Mục tiêu: Xác định mức độ kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích trên 106 trường hợp sau mổ có hậu
môn nhân tạo (HMNT) tại khoa Ngoại Tiêu Hóa, BV Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013.
Kết quả: Nghiên cứu 106 người bệnh, gồm 42 nữ và 64 nam. Kiến thức chung đúng tự chăm sóc
HMNT của người bệnh chiếm 51,9% (55/106) trường hợp, thái độ đúng chiếm 58,5%, thực hành chung
đúng chiếm 53,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ của những người bệnh tự chăm sóc hậu
môn nhân tạo (p=0,002<0,05. KTC 95%: 1,21‐2,97). Không có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành,
giữa thái độ và thực hành.
Kết luận: Kết quả nghiên cho thấy tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh còn
thấp. Đề nghị bổ sung vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên điều dưỡng trong việc lập quy trình
giáo dục sức khỏe cho người bệnh, Cần có các giải pháp can thiệp cụ thể tại các khoa Ngoại tiêu hóa, chú ý nội
dung tự thực hành của người bệnh. Kết quả nghiên cứu là những thông tin nền làm cơ sở cho các nghiên cứu
tiếp theo
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 209
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI BỆNH
TỰ CHĂM SÓC HẬU MÔN NHÂN TẠO
Lê Thị Hoàn*, Patricia Messmer **, Trần Thiện Trung *
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định mức độ kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích trên 106 trường hợp sau mổ có hậu
môn nhân tạo (HMNT) tại khoa Ngoại Tiêu Hóa, BV Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013.
Kết quả: Nghiên cứu 106 người bệnh, gồm 42 nữ và 64 nam. Kiến thức chung đúng tự chăm sóc
HMNT của người bệnh chiếm 51,9% (55/106) trường hợp, thái độ đúng chiếm 58,5%, thực hành chung
đúng chiếm 53,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ của những người bệnh tự chăm sóc hậu
môn nhân tạo (p=0,002<0,05. KTC 95%: 1,21‐2,97). Không có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành,
giữa thái độ và thực hành.
Kết luận: Kết quả nghiên cho thấy tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh còn
thấp. Đề nghị bổ sung vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên điều dưỡng trong việc lập quy trình
giáo dục sức khỏe cho người bệnh, Cần có các giải pháp can thiệp cụ thể tại các khoa Ngoại tiêu hóa, chú ý nội
dung tự thực hành của người bệnh. Kết quả nghiên cứu là những thông tin nền làm cơ sở cho các nghiên cứu
tiếp theo.
Từ khóa: Hậu môn nhân tạo; tự chăm sóc hậu môn nhân tạo
ABTRACT
KNOWLEDGE ATTITUDE AND PRACTICE OF PATIENTS SELF CARE COLOSTOMY
Le Thi Hoan, Patricia Messmer, Tran Thien Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 209 ‐ 216
Objective: To determine the level of knowledge, attitude and practice of patients self ‐ care colostomy.
Methods: A descriptive cross‐ sectional study, analyzed 106 patients postoperative have colostomy at the
Department of Digestive Surgery, Cho Ray hospital, Ho Chi Minh City from 4/2013 to 7/2013.
Results: Study106 patients, including 42 woman and 64 men. General knowledge right self‐care colostomy
is 51.9% (55/106) cases, attitude right is 58.5%, and general practice right self‐care colostomy is 53.7%. There
was relationship between knowledge with attitude of the patients self‐care colostomy (p=0.002<0.05, PR=1.89. CI
95%: 1.21 – 2.97). There was no relationship between knowledge with practice (p>0.05). There was no
relationship between attitude with practice (p>0.05).
Conclusion: The results showed that the rate of knowledge, attitude and practice self‐care of patients was
low. Suggest addition to the curriculum for nursing students in the formulation of health education for patients.
It is necessary to set up a special program of education for patients have colostomy the special self‐care practice.
The results were basic information for further research.
Keywords: Colostomy; self‐care colostomy
* Khoa Điều dưỡng‐Kỹ thuật Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
** Friendship Bridge Group‐USA.
Tác giả liên lạc: CN Lê Thị Hoàn ĐT: 0906606556 Email: Khangle2007@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 210
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới
(WHO), ung thư đại ‐ trực tràng là một trong
mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các
nước có thu nhập cao trên thế giới(16). Số người
bệnh ung thư đại ‐ trực tràng được phát hiện
mỗi năm nhiều hơn. Tại Việt Nam, ung thư đại ‐
trực tràng đứng hàng thứ hai trong ung thư tiêu
hóa, sau ung thu dạ dày(17).
Theo số liệu ghi nhận của Tổ chức nghiên
cứu ung thư quốc tế (IARC), năm 2012 tại 40
nước liên minh Châu Âu, ung thư đại trực tràng
gây tử vong 447,000 trường hợp, đứng sau ung
thư vú là 464,000 trường hợp(5).
Người bệnh có hậu môn nhân tạo
(HMNT) thường gặp ở những người lớn tuổi,
sau mổ ung thư đại ‐ trực tràng giai đoạn
muộn cùa u, tắc ruột, chấn thương bụng kín,
mổ đường tiêu hóa do vết thương(10,11). Hậu
môn nhân tạo (HMNT) là lỗ mở chủ động ở
đại tràng ra da để thoát hết phân ra ngoài
nhằm thay thế hậu môn thật, hậu môn nhân
tạo có thể tạm thời sau vài tuần đến vài tháng
thì đóng lại, nhưng cũng có những người bệnh
phải mang HMNT vĩnh viễn suốt quãng đời
còn lại. Người bệnh có HMNT ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và công
việc, là gánh nặng cho gia đình và xã hội(11,18).
Qua các nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước(5,6,7,9,12), liên quan đến kỹ thuật chăm
sóc HMNT cho thấy tỷ lệ biến chứng của HMNT
vẫn còn cao từ 6,9 ‐ 21,7% gồm hoại tử, sa niêm
mạc, tụt HMNT Trong đó người bệnh bị viêm
đỏ da, nhiễm trùng da xung quanh HMNT liên
quan đến chăm sóc HMNT từ 22,2 ‐ 69%.
Như vậy sau phẫu thuật, chăm sóc điều
dưỡng hậu môn nhân tạo là hết sức quan
trọng, bên cạnh đó người bệnh cần có các
thông tin hướng dẫn đúng của điều dưỡng về
chăm sóc HMNT trước khi xuất viện. Có như
vậy mới giúp người bệnh có được các kiến
thức, thái độ, thực hành đúng về tự chăm sóc
HMNT, nâng cao chất lượng cuộc sống để hòa
nhập cộng đồng.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại khoa Ngoại
Tiêu hóa – bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ
Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả người bệnh sau mổ có HMNT chuẩn
bị xuất viện có khả năng nghe và trả lời bảng
câu hỏi hoặc điền vào bảng câu hỏi và có thể tự
thực hiện kỹ thuật chăm sóc HMNT.
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Người bệnh có biến chứng HMNT
‐ Người bệnh có các bệnh kèm theo: đa chấn
thương, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy tim,
suy thận mạn
Công cụ thu thập số liệu
‐ Phỏng vấn trực tiếp người bệnh bằng bộ
câu hỏi liên quan đến kiến thức gồm 20 câu, liên
quan đến thái độ gồm 5 câu, trong khoảng thời
gian dự kiến 30 phút.
‐ Quan sát trực tiếp người bệnh tự thực hành
kỹ thuật chăm sóc hậu môn nhân tạo theo bảng
kiểm gồm 20 bước, dự kiến 20‐30 phút.
‐ Nhập quản lý số liệu bằng phần mềm
Epidata và xử lý số liệu bằng Stata 12.0.
KẾT QUẢ
Qua khảo sát kiến thức, thái độ và quan sát
người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo 106
trường hợp từ 4/2013 đến 7/2013 tại bệnh viện
Chợ Rẫy chúng tôi có kết quả như sau:
Kiến thức tự chăm sóc
Bảng 1. Kết quả kiến thức chung của người bệnh tự
chăm sóc HMNT
Kiến thức Trả lời Số bệnh nhân n=106
Tỷ lệ
(%)
Kiến thức về hậu môn
nhân tạo
Đúng 69 65,1
Không đúng 37 34,9
Kiến thức tự chăm
sóc
Đúng 47 44,3
Không đúng 59 55,7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 211
Kiến thức Trả lời Số bệnh nhân n=106
Tỷ lệ
(%)
Kiến thức xử trí
tai biến – biến chứng
Đúng 43 40,6
Không đúng 63 59,4
Kiến thức
về dinh dưỡng
Đúng 79 74,5
Không đúng 27 25,5
Kiến thức chung
Đúng 55 51,9
Không đúng 51 48,1
Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh, liên
quan đến kiến thức về hậu môn nhân tạo, tỷ lệ
kiến thức đúng không cao chiếm 65,1%, kiến
thức tự chăm sóc đúng thấp chiếm 44,3%, kiến
thức đúng xử trí tai biến – biến chứng thấp nhất
chiếm 40,6%, kiến thức đúng về dinh dưỡng cao
nhất chiếm 74,5%. Tỷ lệ kiến thức chung đúng
tự chăm sóc hậu môn nhân tạo chiếm 51,9%.
Thái độ tự chăm sóc
Bảng 2. Kết quả thái độ tự chăm sóc
Nội dung câu hỏi
Bệnh nhân trả lời
Rất không
đồng ý n (%)
Không đồng ý
n (%)
Không ý kiến
n (%)
Đồng ý
n (%)
Rất đồng ý
n (%)
Khi mang hậu môn nhân tạo thì nên tránh xa
mọi người xung quanh 32 (30,2) 39 (36,8) 11 (10,4) 19 (17,9 5 (4,7)
Tham gia câu lạc bộ những người có hậu môn nhân
tạo 7 (6,6) 9 (8,5) 21 (19,8) 51 (48,1) 18 (17,0)
Mang hậu môn nhân tạo thì không thể chơi
thể thao 20 (18,9) 33 (31,1) 12 (11,3) 31 (29,3) 10 (9,4)
Tự mình chăm sóc hậu môn nhân tạo 6 (5,7) 8 (7,6) 13 (12,2) 60 (56,6) 19 (17,9)
Chia xẻ kinh nghiệm chăm sóc hậu môn
nhân tạo với người bệnh khác 6 (5,7) 1 (0,9) 9 (8,5) 61 (57,6) 29 (27,3)
Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh liên
quan đến thái độ tự chăm sóc khi mang HMNT:
người bệnh có thái độ đúng thể hiện tỷ lệ trả lời
câu hỏi đúng cao ở các câu số 1, số 2, số 4, và số
5. Thái độ chưa rõ ràng ở câu 3.
Bảng 3. Kết quả thái độ chung
Thái độ chung Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
Đúng 62 58,5
Không đúng 44 41,5
Tổng cộng 106 100
Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh liên
quan đến thái độ khi mang HMNT, tỷ lệ người
bệnh có thái độ chung đúng chiếm 58,5%
(62/106) trường hợp.
Thực hành tự chăm sóc
Bảng 4. Kết quả thực hành chung tự chăm sóc hậu
môn nhân tạo
Nội dung Thực hành Số bệnh nhân
Tỷ lệ
(%)
Chuẩn bị
trước khi chăm sóc
Đúng 42 39,6
Không đúng 64 60,4
Thực hành tự chăm sóc
Đúng 87 82,1
Không đúng 19 17,9
Xử lý dụng cụ -
kiểm soát nhiễm khuẩn
Đúng 39 36,8
Không đúng 67 63,2
Thực hành chung
Đúng 57 53,7
Không đúng 49 46,3
Nhận xét: Qua quan sát người bệnh tự thực
hành chăm sóc hậu môn nhân tạo của 106 người
bệnh. Kết quả chung thực hành đúng của người
bệnh không cao chiếm 53,7% (57/106) trường
hợp, thực hành chưa đúng chiếm 46,3% (49/106)
trường hợp.
Mối liên hệ giữa kiến thức, thái độ và thực hành.
Bảng 5. Kết quả về mối liên quan giữa kiến thức và thái độ
Nội dung
Thái độ
p PR (95% CI) Đúng n = 62 (%) Không đúng n = 44 (%)
Kiến thức
Đúng n = 55 40 (72,7) 15 (27,3)
0,002 1,89 (1,21-2,97) Không đúng n = 51 22 (43,1) 29 (56,9)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 212
Nhận xét: Kết quả phân tích khi xét mối liên
quan giữa kiến thức và thái độ của người bệnh
cho thấy ở những người bệnh có kiến thức đúng
thì tỷ lệ thái độ đúng cao gấp 1,89 lần so với
những người bệnh có kiến thức không đúng
(KTC 95%: 1,21‐2,97). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p=0,002.
Bảng 6. Kết quả về mối liên quan giữa kiến thức và thực hành
Nội dung
Thực hành
p P (95% CI) Đúng n = 62 (%) Không đúng n = 44 (%)
Kiến thức
Đúng n = 55 33 (60) 22 (40)
0,18 1,28 (0,89 -1,83) Không đúng n = 51 24 (47,1) 27 (52,9)
Nhận xét:Kết quả phân tích khi xét mối liên
quan giữa kiến thức đúng và thực hành đúng
của người bệnh cho thấy ở những người bệnh
có kiến thức đúng thì tỷ lệ thực hành đúng
bằng 1,28 lần so với những người bệnh có kiến
thức không đúng (KTC 95%: 0.89 – 1,83). Tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê với p=0,18.
Bảng 7. Kết quả về mối liên quan giữa thái độ và thực hành
Nội dung
Thực hành
p PR (95% CI) Đúng n = 57 (%) Không đúng n = 49 (%)
Thái độ
Đúng n = 62 35 (56,5) 27 (43,5)
0,51 1,13 (0,78 – 1,63) Không đúng n = 44 22 (50) 22 (50)
Nhận xét: Kết quả phân tích khi xét mối liên
quan giữa thái độ đúng và thực hành đúng của
người bệnh cho thấy ở những người bệnh có
thái độ đúng thì tỷ lệ thực hành đúng bằng 1,13
lần so với những người bệnh có thái độ không
đúng (KTC 95%: 0.78 – 1,63). Tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,51.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số lượng
người bệnh nam nhiều hơn người bệnh nữ, nam
chiếm 60,4%, nữ chiếm 39,6%, tỷ lệ nam/nữ là
1,52. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu tại
bệnh viện Chợ Rẫy năm 1990 của Lê Trường
Chiến(7), tỷ lệ nam/nữ là 1,52 lần (152/100)
trường hợp, nghiên cứu năm 1993 của Liêu Thị
Ngọc Ánh(6), tỷ lệ nam/nữ 2 lần (32/16), nghiên
cứu năm 2000 của Lê Đức Tuấn(9), tỷ lệ nam/nữ
là 1,28 lần (56/44).
Kiến thức về hậu môn nhân tạo
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
người bệnh có kiến thức về hậu môn nhân tạo
đúng chiếm 65,1%, kiến thức về hậu môn nhân
tạo chưa đúng chiếm 34,9%, tỷ lệ này thấp so
với nghiên cứu năm 2009, tại bệnh viện Hữu
Nghị Việt Đức Hà Nội của Lưu Thị Thủy(8), tỷ
lệ người bệnh hiểu đúng về hậu môn nhân tạo
chiếm 80% (35/44) trường hợp. Phần lớn
những người bệnh lớn tuổi rất mệt mỏi và
không quan tâm đến các thông tin liên quan
đến bệnh, họ phó mặc cho nhân viên y tế và
thân nhân, nghĩ rằng mình đã già và không
cần học hỏi gì thêm, mặt khác tại khoa chưa có
chương trình giáo dục sức khỏe thường xuyên,
thông tin điều dưỡng cung cấp không đồng bộ
và bỏ sót nhiều người bệnh sắp xuất viện
nhưng chưa hiểu gì về bệnh..
Liên quan đến vị trí hậu môn nhân tạo trên
thành bụng, trong nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy có ảnh hưởng rất lớn đến công tác
chăm sóc hậu môn nhân tạo chiếm 74,5. Vị trí
hậu môn nhân tạo trên thành bụng có liên
quan đến thương tổn của ung thư đại‐trực
tràng. Theo nghiên cứu của Đặng Trần Tiến(3),
ung thư đại trực tràng xảy ra nhiều nhất ở đại
tràng phải chiếm 34% (23/68) sau đó là đại
tràng chậu hông 28%.
Kiến thức tự chăm sóc hậu môn nhân tạo
Bảng 1 cho thấy kiến thức tự chăm sóc đúng
của người bệnh thấp chiếm 44,3% (47/106), kiến
thức tự chăm sóc không đúng 55,7%. Một số
người bệnh cho rằng sau mổ họ quá mệt mỏi và
không thể nhớ được những hướng dẫn của điều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 213
dưỡng, những dụng cụ thân nhân tự mua theo
bảng liệt kê dụng cụ của điều dưỡng, tuy nhiên
có một số người bệnh vì nhiều lý do như kinh tế
nên không mua đầy đủ dụng cụ. Nếu vùng da
xung quanh hậu HMNT bị viêm đỏ, nhiễm
trùng thì sẽ được dùng các loại dung dịch khác
như Oxy già, dầu mù u, Oxyt kẽm theo chỉ
định của bác sĩ(1).
Trong kiến thức tự chăm sóc HMNT, có
nhiều người bệnh không biết nên rửa ở phần
ruột trước khi rửa vùng da xung quanh, không
lau da khô, không sát trùng gần 60% trường hợp
(53/106). Người bệnh cho rằng phần ruột cũng
giống phần da, không cần phân biệt thứ tự
trước, sau và đều phải được lau khô và sát trùng
như nhau. Điều này làm tổn thương niêm mạc,
dễ gây chảy máu do lau khô, hoại tử ruột khi sát
trùng dung dịch sát khuẩn mạnh như cồn iode.
Người bệnh không đồng ý sát trùng da do sợ
đau rát chiếm 22,6%.
Kiến thức xử lý tai biến‐biến chứng
Bảng 1 cho thấy kiến thức chung về xử lý tai
biến‐biến chứng đúng có tỷ lệ thấp nhất chiếm
40,6%, kiến thức xử trí tai biến‐biến chứng
không đúng chiếm 59,4%. Trường hợp phân
lỏng thì dùng một miếng gạc nhỏ nhét miệng
HMNT khi đang chăm sóc nhưng lưu ý phải lấy
gạc ra trước khi dán túi, tỷ lệ người bệnh biết
điều này chiếm 67,9%.
Tỷ lệ người bệnh biết khi da xung quanh
hậu môn nhân tạo viêm đỏ thì nên dùng dung
dịch sát trùng mạnh như cồn iode và tự dùng
kháng sinh là chưa đúng không nhiều chiếm
29,3%. Vì vậy cần phải tăng cường cảnh báo về
việc tự ý dùng thuốc của người bệnh và nên
thiết lập bảng danh mục những điều người
bệnh được làm và không được làm. Liên quan
đến dùng thuốc khi bị viêm đỏ da, có 62,3%
người bệnh biết Pommade oxyde de zinc
(Oxyde Kẽm) là thuốc thường dùng bôi lên
vùng da khi bị viêm đỏ, nhiễm trùng. Người
bệnh có HMNT khó tránh được nhiễm trùng
da xung quanh nên việc cung cấp những loại
thuốc, giá thành là việc cần thiết.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Quang
Trung(12), tại bệnh viện Việt Đức từ năm 2000‐
2004, tỷ lệ biến chứng của HMNT là 1,8%
(72/610). Tỷ lệ người bệnh bị nhiễm trùng vùng
da quanh HMNT cao nhất trong các loại biến
chứng chiếm 22,2%.
Kiến thức về dinh dưỡng
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đây là
nhóm kiến thức người bệnh quan tâm nhất
nên tỷ lệ kiến thức đúng cao nhất chiếm 74,5%,
kiến thức chưa đúng về dinh dưỡng chiếm
25,5%. Dinh dưỡng là yếu tố rất quan trọng
đối với chức năng của HMNT, đa số người
bệnh biết chế độ dinh dưỡng bình thường,
không kiêng ăn, nên chọn các chất có nhiều
dinh dưỡng như các loại thịt, ngũ cốc, các lại
rau, trái cây có nhiều vitamin.
Vì vậy cần cung cấp thông tin về chế độ dinh
dưỡng hợp lý, phù hợp với tình trạng bệnh, tính
khẩu phần dinh dưỡng cụ thể và phù hợp cho
từng người bệnh, duy trì cân nặng bình thường,
nên cung cấp thông tin và bảng liệt kê những
thực phẩm người bệnh có HMNT nên ăn và
không nên ăn(18).
Theo nghiên cứu của Phạm Văn Năng và các
cộng sự(14) cho thấy tình trạng dinh dưỡng đóng
vai trò rất quan trọng trong bệnh nhân phẫu
thuật bụng, nó ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra
biến chứng nhiễm trùng sau mổ. Người bệnh có
biến chứng nhẹ chiếm 6,6% (17/262) trường hợp,
biến chứng nặng chiếm 17,6% đều liên quan đến
sự thiếu dinh dưỡng trước mổ.
Thái độ của người bệnh tự chăm sóc hậu
môn nhân tạo
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người
bệnh có thái độ đúng không cao chiếm 58,5%, tỷ
lệ người bệnh có thái độ chưa đúng chiếm
41,5%, phần lớn người bệnh rất không đồng ý và
không đồng ý khi mang hậu môn nhân tạo thì
nên tránh xa mọi người xung quanh. Sự giao
tiếp xã hội là nhu cầu tất yếu của mỗi con người,
đối với người bệnh có HMNT, họ trải qua các
giai đoạn không chấp nhận, mặc cảm và từ chối
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 214
giao tiếp, nhưng cũng nhanh chóng chấp nhân
khi hiểu về bệnh. Khi mang HMNT về nhà
người bệnh luôn muốn làm những công việc có
ích cho gia đình và xã hội. Phần lớn người bệnh
không đồng ý khi mang HMNT phải tránh xa
mọi người xung quanh, trong đó người bệnh trả
lời rất không đồng ý chiếm 30,2%, không đồng ý
chiếm 36,8%. Đa số người bệnh trả lời đồng ý
tham gia câu lạc bộ HMNT chiếm 48,1%, rất
đồng ý 17%. Khi mang HMNT thì không được
chơi thể thao có 31,1% người bệnh không đồng
ý, có 18,9% người bệnh rất không đồng ý.
Thực hành của người bệnh tự chăm sóc
hậu môn nhân tạo
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thực
hành đúng của người bệnh tự chăm sóc HMNT
thấp chiếm 53,7%, tỷ lệ người bệnh thực hành
chưa đúng là 46,3%. Trong đó số người bệnh rửa
tay trước khi chăm sóc HMNT rất ít, chỉ có 18
người bệnh chiếm 16,7%. Nguyên nhân có thể
do người bệnh mệt mỏi và trong phòng không
có bồn rửa tay, người bệnh không quen dùng
dung dịch sát khuẩn tay nhanh vì nó làm khô da
nên phần lớn người bệnh không rửa tay trước
khi chăm sóc, các bước chuẩn bị ở bệnh viện do
sự hướng dẫn của điều dưỡng nên người bệnh
được chuẩn bị khá đầy đủ. Một số người bệnh
do kinh tế nên chỉ mua những dụng cụ cơ bản,
tỷ lệ người bệnh chuẩn bị đúng 39,6%, tỷ lệ
nhóm thực hành kỹ thuật đúng là 67%.
Chuẩn bị trước khi chăm sóc
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trước khi
chăm sóc thì cần chuẩn bị các dựng cụ, dung
dịch, tư thế. Người bệnh luôn có sự hỗ trợ của
thân nhân và điều dưỡng vì người bệnh chưa
thể tự đi mua dụng cụ. Tuy nhiên tỷ lệ chuẩn bị
đúng vẫn thấp chiếm 39,6% do nhiều người
bệnh không rửa tay trước khi chăm sóc vì cho
rằng không cần thiết, phần lớn người bệnh
không chấp nhận mua đầy đủ dụng cụ vì vấn đề
kinh tế. Tỷ lệ người bệnh rửa tay trước khi chăm
sóc rất thấp chiếm 17% (18/106) trường hợp thấp
hơn nhiều so với nghiên cứu năm 2009 của
Naglaa(13), tỷ lệ người bệnh rửa tay trước khi
chăm sóc HMNT là 88,9% (40/45).
Thực hành tự chăm sóc
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người
bệnh thực hành tự chăm sóc đúng có tỷ lệ cao
nhất chiếm 82,1% (87/106) trường hợp. Đa số
người bệnh biết tháo túi chứa ph