Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 23
KHẢO SÁT Ý KIẾN VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN HIỆN TẠI 
VÀ GIÁ TRỊ CỦA BỘ CÂU HỎI GERDQ TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH 
TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY – THỰC QUẢN 
Quách Trọng Đức*, Phan Thanh Hương** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: (1) Khảo sát các phương pháp hiện hành được dùng để chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực 
quản (BTNDD-TQ); và (2) khảo sát ý kiến của các bác sĩ tiêu hóa và nội tổng quát về giá trị và khả năng ứng 
dụng bộ câu hỏi GERDQ trong thực hành lâm sàng. 
Đối tượng và phương pháp: Một bộ câu hỏi về phương pháp sử dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ hiện tại 
và giá trị của GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ và ý định sử dụng GERDQ trong tương lai được gởi đến 
các bác sĩ làm việc trong hai lĩnh vực nêu trên ở Hà Nội, TP. HCM và Cần Thơ. Mỗi bác sĩ sẽ đánh giá GERDQ 
trên 5 – 10 bệnh nhân đã được xác định BTNDD-TQ dựa trên phương pháp chẩn đoán hiện hành và sau đó trả 
lời bộ câu hỏi thăm dò ý kiến. 
Kết quả: 79 bác sĩ (46 tiêu hóa, 33 nội tổng quát) tham gia nghiên cứu. Hai phương pháp chính được sử 
dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ là nội soi và triệu chứng trào ngược điển hình. Chỉ có 30,4% bác sĩ tiêu hóa và 
21,2% bác sĩ nội tổng quát chẩn đoán BTNDD-TQ mà không cần yêu cầu nội soi. 50,1% (219/437) bệnh nhân 
được chẩn đoán BTNDD-TQ theo các phương pháp hiện hành được yêu cầu nội soi. Trên 90% các bác sĩ cho 
rằng GERDQ giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính xác, nhanh chóng, đánh giá mức độ nặng của bệnh và dự định 
sử dụng GERDQ trong thời gian tới. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về ý kiến giữa bác sĩ làm việc 
trong lĩnh vực tiêu hóa và nội tổng quát. 
Kết luận: Nội soi dạ dày vẫn còn được sử dụng khá phổ biến trong chẩn đoán BTNDD-TQ. Có một nhu 
cầu sử dụng GERDQ rất lớn nhằm chẩn đoán BTNDD-TQ trong cả lĩnh vực nội tổng quát và tiêu hóa. Cần có 
nghiên cứu tại chỗ để xác định giá trị của bộ câu hỏi GERDQ khi ứng dụng vào thực tế Việt Nam. 
Từ khóa: Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản, GERDQ 
ABSTRACT 
A SURVEY ON THE CURRENT METHODS FOR GERD DIAGNOSIS AND THE VALUE OF GERDQ 
QUESTIONAIRE 
Quach Trong Duc, Phan Thanh Huong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 23 - 29 
Aims: (1) To investigate the current methods for GERD diagnosis (2) to investigate the comments of doctors 
working at Departments of Gastroenterology and Departments of Internal Medicine in several cities in Vietnam 
on the value and the potential role of GERDQ in clinical practice. 
Subjects and methods: A questionaire which includes questions about the current GERD diagnosis 
methods and comments regarding the value of GERDQ on GERD diagnosis accuracy, rapidity, severity and 
doctors’ intention to use GERDQ in the future was sent to doctors working in the two above-mentioned 
departments in Hanoi, Hochiminh and Cantho. Each doctor firstly used the GERDQ questionaire to evaluate 5 to 
 Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. HCM,  Bộ phận Y khoa, Astra Zeneca Việt Nam 
Tác giả liên lạc: TS BS Quách Trọng Đức ĐT: 091.8080225, email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 24
10 patients who had diagnosed with GERD based on their current diagnostic practice and then answered the 
questionaire. 
Results: There were 79 doctors (46 gastroenterologists, 33 internists) in this survey. Upper gastrointestinal 
endoscopy and typical reflux symptoms are the two main methods which were used for GERD diagnosis. Only 
30.4% gastroenterologists and 21.2% internists used reflux symptoms alone for GERD diagnosis. 50.1% 
(219/437) patients with GERD who were evaluated with GERDQ in our survey were required endoscopy. More 
than 90% of doctors agreed that GERDQ could help to diagnose GERD accurately, quickly, to assess the severity 
of GERD and intend to use it in the future. There were no significant differences in the comments between 
gastroenterologists and internists. 
Conclusions: Upper gastrointestinal endoscopy was requested very often in the work-up for GERD 
diagnosis. There was an emerging need for GERDQ use among gastroenterologists and internists. A local study 
is required in order to validate the role of GERDQ in clinical practice. 
Keywords: GERDQ, GERD 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản 
(BTNDD-TQ) có tần suất ngày càng tăng ở các 
nước Châu Á. Tại Việt Nam, BTNDD-TQ ngày 
càng được nhận biết nhiều hơn, thực sự là một 
bệnh phổ biến cần được sự quan tâm chẩn đoán 
và quản lý đúng mức. Nghiên cứu của chúng tôi 
tại bệnh viện ĐHYD TP. Hồ Chí Minh năm 2005 
trên hơn 3,000 trường hợp liên tiếp được nội soi 
tiêu hóa trên cho thấy tỉ lệ viêm trào ngược dạ 
dày – thực quản (VTNDD-TQ) là 15,4%, cao hơn 
so với tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng ở cùng thời 
điểm; trên 95% trường hợp VTNDD-TQ trên nội 
soi là ở mức độ nhẹ (độ A hoặc B theo phân loại 
Los – Angeles) và không kèm các biến chứng 
nghiêm trọng(5). Điều này cho thấy việc xử trí 
bệnh lý này nên được triển khai an toàn ở các cơ 
sở chăm sóc sức khỏe ban đầu. Bộ câu hỏi 
GERDQ hiện nay đang được đề cao ở các nước 
phương Tây với vai trò là một công cụ chẩn 
đoán BTNDD-TQ đơn giản nhưng tương đối 
chính xác, phù hợp trong chẩn đoán và quản lý 
bệnh ở các tuyến y tế cơ sở. Tuy nhiên, bảng câu 
hỏi này hiện vẫn còn mới mẻ và chưa được ứng 
dụng rộng rãi trên thực tế lâm sàng tại Việt 
Nam. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm: (1) 
khảo sát các phương pháp chẩn đoán BTNDD-
TQ hiện đang được sử dụng tại một số thành 
phố lớn ở Việt Nam, và (2) khảo sát ý kiến các 
bác sĩ làm việc ở hai chuyên ngành nội tổng 
quát và tiêu hóa về giá trị và khả năng ứng dụng 
GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu & các bước tiến hành 
 Đây là nghiên cứu cắt ngang. Một mẫu 
thăm dò ý kiến thống nhất được gởi đến các bác 
sĩ thuộc hai chuyên ngành tiêu hóa và nội tổng 
quát tại các bệnh viện công lập và bệnh viện tư 
tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh 
và Cần Thơ. Mẫu thăm dò ý kiến này được đính 
kèm với 5 – 10 bệnh án chẩn đoán GERD. Trình 
tự các bước tiến hành nghiên cứu như sau: 
Bước 1: Mỗi bác sĩ tham gia nghiên cứu sẽ 
thực hiện việc đánh giá thang điểm GERDQ trên 
các bệnh nhân đã được chẩn đoán BTNDD-TQ 
theo các phương pháp chẩn đoán hiện hành. 
Mỗi bác sĩ sẽ đánh giá GERDQ cho 5 – 10 trường 
hợp. Bộ câu hỏi GERDQ được Việt hóa và sử 
dụng trong điều tra này do công ty Astra-
Zeneca cung cấp (bảng 1). Bảng Việt hóa này đã 
được xác định là đảm bảo được ý nghĩa của bản 
GERDQ gốc bằng tiếng Anh khi kiểm tra bằng 
phương pháp dịch ngược. 
Bước 2: Mỗi bác sĩ tham gia nghiên cứu sẽ 
điền vào phiếu thăm dò ý kiến bác sĩ. Nội dung 
của mẫu phiếu thăm dò này bao gồm: thông tin 
về chuyên khoa hiện đang công tác và 4 câu hỏi 
thăm dò về về giá trị của GERDQ về khả năng: 
giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính xác, giúp 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 25
chẩn đoán bệnh nhanh hơn, giúp đánh giá mức 
độ nặng BTNDD-TQ và ý định của bác sĩ về việc 
sử dụng GERDQ trong thời gian tới. Mỗi câu 
hỏi nêu trên gồm có 4 cấp độ: hoàn toàn đồng ý, 
đồng ý, hơi đồng ý và không đồng ý. 
Quản lý và phân tích số liệu 
Sử dụng phần mềm SPSS 15.0 để quản lý số 
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê 
mô tả để tính tần suất, trung tình và tỉ lệ. Phép 
kiểm 2 và Fisher exact để kiểm định sự khác 
biệt về phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ 
hiện đang được sử dụng, và ý kiến về bảng 
GERDQ giữa các bác sĩ thuộc hai chuyên ngành 
tiêu hóa và nội tổng quát. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian 
từ tháng 11/2010 đến tháng 04/2011. Có 79 bác sĩ 
tại 31 bệnh viện công lập và bệnh viện tư tham 
gia vào nghiên cứu, trong đó có 58,2% (46/79) 
bác sĩ làm việc tại các khoa / phòng khám tiêu 
hóa và 41,8% (33/79) làm việc tại các khoa / 
phòng khám nội tổng quát. Có 437 bệnh nhân 
được hoàn thành phiếu đánh giá thang điểm 
GERDQ. Số bệnh nhân nam chiếm tỉ lệ 42,5% 
(186/437) và nữ chiếm 57,5% (251/437). Tuổi 
trung bình của bệnh nhân là 43,4 ± 14,9. Có 26% 
(114/437) bệnh nhân được chẩn đoán BTNDD-
TQ trước khi được khảo sát trong nghiên cứu 
này. Phương pháp được sử dụng để chẩn đoán 
BTNDD-TQ ở các bệnh nhân trong khảo sát này 
được trình bày ở bảng 2. 
Bảng 1. Bộ câu hỏi GERDQ trong chẩn đoán BNTDD-TQ 
Số ngày có triệu chứng / tuần qua 0 1 2 – 3 4 – 7 
 Điểm GERDQ 
Ống / bà có thường cảm thấy nóng rát vùng giữa ngực sau xương ức hay 
không? (ợ nóng) 
0 1 2 3 
Ông / bà có thường bị ợ nước chua hoặc thức ăn từ dạ dày lên cổ họng hoặc 
miệng hay không? (ợ trớ) 
0 1 2 3 
Ông / bà có thường bị đau ở vùng giữa bụng trên hay không? 3 2 1 0 
Ông / bà có thường bị buồn nôn hay không? 3 2 1 0 
Ông / bà có thường bị khó ngủ về đêm vì cảm giác nóng rát sau xương ức và / 
hoặc ợ trớ hay không? 
0 1 2 3 
Ông / bà có thường phải uống thêm thuốc khác ngoài thuốc bác sĩ đã kê toa để 
trị chứng ợ nóng và / hoặc ợ hay không? 
0 1 2 3 
Bảng 2. Phương pháp được sử dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ 
PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN 
BTNDD-TQ 
LẦN KHÁM TRƯỚC 
(BN có tiền căn đã được chẩn đoán 
BTNDD-TQ) n = 114 
LẦN KHÁM 
HIỆN TẠI 
(n = 437) 
Tiền sử bị BTNDD-TQ - 15,1 % (66/437) 
Triệu chứng trào ngược điển hình hoặc điều trị thử 76,3% (86/114) 89 % (389/437) 
Nội soi tiêu hóa trên 65,8 % (75/114) 50,1 % (219 / 437) 
Nhận xét: Có hơn 50% bệnh nhân được 
khảo sát trong nghiên cứu này được nội soi 
tiêu hóa trên. 
Phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ hiện 
hành vẫn là nội soi tiêu hóa trên và dựa trên 
triệu chứng (TC) hoặc điều trị thử (ĐT thử). Biểu 
đồ 1 cho thấy tỉ lệ sử dụng các phương pháp 
chẩn đoán bệnh theo chuyên khoa lâm sàng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 26
Biểu đồ 1. Phương pháp chẩn đoán BTNDD-TQ 
theo chuyên khoa 
Nhận xét: Phần lớn các bác sĩ chỉ định nội 
soi tiêu hóa trên ở các trường hợp nghi ngờ 
BTNDD-TQ. Tỉ lệ này cao hơn ở nhóm bác sĩ 
công tác trong chuyên ngành nội tổng quát 
nhưng sự khác biệt giữa hai chuyên khoa không 
có ý nghĩa thống kê (Kiểm 2, p = 0,36). 
Có 95,2% (416/437) bệnh nhân được hoàn 
thành bảng đánh giá triệu chứng theo bộ câu hỏi 
GERDQ. 28,1% (117/416) có điểm ảnh hưởng 
GERDQ ở mức độ nặng. Phân bố tổng điểm 
GERDQ được trình bày theo bảng 2. 
Bảng 3. Phân bố tổng điểm GERDQ của bệnh nhân 
trong nghiên cứu 
ĐIỂM GERDQ n % % TÍCH 
LŨY 
0 – 2 5 1,2% 1,2% 
3 – 7 97 23,3% 24,5% 
8 – 10 197 47,4% 71,9% 
11 – 18 117 28,1% 100% 
TỔNG CỘNG 416 100% 
Nhận xét: 75,5% trường hợp bệnh nhân 
được chẩn đoán BTNDD-TQ theo phương pháp 
thực hành hiện tại có điểm GERDQ ≥ 8. 
Bảng 4. Khảo sát ý kiến “GERDQ giúp tăng độ 
chính xác trong chẩn đoán BTNDD-TQ” 
Ý kiến tính chung 
(n, %) 
tiêu hóa 
(n, %) 
Nội tổng quát 
(n, %) 
Hoàn toàn đồng ý 28 (35,5%) 15 (33%) 13 (39,5%) 
Đồng ý 44 (55,7%) 27 (59%) 17 (51,5%) 
Hơi đồng ý 04 (5%) 2 (4%) 2 (6%) 
Không đồng ý 03 (3,8%) 2 (4%) 1 (3%) 
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%) 
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý 
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác 
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực 
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1) 
Bảng 5. Khảo sát ý kiến “GERDQ hữu ích để đánh 
giá mức độ nặng của BTNDD-TQ” 
Ý KIẾN TÍNH CHUNG 
(n, %) 
TIÊU HÓA 
(n, %) 
NỘI TỔNG 
QUÁT (n, %) 
Hoàn toàn 
đồng ý 
35 (44,3%) 18 (39 %) 17 (51,5%) 
Đồng ý 38 (48,1%) 26 (57 %) 12 (36,5%) 
Hơi đồng ý 5 (6,3%) 2 (4 %) 3 (9%) 
Không đồng ý 1 (1,3%) 0 1 (3%) 
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%) 
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý 
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác 
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực 
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 0,23) 
Bảng 6. Khảo sát ý kiến “GERDQ giúp chẩn đoán 
BTNDD-TQ nhanh hơn” 
Ý KIẾN TÍNH CHUNG 
(n, %) 
TIÊU HÓA 
(n, %) 
NỘI TỔNG 
QUÁT (n, %) 
Hoàn toàn 
đồng ý 
35 (44,3%) 19 (41,3%) 16 (48,5%) 
Đồng ý 37 (46,9%) 23 (50%) 14 (42,5%) 
Hơi đồng ý 5 (6,3%) 3 (6,5%) 2 (6%) 
Không đồng ý 2 (2,5%) 1 (2,2%) 1 (3%) 
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%) 
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý 
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác 
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực 
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1). 
Bảng 7. Khảo sát ý định sử dụng GERDQ trong thời 
gian tới 
Ý KIẾN TÍNH CHUNG 
(n, %) 
TIÊU HÓA 
(n, %) 
NỘI TỔNG 
QUÁT (n, %) 
Hoàn toàn 
đồng ý 
27 (34,2%) 13 (28,3%) 14 (42,5%) 
Đồng ý 46 (58,3%) 29 (63%) 17 (51,5%) 
Hơi đồng ý 4 (5%) 3 (6,5%) 1 (3%) 
Không đồng ý 2 (2,5%) 1 (2,2%) 1 (3%) 
Tổng cộng 79 (100%) 46 (100%) 33 (100%) 
Nhận xét: Tỉ lệ đồng ý và hoàn toàn đồng ý 
tính chung đạt trên 90% và không có sự khác 
biệt giữa hai nhóm bác sĩ làm việc trong lĩnh vực 
tiêu hóa và nội tổng quát (Kiểm Fisher, p = 1). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 27
BÀN LUẬN 
Cho đến này vẫn chưa có tiêu chuẩn vàng 
để chẩn đoán BTNDD-TQ (kể cả khi đo pH thực 
quản 24 giờ)(2). Tuy nhiên, các đồng thuận trên 
thế giới cho phép xác định chẩn đoán BTNDD-
TQ dựa trên triệu chứng trào ngược điển hình (ợ 
nóng và ợ trớ).(1,7) Phương pháp nội soi tiêu hóa 
trên tuy có độ chuyên biệt cao nhưng độ nhạy 
chỉ đạt 30 – 40% do đó có thể bỏ sót chẩn đoán 
nếu chỉ đơn thuần dựa trên kết quả nội soi. 
Trong 60 – 70% các trường hợp còn lại, bệnh 
nhân vẫn có thể bị BNTDD-TQ ở thể bệnh 
không kèm tổn thương viêm trên nội soi (Non 
Erosive Reflux Disease – NERD). 
Một điều tra về các phương pháp được sử 
dụng để chẩn đoán BTNDD-TQ ở 6 nước thuộc 
khu vực Đông Á (gồm Nhật, Hàn Quốc, Trung 
Quốc, Philippines, Indonesia và Thái Lan) vào 
năm 2009 cho thấy phương pháp chẩn đoán phổ 
biến biến nhất vẫn là dựa trên triệu chứng lâm 
sàng (60%) và kế đến là nội soi dạ dày (30%). Tỉ 
lệ bác sĩ yêu cầu nội soi tiêu hóa trên khi chẩn 
đoán BTNDD-TQ ở Nhật và Hàn Quốc là các 
quốc gia có tỉ lệ ung thư dạ dày thuộc hàng cao 
nhất thế giới, cao hơn rõ rệt so với các nước còn 
lại nhưng cũng chỉ vào khoảng 50%(3). 
Thực tế kết quả của nghiên cứu này cho thấy 
nội soi tiêu hóa trên được sử dụng khá nhiều 
trong chẩn đoán BTNDD-TQ ở nước ta: hơn 
50% trên tổng số 437 bệnh nhân được khảo sát 
trong nghiên cứu này được nội soi. Khi khảo sát 
riêng ý kiến của các bác sĩ theo chuyên ngành 
làm việc về các phương pháp dùng để chẩn 
đoán BTNDD-TQ trong thực hành lâm sàng, chỉ 
có 30,4% bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa và 21,2% 
các bác sĩ nội tổng quát sử dụng đơn thuần triệu 
chứng lâm sàng hoặc phương pháp điều trị thử 
để chẩn đoán BNTDD-TQ. Tỉ lệ này hơi cao hơn 
ở chuyên khoa tiêu hóa nhưng sự khác biệt cũng 
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,36). Kết quả 
của điều tra này cho thấy có thể có hai vấn đề có 
thể gây ra khó khăn cho việc chẩn đoán 
BTNDD-TQ ở nước ta là: (1) tỉ lệ bệnh nhân 
BTNDDTQ có triệu chứng trào ngược điển hình 
ở nước ta không đủ cao để nhận diện bệnh trên 
lâm sàng và / hoặc (2) thầy thuốc quá lo ngại về 
nguy cơ ung thư dạ dày và các bệnh lý thực thể 
đường tiêu hóa trên phối hợp với BTNDD-TQ 
nên cần đề nghị nội soi để loại trừ. 
Liên quan đến vấn đề thứ nhất đã nêu ở 
trên, nghiên cứu của chúng tôi trước đây trên 
510 bệnh nhân VTNDD-TQ cho thấy than phiền 
chính của bệnh nhân là đau thượng vị và đầy 
hơi; các triệu chứng trào ngược điển hình (ợ 
nóng hoặc ợ trớ) chỉ chiếm khoảng 20% nếu để 
bệnh nhân tự khai.(5) Tuy nhiên khi bệnh nhân 
được được hỏi kỹ và mô tả chi tiết để hiểu rõ 
đặc điểm của triệu chứng trào ngược điển hình, 
tỉ lệ phát hiện triệu chứng ợ nóng / ợ trớ gây khó 
chịu tăng lên đến trên 60%. Kết quả của nghiên 
cứu này cho thấy rằng bệnh nhân Việt Nam có 
vẻ như dung nhận khá tốt với triệu chứng trào 
ngược điển hình, tuy nhiên độ nhạy của lâm 
sàng trong phát hiện BTNDD-TQ vẫn có thể cải 
thiện đáng kể nếu ta đầu tư thời gian cho việc 
khai thác bệnh sử về các triệu chứng trào ngược. 
Do có độ nhạy thấp trong chẩn đoán 
BTNDD-TQ như đã nói trên, trên thế giới 
phương pháp chẩn đoán bằng nội soi được sử 
dụng chủ yếu là nhằm xác định tình trạng và 
mức độ viêm trào ngược cũng như các biến 
chứng loét, hẹp hoặc ung thư hóa của BTNDD-
TQ; đồng thời xác loại trừ các bệnh lý thực thể 
nghiêm trọng kèm theo như loét dạ dày tá tràng 
và ung thư dạ dày. Nghiên cứu tại Việt Nam 
cho thấy trên 510 bệnh nhân bị VTNDD-TQ liên 
tiếp thì có đến 95% trường hợp VTNDD-TQ ở 
bệnh nhân Việt Nam là ở mức độ nhẹ với rất 
hiếm trường hợp bị biến chứng: nghi ngờ thực 
quản Barrett’s trên nội soi (1,6%), loét thực quản 
(1,4%), không có trường hợp nào bị hẹp thực 
quản hoặc ung thư hóa. Cũng trong nghiên cứu 
này, có 17,8% VTNDD-TQ kèm loét dạ dày tá 
tràng và có 0,4% kèm ung thư dạ dày.(5) Kết quả 
này cũng tương đồng như các nghiên cứu tại các 
quốc gia châu Á khác.(6,8) Điều này cho thấy để 
chẩn đoán và quản lý tốt bệnh nhân BTNDD-
TQ, cần phải xác định được các yếu tố lâm sàng 
có thể tiên đoán nguy cơ VTNDD-TQ trên nội 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 28
soi và tiên đoán khả năng có kèm bệnh lý thực 
thể của đường tiêu hóa trên. 
Liên quan đến nguy cơ BTNDD-TQ có kèm 
bệnh lý thực thể khác của đường tiêu hóa trên, 
nghiên cứu của Wu và cộng sự (8) tại Hồng Kông 
cũng cho thấy có 18% trường hợp bệnh nhân có 
triệu chứng trào ngược điển hình bị loét dạ dày 
tá tràng. Tác giả cũng ghi nhận rằng các yếu tố 
tiên đoán khả năng BTNDD-TQ có kèm loét dạ 
dày – tá tràng bao gồm: nam giới, tuổi > 60 và 
tình trạng nhiễm H. pylori. 
Liên quan đến khả năng bị VTNDD-TQ trên 
nội soi, nghiên cứu của Jones và cộng sự (4) cho 
thấy việc sử dụng bộ câu hỏi GERDQ là một 
phương pháp đơn giản có thể giúp ích cho vấn 
đề này: với điểm cắt GERDQ là 8, tác giả nhận 
thấy nguy cơ kèm VTNDD-TQ và bất thường 
pH thực quản 24 giờ tăng dần theo tổng điểm 
GERDQ: tỉ lệ này lần lượt là 48,5% và 53,6% khi 
điểm GERDQ từ 8 – 10; và lần lượt là 60,7% và 
62,3% khi điểm GERDQ từ 11 – 18. Cho đến hiện 
tại, đây là công trình trong nước đầu tiên ghi 
khảo sát về kinh nghiệm sử dụng GERDQ trong 
chẩn đoán BTNDD-TQ của các bác sĩ trong lĩnh 
vực nội khoa tổng quát và chuyên ngành tiêu 
hóa. Trong khảo sát này, một điểm khá ấn tượng 
là trên 90% các bác sĩ làm việc ở cả chuyên 
ngành tiêu hóa và nội tổng quát đều đồng ý 
rằng GERDQ giúp chẩn đoán BTNDD-TQ chính 
xác, nhanh hơn, xác định được mức độ ảnh 
hưởng của bệnh lên chất lượng sống của cơ thể 
và hướng đến việc sử dụng GERDQ trong thực 
hành lâm sàng sắp đến (bảng 4 – 7). Điều này 
cho thấy có một nhu cầu rất lớn về việc sử dụng 
GERDQ trong thực hành lâm sàng và đòi hỏi 
cần phải có một công trình nghiên cứu xác định 
giá trị của bộ câu hỏi này khi ứng dụng vào thực 
tế bệnh nhân Việt Nam để có thể áp dụng vào 
thực hành lâm sàng. Trong điều tra này, 75,5% 
trên tổng số 437 trường hợp bệnh nhân được 
chẩn đoán BTNDD-TQ theo phương pháp thực 
hành lâm sàng hiện tại của các bác sĩ có điểm 
GERDQ ≥ 8. Do đây là một điều tra khảo sát ý 
kiến, chúng tôi không đặt ra vấn đề xác định độ 
nhạy và độ chuyên biệt của các phương pháp 
chẩn đoán BTNDD-TQ. Tuy nhiên, một điểm 
đặc biệt là phần lớn bệnh nhân Việt Nam bị 
BTNDD-TQ có than phiền chính là đau thượng 
vị.(5) Điều này có thể góp phần quan trọng làm 
giảm tổng điểm GERDQ, từ đó có thể sẽ làm cho 
điểm cắt GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ 
khi áp dụng ở nước ta thấp hơn so với kết quả 
trong nghiên cứu của Jones và cộng sự.(4) Cần 
tiến hành thêm các nghiên cứu tại chỗ để chứng 
minh luận điểm này và xác định giá trị thực sự 
của GERDQ trong chẩn đoán BTNDD-TQ ở 
người Việt Nam. 
KẾT LUẬN 
Nội soi tiêu hóa trên vẫn còn được đề nghị 
khá phổ biến trong