triệu
chứng lâm sàng hoặc phương pháp điều trị thử
để chẩn đoán BNTDD-TQ. Tỉ lệ này hơi cao hơn
ở chuyên khoa tiêu hóa nhưng sự khác biệt cũng
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,36). Kết quả
của điều tra này cho thấy có thể có hai vấn đề có
thể gây ra khó khăn cho việc chẩn đoán
BTNDD-TQ ở nước ta là: (1) tỉ lệ bệnh nhân
BTNDDTQ có triệu chứng trào ngược điển hình
ở nước ta không đủ cao để nhận diện bệnh trên
lâm sàng và / hoặc (2) thầy thuốc quá lo ngại về
nguy cơ ung thư dạ dày và các bệnh lý thực thể
đường tiêu hóa trên phối hợp với BTNDD-TQ
nên cần đề nghị nội soi để loại trừ.
Liên quan đến vấn đề thứ nhất đã nêu ở
trên, nghiên cứu của chúng tôi trước đây trên
510 bệnh nhân VTNDD-TQ cho thấy than phiền
chính của bệnh nhân là đau thượng vị và đầy
hơi; các triệu chứng trào ngược điển hình (ợ
nóng hoặc ợ trớ) chỉ chiếm khoảng 20% nếu để
bệnh nhân tự khai.(5) Tuy nhiên khi bệnh nhân
được được hỏi kỹ và mô tả chi tiết để hiểu rõ
đặc điểm của triệu chứng trào ngược điển hình,
tỉ lệ phát hiện triệu chứng ợ nóng / ợ trớ gây khó
chịu tăng lên đến trên 60%. Kết quả của nghiên
cứu này cho thấy rằng bệnh nhân Việt Nam có
vẻ như dung nhận khá tốt với triệu chứng trào
ngược điển hình, tuy nhiên độ nhạy của lâm
sàng trong phát hiện BTNDD-TQ vẫn có thể cải
thiện đáng kể nếu ta đầu tư thời gian cho việc
khai thác bệnh sử về các triệu chứng trào ngược.
Do có độ nhạy thấp trong chẩn đoán
BTNDD-TQ như đã nói trên, trên thế giới
phương pháp chẩn đoán bằng nội soi được sử
dụng chủ yếu là nhằm xác định tình trạng và
mức độ viêm trào ngược cũng như các biến
chứng loét, hẹp hoặc ung thư hóa của BTNDD-
TQ; đồng thời xác loại trừ các bệnh lý thực thể
nghiêm trọng kèm theo như loét dạ dày tá tràng
và ung thư dạ dày. Nghiên cứu tại Việt Nam
cho thấy trên 510 bệnh nhân bị VTNDD-TQ liên
tiếp thì có đến 95% trường hợp VTNDD-TQ ở
bệnh nhân Việt Nam là ở mức độ nhẹ với rất
hiếm trường hợp bị biến chứng: nghi ngờ thực
quản Barrett’s trên nội soi (1,6%), loét thực quản
(1,4%), không có trường hợp nào bị hẹp thực
quản hoặc ung thư hóa. Cũng trong nghiên cứu
này, có 17,8% VTNDD-TQ kèm loét dạ dày tá
tràng và có 0,4% kèm ung thư dạ dày.(5) Kết quả
này cũng tương đồng như các nghiên cứu tại các
quốc gia châu Á khác.(6,8) Điều này cho thấy để
chẩn đoán và quản lý tốt bệnh nhân BTNDD-
TQ, cần phải xác định được các yếu tố lâm sàng
có thể tiên đoán nguy cơ VTNDD-TQ trên nội
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 28
soi và tiên đoán khả năng có kèm bệnh lý thực
thể của đường tiêu hóa trên.
Liên quan đến nguy cơ BTNDD-TQ có kèm
bệnh lý thực thể khác của đường tiêu hóa trên,
nghiên cứu của Wu và cộng sự (8) tại Hồng Kông
cũng cho thấy có 18% trường hợp bệnh nhân có
triệu chứng trào ngược điển hình bị loét dạ dày
tá tràng. Tác giả cũng ghi nhận rằng các yếu tố
tiên đoán khả năng BTNDD-TQ có kèm loét dạ
dày – tá tràng bao gồm: nam giới, tuổi > 60 và
tình trạng nhiễm H. pylori.
Liên quan đến khả năng bị VTNDD-TQ trên
nội soi, nghiên cứu của Jones và cộng sự (4) cho
thấy việc sử dụng bộ câu hỏi GERDQ là một
phương pháp đơn giản có thể giúp ích cho vấn
đề này: với điểm cắt GERDQ là 8, tác giả nhận
thấy nguy cơ kèm VTNDD-TQ và bất thường
pH thực quản 24 giờ tăng dần theo tổng điểm
GERDQ: tỉ lệ này lần lượt là 48,5% và 53,6% khi
điểm GERDQ từ 8 – 10; và lần lượt là 60,7% và
62,3% khi điểm GERDQ từ 11 – 18. Cho đến hiện
tại, đây là công trình trong nước đầu tiên ghi
khảo sát về kinh nghiệm sử dụng GERDQ trong
chẩn đoán BTNDD-TQ của các bác sĩ trong lĩnh
vực nội khoa tổng quát và chuyên ngành tiêu
hóa. Trong khảo sát này, một điểm khá ấn tượng
là trên 90% các bác sĩ làm việc ở cả chuyên
ngành tiêu hóa và nội tổng quát đều đồng ý
rằng GERDQ giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính
xác, nhanh hơn, xác định được mức độ ảnh
hưởng của bệnh lên chất lượng sống của cơ thể
và hướng đến việc sử dụng GERDQ trong thực
hành lâm sàng sắp đến (bảng 4 – 7). Điều này
cho thấy có một nhu cầu rất lớn về việc sử dụng
GERDQ trong thực hành lâm sàng và đòi hỏi
cần phải có một công trình nghiên cứu xác định
giá trị của bộ câu hỏi này khi ứng dụng vào thực
tế bệnh nhân Việt Nam để có thể áp dụng vào
thực hành lâm sàng. Trong điều tra này, 75,5%
trên tổng số 437 trường hợp bệnh nhân được
chẩn đoán BTNDD-TQ theo phương pháp thực
hành lâm sàng hiện tại của các bác sĩ có điểm
GERDQ ≥ 8. Do đây là một điều tra khảo sát ý
kiến, chúng tôi không đặt ra vấn đề xác định độ
nhạy và độ chuyên biệt của các phương pháp
chẩn đoán BTNDD-TQ. Tuy nhiên, một điểm
đặc biệt là phần lớn bệnh nhân Việt Nam bị
BTNDD-TQ có than phiền chính là đau thượng
vị.(5) Điều này có thể góp phần quan trọng làm
giảm tổng điểm GERDQ, từ đó có thể sẽ làm cho
điểm cắt GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ
khi áp dụng ở nước ta thấp hơn so với kết quả
trong nghiên cứu của Jones và cộng sự.(4) Cần
tiến hành thêm các nghiên cứu tại chỗ để chứng
minh luận điểm này và xác định giá trị thực sự
của GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ ở
người Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nội soi tiêu hóa trên vẫn còn được đề nghị
khá phổ biến trong