Kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo

Mục tiêu: Xác định mức độ kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích trên 106 trường hợp sau mổ có hậu môn nhân tạo (HMNT) tại khoa Ngoại Tiêu Hóa, BV Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013. Kết quả: Nghiên cứu 106 người bệnh, gồm 42 nữ và 64 nam. Kiến thức chung đúng tự chăm sóc HMNT của người bệnh chiếm 51,9% (55/106) trường hợp, thái độ đúng chiếm 58,5%, thực hành chung đúng chiếm 53,7%. Có mối liên quan giữa kiến thức với thái độ của những người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo (p=0,002<0,05. KTC 95%: 1,21‐2,97). Không có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành, giữa thái độ và thực hành. Kết luận: Kết quả nghiên cho thấy tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh còn thấp. Đề nghị bổ sung vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên điều dưỡng trong việc lập quy trình giáo dục sức khỏe cho người bệnh, Cần có các giải pháp can thiệp cụ thể tại các khoa Ngoại tiêu hóa, chú ý nội dung tự thực hành của người bệnh. Kết quả nghiên cứu là những thông tin nền làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo

pdf8 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 209 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI BỆNH   TỰ CHĂM SÓC HẬU MÔN NHÂN TẠO  Lê Thị Hoàn*, Patricia Messmer **, Trần Thiện Trung *  TÓM TẮT  Mục tiêu: Xác định mức độ kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo.   Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích trên 106 trường hợp sau mổ có hậu  môn nhân tạo (HMNT) tại khoa Ngoại Tiêu Hóa, BV Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013.  Kết  quả: Nghiên  cứu 106 người bệnh, gồm 42 nữ và 64 nam. Kiến  thức  chung  đúng  tự  chăm  sóc  HMNT của người bệnh chiếm 51,9%  (55/106)  trường hợp,  thái độ đúng chiếm 58,5%,  thực hành chung  đúng chiếm 53,7%. Có mối  liên quan giữa kiến thức với thái độ của những người bệnh tự chăm sóc hậu  môn nhân tạo (p=0,002<0,05. KTC 95%: 1,21‐2,97). Không có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành,  giữa thái độ và thực hành.  Kết  luận: Kết quả nghiên cho thấy tỷ lệ kiến thức, thái độ và thực hành tự chăm sóc của người bệnh còn  thấp. Đề nghị bổ sung vào chương trình giảng dạy cho học sinh, sinh viên điều dưỡng trong việc lập quy trình  giáo dục sức khỏe cho người bệnh, Cần có các giải pháp can thiệp cụ thể tại các khoa Ngoại tiêu hóa, chú ý nội  dung tự thực hành của người bệnh. Kết quả nghiên cứu là những thông tin nền làm cơ sở cho các nghiên cứu  tiếp theo.  Từ khóa: Hậu môn nhân tạo; tự chăm sóc hậu môn nhân tạo  ABTRACT  KNOWLEDGE ATTITUDE AND PRACTICE OF PATIENTS SELF CARE COLOSTOMY  Le Thi Hoan, Patricia Messmer, Tran Thien Trung  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 209 ‐ 216  Objective: To determine the level of knowledge, attitude and practice of patients self ‐ care colostomy.   Methods: A descriptive cross‐ sectional study, analyzed 106 patients postoperative have colostomy at the  Department of Digestive Surgery, Cho Ray hospital, Ho Chi Minh City from 4/2013 to 7/2013.  Results: Study106 patients, including 42 woman and 64 men. General knowledge right self‐care colostomy  is 51.9% (55/106) cases, attitude right is 58.5%, and general practice right self‐care colostomy is 53.7%. There  was relationship between knowledge with attitude of the patients self‐care colostomy (p=0.002<0.05, PR=1.89. CI  95%:  1.21  –  2.97).  There  was  no  relationship  between  knowledge  with  practice  (p>0.05).  There  was  no  relationship between attitude with practice (p>0.05).   Conclusion: The results showed that the rate of knowledge, attitude and practice self‐care of patients was  low. Suggest addition to the curriculum for nursing students in the formulation of health education for patients.  It is necessary to set up a special program of education for patients have colostomy the special self‐care practice.  The results were basic information for further research.   Keywords: Colostomy; self‐care colostomy  * Khoa Điều dưỡng‐Kỹ thuật Y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh   ** Friendship Bridge Group‐USA.  Tác giả liên lạc: CN Lê Thị Hoàn  ĐT: 0906606556 Email: Khangle2007@gmail.com Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  210 ĐẶT VẤN ĐỀ   Theo  báo  cáo  của  tổ  chức  y  tế  thế  giới  (WHO), ung  thư  đại  ‐  trực  tràng  là một  trong  mười nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các  nước có  thu nhập cao  trên  thế giới(16). Số người  bệnh ung  thư  đại  ‐  trực  tràng  được  phát  hiện  mỗi năm nhiều hơn. Tại Việt Nam, ung thư đại ‐  trực tràng đứng hàng thứ hai trong ung thư tiêu  hóa, sau ung thu dạ dày(17).   Theo  số  liệu ghi nhận  của Tổ  chức nghiên  cứu  ung  thư  quốc  tế  (IARC),  năm  2012  tại  40  nước liên minh Châu Âu, ung thư đại trực tràng  gây tử vong 447,000 trường hợp, đứng sau ung  thư vú là 464,000 trường hợp(5).   Người  bệnh  có  hậu  môn  nhân  tạo  (HMNT)  thường gặp ở những người  lớn  tuổi,  sau  mổ  ung  thư  đại  ‐  trực  tràng  giai  đoạn  muộn  cùa u,  tắc  ruột,  chấn  thương bụng kín,  mổ  đường  tiêu  hóa  do  vết  thương(10,11). Hậu  môn nhân  tạo  (HMNT)  là  lỗ mở  chủ  động  ở  đại  tràng  ra  da  để  thoát  hết  phân  ra  ngoài  nhằm  thay  thế hậu môn  thật, hậu môn nhân  tạo có thể tạm thời sau vài tuần đến vài tháng  thì đóng lại, nhưng cũng có những người bệnh  phải mang HMNT  vĩnh  viễn  suốt  quãng  đời  còn  lại.  Người  bệnh  có  HMNT  ảnh  hưởng  nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và công  việc, là gánh nặng cho gia đình và xã hội(11,18).   Qua các nghiên cứu của các tác giả trong và  ngoài nước(5,6,7,9,12),  liên quan đến kỹ  thuật chăm  sóc HMNT cho thấy tỷ lệ biến chứng của HMNT  vẫn còn cao từ 6,9 ‐ 21,7% gồm hoại tử, sa niêm  mạc, tụt HMNT Trong đó người bệnh bị viêm  đỏ da, nhiễm trùng da xung quanh HMNT liên  quan đến chăm sóc HMNT từ 22,2 ‐ 69%.   Như  vậy  sau  phẫu  thuật,  chăm  sóc  điều  dưỡng  hậu  môn  nhân  tạo  là  hết  sức  quan  trọng,  bên  cạnh  đó  người  bệnh  cần  có  các  thông tin hướng dẫn đúng của điều dưỡng về  chăm sóc HMNT  trước khi xuất viện. Có như  vậy mới  giúp  người  bệnh  có  được  các  kiến  thức, thái độ, thực hành đúng về tự chăm sóc  HMNT, nâng cao chất lượng cuộc sống để hòa  nhập cộng đồng.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại khoa Ngoại  Tiêu hóa  – bệnh viện Chợ Rẫy,  thành phố Hồ  Chí Minh từ 4/2013 đến 7/2013.  Tiêu chuẩn chọn bệnh  Tất cả người bệnh sau mổ có HMNT chuẩn  bị xuất viện  có khả năng nghe và  trả  lời bảng  câu hỏi hoặc điền vào bảng câu hỏi và có thể tự  thực hiện kỹ thuật chăm sóc HMNT.   Tiêu chuẩn loại trừ   ‐ Người bệnh có biến chứng HMNT  ‐ Người bệnh có các bệnh kèm theo: đa chấn  thương, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, suy tim,  suy thận mạn  Công cụ thu thập số liệu  ‐ Phỏng vấn  trực  tiếp người bệnh bằng bộ  câu hỏi liên quan đến kiến thức gồm 20 câu, liên  quan đến thái độ gồm 5 câu, trong khoảng thời  gian dự kiến 30 phút.  ‐ Quan sát trực tiếp người bệnh tự thực hành  kỹ thuật chăm sóc hậu môn nhân tạo theo bảng  kiểm gồm 20 bước, dự kiến 20‐30 phút.  ‐  Nhập  quản  lý  số  liệu  bằng  phần  mềm  Epidata và xử lý số liệu bằng Stata 12.0.  KẾT QUẢ  Qua khảo sát kiến thức, thái độ và quan sát  người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo 106  trường hợp  từ 4/2013  đến 7/2013  tại bệnh viện  Chợ Rẫy chúng tôi có kết quả như sau:  Kiến thức tự chăm sóc  Bảng 1. Kết quả kiến thức chung của người bệnh tự  chăm sóc HMNT  Kiến thức Trả lời Số bệnh nhân n=106 Tỷ lệ (%) Kiến thức về hậu môn nhân tạo Đúng 69 65,1 Không đúng 37 34,9 Kiến thức tự chăm sóc Đúng 47 44,3 Không đúng 59 55,7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 211 Kiến thức Trả lời Số bệnh nhân n=106 Tỷ lệ (%) Kiến thức xử trí tai biến – biến chứng Đúng 43 40,6 Không đúng 63 59,4 Kiến thức về dinh dưỡng Đúng 79 74,5 Không đúng 27 25,5 Kiến thức chung Đúng 55 51,9 Không đúng 51 48,1 Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh, liên  quan đến kiến thức về hậu môn nhân tạo, tỷ  lệ  kiến  thức  đúng  không  cao  chiếm  65,1%,  kiến  thức  tự chăm sóc đúng  thấp chiếm 44,3%, kiến  thức đúng xử trí tai biến – biến chứng thấp nhất  chiếm 40,6%, kiến thức đúng về dinh dưỡng cao  nhất chiếm 74,5%. Tỷ  lệ kiến  thức chung đúng  tự chăm sóc hậu môn nhân tạo chiếm 51,9%.   Thái độ tự chăm sóc  Bảng 2. Kết quả thái độ tự chăm sóc  Nội dung câu hỏi Bệnh nhân trả lời Rất không đồng ý n (%) Không đồng ý n (%) Không ý kiến n (%) Đồng ý n (%) Rất đồng ý n (%) Khi mang hậu môn nhân tạo thì nên tránh xa mọi người xung quanh 32 (30,2) 39 (36,8) 11 (10,4) 19 (17,9 5 (4,7) Tham gia câu lạc bộ những người có hậu môn nhân tạo 7 (6,6) 9 (8,5) 21 (19,8) 51 (48,1) 18 (17,0) Mang hậu môn nhân tạo thì không thể chơi thể thao 20 (18,9) 33 (31,1) 12 (11,3) 31 (29,3) 10 (9,4) Tự mình chăm sóc hậu môn nhân tạo 6 (5,7) 8 (7,6) 13 (12,2) 60 (56,6) 19 (17,9) Chia xẻ kinh nghiệm chăm sóc hậu môn nhân tạo với người bệnh khác 6 (5,7) 1 (0,9) 9 (8,5) 61 (57,6) 29 (27,3) Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh  liên  quan đến thái độ tự chăm sóc khi mang HMNT:  người bệnh có thái độ đúng thể hiện tỷ lệ trả lời  câu hỏi đúng cao ở các câu số 1, số 2, số 4, và số  5. Thái độ chưa rõ ràng ở câu 3.  Bảng 3. Kết quả thái độ chung   Thái độ chung Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Đúng 62 58,5 Không đúng 44 41,5 Tổng cộng 106 100 Nhận xét: Qua khảo sát 106 người bệnh  liên  quan đến thái độ khi mang HMNT, tỷ lệ người  bệnh  có  thái  độ  chung  đúng  chiếm  58,5%  (62/106) trường hợp.  Thực hành tự chăm sóc  Bảng 4. Kết quả thực hành chung tự chăm sóc hậu  môn nhân tạo  Nội dung Thực hành Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Chuẩn bị trước khi chăm sóc Đúng 42 39,6 Không đúng 64 60,4 Thực hành tự chăm sóc Đúng 87 82,1 Không đúng 19 17,9 Xử lý dụng cụ - kiểm soát nhiễm khuẩn Đúng 39 36,8 Không đúng 67 63,2 Thực hành chung Đúng 57 53,7 Không đúng 49 46,3 Nhận xét: Qua quan sát người bệnh  tự  thực  hành chăm sóc hậu môn nhân tạo của 106 người  bệnh. Kết quả chung thực hành đúng của người  bệnh  không  cao  chiếm  53,7%  (57/106)  trường  hợp, thực hành chưa đúng chiếm 46,3% (49/106)  trường hợp.  Mối liên hệ giữa kiến thức, thái độ và thực hành.  Bảng 5. Kết quả về mối liên quan giữa kiến thức và thái độ  Nội dung Thái độ p PR (95% CI) Đúng n = 62 (%) Không đúng n = 44 (%) Kiến thức Đúng n = 55 40 (72,7) 15 (27,3) 0,002 1,89 (1,21-2,97) Không đúng n = 51 22 (43,1) 29 (56,9) Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  212 Nhận xét: Kết quả phân tích khi xét mối liên  quan giữa kiến thức và thái độ của người bệnh  cho thấy ở những người bệnh có kiến thức đúng  thì  tỷ  lệ  thái  độ  đúng  cao  gấp  1,89  lần  so  với  những  người  bệnh  có  kiến  thức  không  đúng  (KTC  95%:  1,21‐2,97).  Sự  khác  biệt  này  có  ý  nghĩa thống kê với p=0,002.  Bảng 6. Kết quả về mối liên quan giữa kiến thức và thực hành  Nội dung Thực hành p P (95% CI) Đúng n = 62 (%) Không đúng n = 44 (%) Kiến thức Đúng n = 55 33 (60) 22 (40) 0,18 1,28 (0,89 -1,83) Không đúng n = 51 24 (47,1) 27 (52,9) Nhận xét:Kết quả phân tích khi xét mối liên  quan giữa kiến thức đúng và thực hành đúng  của người bệnh cho thấy ở những người bệnh  có  kiến  thức  đúng  thì  tỷ  lệ  thực  hành  đúng  bằng 1,28 lần so với những người bệnh có kiến  thức không đúng  (KTC 95%: 0.89 – 1,83). Tuy  nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống  kê với p=0,18.  Bảng 7. Kết quả về mối liên quan giữa thái độ và thực hành  Nội dung Thực hành p PR (95% CI) Đúng n = 57 (%) Không đúng n = 49 (%) Thái độ Đúng n = 62 35 (56,5) 27 (43,5) 0,51 1,13 (0,78 – 1,63) Không đúng n = 44 22 (50) 22 (50) Nhận xét: Kết quả phân tích khi xét mối liên  quan giữa thái độ đúng và thực hành đúng của  người  bệnh  cho  thấy  ở  những  người  bệnh  có  thái độ đúng thì tỷ lệ thực hành đúng bằng 1,13  lần so với những người bệnh có  thái độ không  đúng (KTC 95%: 0.78 – 1,63). Tuy nhiên sự khác  biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,51.  BÀN LUẬN  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  số  lượng  người bệnh nam nhiều hơn người bệnh nữ, nam  chiếm  60,4%, nữ  chiếm  39,6%,  tỷ  lệ nam/nữ  là  1,52. Kết quả này phù hợp  với nghiên  cứu  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  năm  1990  của  Lê  Trường  Chiến(7),  tỷ  lệ  nam/nữ  là  1,52  lần  (152/100)  trường hợp, nghiên cứu năm 1993 của Liêu Thị  Ngọc Ánh(6),  tỷ  lệ nam/nữ 2  lần  (32/16), nghiên  cứu năm 2000 của Lê Đức Tuấn(9), tỷ lệ nam/nữ  là 1,28 lần (56/44).   Kiến thức về hậu môn nhân tạo  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  người bệnh có kiến thức về hậu môn nhân tạo  đúng chiếm 65,1%, kiến thức về hậu môn nhân  tạo chưa đúng chiếm 34,9%,  tỷ  lệ này  thấp so  với nghiên  cứu năm 2009,  tại bệnh viện Hữu  Nghị Việt Đức Hà Nội của Lưu Thị Thủy(8), tỷ  lệ người bệnh hiểu đúng về hậu môn nhân tạo  chiếm  80%  (35/44)  trường  hợp.  Phần  lớn  những  người  bệnh  lớn  tuổi  rất  mệt  mỏi  và  không quan  tâm  đến  các  thông  tin  liên  quan  đến bệnh, họ phó mặc  cho nhân viên y  tế và  thân  nhân,  nghĩ  rằng mình  đã  già  và  không  cần học hỏi gì thêm, mặt khác tại khoa chưa có  chương trình giáo dục sức khỏe thường xuyên,  thông tin điều dưỡng cung cấp không đồng bộ  và  bỏ  sót  nhiều  người  bệnh  sắp  xuất  viện  nhưng chưa hiểu gì về bệnh..   Liên quan đến vị trí hậu môn nhân tạo trên  thành  bụng,  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  có  ảnh  hưởng  rất  lớn  đến  công  tác  chăm sóc hậu môn nhân tạo chiếm 74,5. Vị trí  hậu  môn  nhân  tạo  trên  thành  bụng  có  liên  quan  đến  thương  tổn  của  ung  thư  đại‐trực  tràng. Theo nghiên cứu của Đặng Trần Tiến(3),  ung thư đại trực tràng xảy ra nhiều nhất ở đại  tràng  phải  chiếm  34%  (23/68)  sau  đó  là  đại  tràng chậu hông 28%.   Kiến thức tự chăm sóc hậu môn nhân tạo   Bảng 1 cho thấy kiến thức tự chăm sóc đúng  của người bệnh thấp chiếm 44,3% (47/106), kiến  thức  tự  chăm  sóc  không  đúng  55,7%. Một  số  người bệnh cho rằng sau mổ họ quá mệt mỏi và  không thể nhớ được những hướng dẫn của điều  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 213 dưỡng, những dụng cụ thân nhân tự mua theo  bảng liệt kê dụng cụ của điều dưỡng, tuy nhiên  có một số người bệnh vì nhiều lý do như kinh tế  nên không mua đầy đủ dụng cụ. Nếu vùng da  xung  quanh  hậu  HMNT  bị  viêm  đỏ,  nhiễm  trùng thì sẽ được dùng các loại dung dịch khác  như Oxy già, dầu mù u, Oxyt kẽm  theo  chỉ  định của bác sĩ(1).  Trong  kiến  thức  tự  chăm  sóc  HMNT,  có  nhiều  người  bệnh  không  biết  nên  rửa  ở  phần  ruột trước khi rửa vùng da xung quanh, không  lau da khô, không sát trùng gần 60% trường hợp  (53/106). Người bệnh  cho  rằng phần  ruột  cũng  giống  phần  da,  không  cần  phân  biệt  thứ  tự  trước, sau và đều phải được lau khô và sát trùng  như nhau. Điều này làm tổn thương niêm mạc,  dễ gây chảy máu do lau khô, hoại tử ruột khi sát  trùng dung dịch sát khuẩn mạnh như cồn iode.  Người bệnh không  đồng ý  sát  trùng da do  sợ  đau rát chiếm 22,6%.  Kiến thức xử lý tai biến‐biến chứng  Bảng 1 cho thấy kiến thức chung về xử lý tai  biến‐biến chứng đúng có  tỷ  lệ  thấp nhất chiếm  40,6%,  kiến  thức  xử  trí  tai  biến‐biến  chứng  không  đúng  chiếm  59,4%.  Trường  hợp  phân  lỏng  thì dùng một miếng  gạc nhỏ  nhét miệng  HMNT khi đang chăm sóc nhưng lưu ý phải lấy  gạc  ra  trước khi dán  túi,  tỷ  lệ người bệnh biết  điều này chiếm 67,9%.  Tỷ  lệ người bệnh biết khi da xung quanh  hậu môn nhân tạo viêm đỏ thì nên dùng dung  dịch sát trùng mạnh như cồn iode và tự dùng  kháng  sinh  là  chưa  đúng không nhiều  chiếm  29,3%. Vì vậy cần phải tăng cường cảnh báo về  việc  tự ý dùng  thuốc  của người bệnh và nên  thiết  lập  bảng  danh mục  những  điều  người  bệnh được làm và không được làm. Liên quan  đến dùng  thuốc khi bị  viêm  đỏ da,  có  62,3%  người  bệnh  biết  Pommade  oxyde  de  zinc  (Oxyde  Kẽm)  là  thuốc  thường  dùng  bôi  lên  vùng da khi bị viêm  đỏ, nhiễm  trùng. Người  bệnh  có HMNT khó  tránh  được nhiễm  trùng  da xung quanh nên việc cung cấp những  loại  thuốc, giá thành là việc cần thiết.   Theo  nghiên  cứu  của  Nguyễn  Quang  Trung(12),  tại bệnh viện Việt  Đức  từ năm  2000‐ 2004,  tỷ  lệ  biến  chứng  của  HMNT  là  1,8%  (72/610). Tỷ lệ người bệnh bị nhiễm trùng vùng  da  quanh HMNT  cao  nhất  trong  các  loại  biến  chứng chiếm 22,2%.   Kiến thức về dinh dưỡng   Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  đây  là  nhóm  kiến  thức  người  bệnh  quan  tâm  nhất  nên tỷ lệ kiến thức đúng cao nhất chiếm 74,5%,  kiến  thức  chưa  đúng  về  dinh  dưỡng  chiếm  25,5%. Dinh  dưỡng  là  yếu  tố  rất  quan  trọng  đối  với  chức  năng  của HMNT,  đa  số  người  bệnh  biết  chế  độ  dinh  dưỡng  bình  thường,  không  kiêng  ăn,  nên  chọn  các  chất  có  nhiều  dinh dưỡng như các  loại  thịt, ngũ cốc, các  lại  rau, trái cây có nhiều vitamin.   Vì vậy cần cung cấp thông tin về chế độ dinh  dưỡng hợp lý, phù hợp với tình trạng bệnh, tính  khẩu phần dinh dưỡng cụ  thể và phù hợp cho  từng người bệnh, duy trì cân nặng bình thường,  nên  cung  cấp  thông  tin và bảng  liệt kê những  thực  phẩm  người  bệnh  có HMNT  nên  ăn  và  không nên ăn(18).  Theo nghiên cứu của Phạm Văn Năng và các  cộng sự(14) cho thấy tình trạng dinh dưỡng đóng  vai  trò  rất  quan  trọng  trong  bệnh  nhân  phẫu  thuật bụng, nó  ảnh hưởng đến nguy cơ xảy  ra  biến chứng nhiễm trùng sau mổ. Người bệnh có  biến chứng nhẹ chiếm 6,6% (17/262) trường hợp,  biến chứng nặng chiếm 17,6% đều liên quan đến  sự thiếu dinh dưỡng trước mổ.  Thái  độ  của người bệnh  tự  chăm  sóc hậu  môn nhân tạo  Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người  bệnh có thái độ đúng không cao chiếm 58,5%, tỷ  lệ  người  bệnh  có  thái  độ  chưa  đúng  chiếm  41,5%, phần lớn người bệnh rất không đồng ý và  không đồng ý khi mang hậu môn nhân  tạo  thì  nên  tránh  xa mọi  người  xung  quanh.  Sự  giao  tiếp xã hội là nhu cầu tất yếu của mỗi con người,  đối với người bệnh  có HMNT, họ  trải qua  các  giai đoạn không chấp nhận, mặc cảm và từ chối  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học  214 giao  tiếp, nhưng cũng nhanh chóng chấp nhân  khi  hiểu  về  bệnh.  Khi  mang  HMNT  về  nhà  người bệnh luôn muốn làm những công việc có  ích cho gia đình và xã hội. Phần lớn người bệnh  không  đồng ý khi mang HMNT phải  tránh xa  mọi người xung quanh, trong đó người bệnh trả  lời rất không đồng ý chiếm 30,2%, không đồng ý  chiếm 36,8%. Đa  số người bệnh  trả  lời  đồng ý  tham  gia  câu  lạc  bộ HMNT  chiếm  48,1%,  rất  đồng ý 17%. Khi mang HMNT  thì không được  chơi thể thao có 31,1% người bệnh không đồng  ý, có 18,9% người bệnh rất không đồng ý.   Thực  hành  của  người  bệnh  tự  chăm  sóc  hậu môn nhân tạo  Trong nghiên cứu của chúng  tôi,  tỷ  lệ  thực  hành đúng của người bệnh tự chăm sóc HMNT  thấp  chiếm 53,7%,  tỷ  lệ người bệnh  thực hành  chưa đúng là 46,3%. Trong đó số người bệnh rửa  tay  trước khi chăm  sóc HMNT  rất  ít, chỉ có 18  người bệnh  chiếm  16,7%. Nguyên nhân  có  thể  do người bệnh mệt mỏi và  trong phòng không  có bồn  rửa  tay, người  bệnh  không  quen dùng  dung dịch sát khuẩn tay nhanh vì nó làm khô da  nên phần  lớn người bệnh không  rửa  tay  trước  khi chăm sóc, các bước chuẩn bị ở bệnh viện do  sự hướng dẫn của điều dưỡng nên người bệnh  được chuẩn bị khá đầy đủ. Một số người bệnh  do kinh tế nên chỉ mua những dụng cụ cơ bản,  tỷ  lệ  người  bệnh  chuẩn  bị  đúng  39,6%,  tỷ  lệ  nhóm thực hành kỹ thuật đúng là 67%.  Chuẩn bị trước khi chăm sóc  Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  trước khi  chăm  sóc  thì  cần  chuẩn  bị  các dựng  cụ, dung  dịch,  tư  thế. Người bệnh  luôn có sự hỗ  trợ của  thân nhân và  điều dưỡng vì người bệnh  chưa  thể tự đi mua dụng cụ. Tuy nhiên tỷ lệ chuẩn bị  đúng  vẫn  thấp  chiếm  39,6%  do  nhiều  người  bệnh không  rửa  tay  trước khi chăm  sóc vì  cho  rằng  không  cần  thiết,  phần  lớn  người  bệnh  không chấp nhận mua đầy đủ dụng cụ vì vấn đề  kinh tế. Tỷ lệ người bệnh rửa tay trước khi chăm  sóc rất thấp chiếm 17% (18/106) trường hợp thấp  hơn  nhiều  so  với  nghiên  cứu  năm  2009  của  Naglaa(13),  tỷ  lệ  người  bệnh  rửa  tay  trước  khi  chăm sóc HMNT là 88,9% (40/45).  Thực hành tự chăm sóc  Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người  bệnh  thực hành  tự chăm sóc đúng có  tỷ  lệ cao  nhất  chiếm  82,1%  (87/106)  trường  hợp.  Đa  số  người bệnh biết tháo túi chứa ph