Mục tiêu: Khảo sát kiến thức và thái độ của người dân về sơ cứu bỏng tại quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, điều tra khảo sát. Kết quả: Trong 384 người được phỏng vấn tại quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh về kiến thức và thái độ của người dân về sơ cứu bỏng có đến 55% người trả lời đã từng bị bỏng trong số đó người dân bị bỏng trên 2 lần chiếm 65%. 314 người được phỏng vấn biết nguyên nhân bỏng do nước nóng chiếm 82%. Khi bị bỏng người dân đã sử dụng nước lạnh sạch để sơ cứu bỏng chiếm tỷ lệ 63% nhưng chỉ có 59% trường hợp trả lời đây là phương pháp đầu tiên được lựa chọn và 11% truờng hợp áp dụng thời gian sơ cứu bỏng 20 phút. Nguồn thông tin về sơ cứu bỏng có được từ gia đình chiếm 44% (105/384), từ bạn bè chiếm 38% (91/384) và từ truyền hình, internet chiếm 39% (92/384). Thái độ tích cực của người dân về sơ cứu bỏng chiếm 54%. Tuy nhiên khi người dân đã có kiến thức đúng nhưng vẫn chưa có thái độ tích cực về sơ cứu bỏng cho chính bản thân của mình với (p=0,001). Kết luận: Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy kiến thức đúng về sơ cứu bỏng của người dân còn rất thấp và thái độ tích cực về sơ cứu bỏng ở mức trung bình. Điều này đòi hỏi cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông giáo dục tại cộng đồng để người dân không chủ quan trong việc phòng ngừa và xử lý tốt tai nạn bỏng.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thái độ của người dân về sơ cứu bỏng tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 223
KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN VỀ SƠ CỨU BỎNG
TẠI QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lâm Thị Thu Tâm*, Susan Norwood**, Trần Thiện Trung***.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức và thái độ của người dân về sơ cứu bỏng tại quận Tân Phú, thành phố Hồ
Chí Minh.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, điều tra khảo sát.
Kết quả: Trong 384 người được phỏng vấn tại quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh về kiến thức và thái
độ của người dân về sơ cứu bỏng có đến 55% người trả lời đã từng bị bỏng trong số đó người dân bị bỏng trên 2
lần chiếm 65%. 314 người được phỏng vấn biết nguyên nhân bỏng do nước nóng chiếm 82%. Khi bị bỏng người
dân đã sử dụng nước lạnh sạch để sơ cứu bỏng chiếm tỷ lệ 63% nhưng chỉ có 59% trường hợp trả lời đây là
phương pháp đầu tiên được lựa chọn và 11% truờng hợp áp dụng thời gian sơ cứu bỏng 20 phút. Nguồn thông
tin về sơ cứu bỏng có được từ gia đình chiếm 44% (105/384), từ bạn bè chiếm 38% (91/384) và từ truyền hình,
internet chiếm 39% (92/384). Thái độ tích cực của người dân về sơ cứu bỏng chiếm 54%. Tuy nhiên khi người
dân đã có kiến thức đúng nhưng vẫn chưa có thái độ tích cực về sơ cứu bỏng cho chính bản thân của mình với
(p=0,001).
Kết luận: Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy kiến thức đúng về sơ cứu bỏng của người dân còn
rất thấp và thái độ tích cực về sơ cứu bỏng ở mức trung bình. Điều này đòi hỏi cần phải đẩy mạnh hơn nữa công
tác truyền thông giáo dục tại cộng đồng để người dân không chủ quan trong việc phòng ngừa và xử lý tốt tai
nạn bỏng.
Từ khóa: Bỏng, sơ cứu bỏng, kiến thức về sơ cứu bỏng.
ABSTRACT
SURVEY KNOWLEDGE AND ATTITUDES OF BURN FIRST AID AMONG THE POPULATION
IN TAN PHU DISTRICT, HO CHI MINH CITY
Lam Thi Thu Tam, Susan Norwood, Tran Thien Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 223 ‐ 228
Objectives: to determine the current level of knowledge and attitudes of burn first aid among the population
in Tan Phu district, Ho Chi Minh City.
Method: A cross–sectional descriptive study.
Results: In total 384 respondents (in Tan Phu district, Ho Chi Minh City) were asked questions related to
burn first aid. 55% reported that they had been burn injuries and some of them had over twice burn injuries
(65%). 314 respondents reported that they knew burns caused by accidents involving scalds (82%). 63%
reported that they would cool a burn with cool clear water or run under the water but 59% reported that this way
was a first choice and 11% report that they would cool the burn for the commended 20 minutes. The most
common sources of burn first aid information were family (44%), friends (38%) and television and internet
(39%). 54% reported that they had helpful attitude about burn first aid. However, there are some of populations
with correct knowledge and without helpful attitude for burn first aid
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh
** Friendship Bridge Group‐ Gonzala University‐USA. *** Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Lâm Thị Thu Tâm ĐT: 0902898820 Email: lamtam70@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 224
Conclusions: the rate of respondents who have correct knowledge rather low and have helpful attitude above
average about first aid for burns. For this reason, it is necessary to promote educational strategies to prevent
and treat burn accidents at home.
Keywords: Burn, first aid for burns, knowledge of first aid for burns.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bỏng là một trong những tai nạn thường
gặp nhất trong cộng đồng(13). Bỏng gây ra
những thương tổn không những về mặt thể
chất, tinh thần mà còn ảnh hưởng đến yếu tố
xã hội của bệnh nhân(1). Trên thế giới mỗi năm
có khoảng 300,000 người chết và hơn 10 triệu
người tàn tật do bỏng lửa gây ra(14). Tại Mỹ,
hàng năm hơn 2 triệu người bị bỏng và 75,000
trường hợp bỏng nặng phải nhập viện. Theo
Viện bỏng quốc gia tai nạn thương tích về
bỏng ở nước ta đứng hàng hai chỉ sau tai nạn
giao thông, mỗi năm có khoảng 15,000‐16,000
bệnh nhân bỏng phải nhập viện.
Tai nạn bỏng thường xảy ra một cách bất
ngờ tại nhà chiếm tỷ lệ đến hơn 84,7%(13) và
chính người bị nạn sẽ tự mình sơ cứu hay được
người thân trong gia đình sơ cứu(8). Do đó việc
sơ cứu bỏng hợp lý và chính xác tại nhà như làm
mát vết bỏng bằng nước lạnh sẽ giúp làm giảm
tỷ lệ tử vong, giảm đau đớn, giảm tổn thương tế
bào, giảm sưng, hạn chế mức độ bỏng sâu(12) và
có thể ngăn chặn những biến chứng nặng nề
khác do bỏng gây ra(5). Các trường hợp bỏng
nặng xảy ra phải nhập viện theo thống kê đều là
do người dân thiếu kiến thức đúng về sơ cứu
bỏng và thiếu sự hướng dẫn đúng các biện pháp
phòng tránh.
Trong nghiên cứu của Harvey(6), mặc dù có
đến hơn 80% người dân biết làm mát vết bỏng
bằng nước lạnh nhưng trong số đó chỉ có 9,4%
người trả lời biết thời gian làm mát vết bỏng là
20 phút. Như vậy người dân chưa có kiến thức
đúng, thái độ tích cực trong sơ cứu bỏng có thể
do nhiều yếu tố tác động, một trong số đó là do
thiếu thông tin hoặc là do thiếu hướng dẫn của
ngành y tế. Nguồn cung cấp thông tin về sơ cứu
bỏng cho người dân theo thống kê chủ yếu hiện
nay là từ các trường Y, trên internet hoặc qua
sách báo(12)
Đây chính là cơ sở để thực hiện tốt chương
trình giáo dục nâng cao sức khỏe cho người dân
về sơ cứu bỏng tại cộng đồng, giúp cho nhân
viên y tế đang làm việc tại cộng đồng có cơ sở để
đưa ra những chương trình giáo dục sức khỏe
nhằm cập nhật các kiến thức về sơ cứu bỏng
giúp cho người dân cho họ có thể phòng ngừa
và sơ cứu tốt khi bị bỏng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được chọn lựa dân số trên
18 tuổi hiện đang sống tại quận Tân Phú, thành
phố Hồ Chí Minh từ tháng 3 đến tháng 5 năm
2013, có khả năng tiếp xúc và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Bốc thăm ngẫu nhiên theo trình tự: chọn ra
phường, chọn ra khu phố, chọn ra tổ dân phố.
Tại tổ dân phố lấy nhà tổ trưởng dân phố làm
nơi phỏng vấn đầu tiên tiếp theo là các hộ gia
đình xung quanh hộ gia đình đầu tiên được
chọn lựa. Mỗi hộ gia đình chọn một thành viên
đủ điều kiện và phỏng vấn khi không có mặt
người xung quanh để tránh sai lệch thông tin.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu trong nghiên cứu này là n = 384
người dân.
Thông tin được thu thập qua một biểu mẫu
có sẵn gồm các mục: tuổi, giới, dân tộc, trình
độ học vấn, nghề nghiệp, kinh nghiệm bản
thân về sơ cứu bỏng, kiến thức và thái độ về sơ
cứu bỏng.
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
Epi Data 3.1 và Stata 8.0.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 225
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua phỏng vấn 384 người dân về kinh
nghiệm sơ cứu bỏng, chúng tôi đã có kết quả
nghiên cứu được trình bày qua các bảng sau.
Bảng 1. Kinh nghiệm bản thân về sơ cứu bỏng
Kinh nghiệm bản thân n Tỷ lệ (%)
Đã từng bị bỏng 210 55
Số lần bị bỏng
1 lần 73 35
≥ 2 lần 137 65
Chưa từng bị bỏng 174 45
Tổng số 384 100
Nhận xét: Trong 384 người được phỏng
vấn, chúng tôi có 210 người trả lời đã từng bị
bỏng, chiếm tỷ lệ 55%. Trong 210 người đã
từng bị bỏng có 137 người trả lời rằng đã từng
bị bỏng ít nhất 2 lần, chiếm 65%.
Bảng 2. Nguyên nhân gây bỏng.
Nguyên nhân gây bỏng n Tỷ lệ (%)
Lửa 23 6
Nước nóng (nước sôi, thức ăn nóng, dầu
mỡ sôi...) 314 82
Dụng cụ nóng (bô xe, bàn là,
đồ dùng nhà bếp) 38 10
Điện, hóa chất 0 0
Không biết 9 2
Tổng số 384 100
Nhận xét: Trong 384 người được phỏng
vấn có 314 người dân cho rằng nước nóng là
nguyên nhân chủ yếu gây bỏng chiếm tỷ lệ
82% (314/384) trường hợp. Bỏng do bô xe, bàn
là, đồ dùng nhà bếp chiếm 10% (38/384). Trong
khi đó bỏng do lửa là 6% (23/384) trường hợp.
Hầu như không có người dân nào trả lời điện
và hóa chất gây bỏng là nguyên nhân gây
bỏng, và có 2% (9/384) trường hợp trả lời
không biết bỏng xảy ra do nguyên nhân gì.
Bảng 3. Lựa chọn phương pháp sơ cứu bỏng
Phương pháp n = 384 Tỷ lệ (%)
Nước lạnh sạch hay dưới vòi nước đang
chảy 228 59
Kem đánh răng 74 19
Thuốc trị bỏng (dầu mù u) 21 5
Nước đá 30 8
Nước mắm 4 1
Đến bệnh viện 14 4
Mỡ trăn 8 2
Phương pháp n = 384 Tỷ lệ (%)
Khác (rượu, dấm, mật ong, lá cây.) 5 1
Nhận xét: Người dân được phỏng vấn đã lựa chọn cách
làm mát bằng nước lạnh, sạch là phương pháp sơ cứu
chiếm đến 59%.
Bảng 4. Các nguồn thông tin về kiến thức thức sơ
cứu bỏng
Nguồn n = 384 Tỷ lệ (%)
Gia đình 105 44
Bạn bè, lối xóm 91 38
Ti vi, internet 92 39
Sách báo 70 29
Nhân viên y tế 20 8
Trường học 21 9
Nhận xét: Trong số 384 người được phỏng
vấn có đến 62% (238/384) trường hợp đã có tìm
hiểu kiến thức về sơ cứu bỏng. Trong các
nguồn thu nhận kiến thức, chủ yếu là từ gia
đình chiếm 44% (105/238) trường hợp. Các
nguồn kiến thức từ truyền hình, internet chiếm
39% (92/238), từ bạn bè, hàng xóm chiếm 38%
(91/238). Tiếp theo là nguồn từ các sách báo
chiếm 29% (70/238). Kiến thức được cung cấp
từ nhân viên y tế 8% (20/238), và kiến thức
được cung cấp từ trường học chiếm 9%
(21/238) trường hợp.
Bảng 5. Kiến thức về thời gian sơ cứu bỏng
Thời gian sơ cứu bỏng n Tỷ lệ (%)
< 20 phút 333 87
= 20 phút 42 11
> 20 phút 9 2
Tổng cộng 384
Nhận xét: Trên 384 người dân được phỏng
vấn chỉ có 42 người dân lựa chọn thời gian sơ
cứu bỏng đúng 20 phút chiếm tỷ lệ 11% (42 /
384) trường hợp. Trong khi số người dân lựa
chọn thời gian sơ cứu bỏng dưới 20 phút
chiếm tỷ lệ rất cao 87% (333 / 384) trường hợp.
Bảng 6. Kiến thức chung về sơ cứu bỏng
Kiến thức sơ cứu bỏng n = 384 Tỷ lệ (%)
Sơ cứu ngay tại chỗ
(làm mát càng sớm càng tốt) 356 93
Chọn làm mát bằng nước lạnh sạch
dưới vòi nước đang chảy 228 59
Thời gian sơ cứu bỏng đúng 20 phút 42 11
* Kiến thức chung đúng 41 11
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 226
Nhận xét: Trong số 384 người được phỏng
vấn có 93% (356/384) trường hợp biết sơ cứu
bỏng ngay tại chỗ. Phương pháp đầu tiên để
sơ cứu là bằng nước lạnh sạch chiếm 59%
(228/384) trường hợp. Chọn thời gian sơ cứu
bỏng đúng 20 phút chiếm 11% (42/384) trường
hợp. Như vậy kiến thức đúng chung phụ
thuộc vào thời gian sơ cứu bỏng đúng 20 phút
chỉ chiếm 11%.
Bảng 7. Thái độ tích cực về sơ cứu bỏng
Thái độ n = 384 Tỷ lệ (%)
Tích cực 207 54
Không tích cực 177 46
Tổng cộng 384 100
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
người dân khi được phỏng vấn có thái độ tích cực về sơ
cứu bỏng của chiếm tỷ lệ 54% (207 / 384) trường hợp và
thái độ không tích cực chiếm 46% (177 / 384) trường hợp.
Bảng 8. Mối liên quan giữa thái độ tích cực với kiến thức đúng chung sơ cứu bỏng
Kiến thức về sơ cứu bỏng
Thái độ tích cực (n = 384)
p
PR
KTC 95% Có n (%) Không n (%)
Đúng 33 (79) 9 (21)
0,001 1,54 (1,28 - 1,87)
Sai 174 (51) 168 (49)
Nhận xét: Ở nhóm người có kiến thức đúng chung về sơ
cứu bỏng sẽ có thái độ tích cực cao gấp 1,5 lần so với
nhóm người có kiến thức về sơ cứu bỏng sai có ý nghĩa
thống kê với PR = 1,54 (KTC 95%: 1,28‐1,87), với
p=0,001
Bảng 9. Mối liên quan giữa kiến thức đúng chung,
kiến thức sơ cứu các loại bỏng, từng loại đặc điểm
dịch tễ học và thái độ tích cực (hồi quy poisson).
Yếu tố PR KTC 95% p
Kiến thức đúng chung 1,94 0,99 – 1,54 0,052
Biết sơ cứu các loại bỏng 3,34 1,15 – 1,69 0,001
Trình độ học vấn 3,02 1,10 – 1,59 0,003
Nhận xét: Không có liên quan giữa kiến thức đúng
chung và thái độ tích cực về sơ cứu bỏng, PR = 1,94
(KTC 95%: 0,99 – 1,54), với p = 0,052.
BÀN LUẬN
Kinh nghiệm, nguyên nhân và phương
pháp sơ cứu bỏng
Tùy theo đặc điểm vùng miền, lứa tuổi mà
nguyên nhân gây bỏng ở mỗi nơi có sự khác
nhau. Người lao động với các ngành nghề như
nội trợ, buôn bán, may gia công tại nhà thường
xuyên, trực tiếp thực hiện công việc nấu ăn,
chăm sóc cho gia đình nên trong nghiên cứu của
chúng tôi trong số 55% (210/384) người trả lời
rằng đã từng bị bỏng và trong đó có đến 137
người bị bỏng trên 2 lần chiếm tỷ lệ 65% (bảng
1), số lần bỏng càng nhiều giúp cho họ càng có
nhiều kinh nghiệm trong việc sơ cứu bỏng, và
kinh nghiệm này sẽ được củng cố hơn sau mỗi
lần bị bỏng. Đây cũng chính là động lực giúp
người dân mong muốn tìm kiếm những thông
tin về sơ cứu bỏng và giúp cho ngành y tế
truyền thông giáo dục tại cộng đồng.
Trong tổng số người được phỏng vấn có đến
314 người dân biết nước nóng là nguyên nhân
hàng đầu gây bỏng tại nhà chiếm tỷ lệ đến 82%
(bảng 2). Kết quả này phù hợp với 2 nghiên cứu
của Maghsoudi(9) và McCormack(10), nhằm xác
định nguyên nhân gây bỏng thường gặp nhất tại
nhà. Kết quả của nghiên cứu của Maghsoudi cho
thấy 88,95% trẻ dưới 9 tuổi có nguyên nhân
bỏng liên quan nước nóng và kết quả của nghiên
cứu của McCormack cho thấy nguyên nhân gây
bỏng do nước sôi chiếm 63%. Như vậy nguyên
nhân bỏng do nước nóng vẫn luôn là mối quan
tâm hàng đầu của người dân và luôn cần cảnh
giác, đề phòng với các nguyên nhân này. Qua
kết quả nghiên cứu, chúng tôi có thể đưa trong
nội dung tuyên truyền cho người dân về sơ cứu
bỏng các biện pháp ngăn ngừa nguyên nhân gây
bỏng tại nhà một cách cụ thể cho người dân.
Về phương pháp sơ cứu bỏng kết quả
nghiên cứu cho thấy số người dùng nước lạnh,
sạch để làm mát vết bỏng chiếm 59% (bảng 3), tỷ
lệ này cho chúng ta thấy nước lạnh vẫn là chất
dễ tìm thấy nhất, hiệu quả nhất để sơ cứu bỏng
và được người dân lựa chọn để sơ cứu tại nhà.
Tuy nhiên vẫn có một số lượng không nhỏ
người dân vẫn dùng chất khác theo kinh nghiệm
dân gian sai lầm như kem đánh răng hoặc nước
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 227
mắm sơ cứu vết thương bỏng chiếm tỷ lệ lần
lượt là 32% và 7%. Công việc hàng ngày bắt
buộc người dân phải thực hiện nhanh và ngay
lập tức nên khi xảy ra tai nạn bỏng họ chỉ sơ cứu
bỏng một cách qua loa sau đó làm tiếp công việc
còn dang dở và một lý do nữa mà họ thường bỏ
qua việc sơ cứu đúng cách vì nghĩ rằng mình chỉ
bị bỏng nhẹ không đáng kể, vết bỏng tự lành và
không để lại sẹo, trường hợp vết bỏng nặng họ
chỉ sơ cứu sơ sài với vài gáo nước lạnh và lập tức
chuyển nạn nhân đến bệnh viện. Như vậy
nghiên cứu của chúng tôi rất phù hợp với kết
quả nghiên của Nega(11), bỏng xảy ra tại nhà
chiếm 81% và trong số này 89,4% vết thương
bỏng lành tốt và không để lại di chứng, bỏng do
nước sôi chiếm tỷ lệ 59%, bỏng do lửa chiếm
34%, các loại bỏng khác chiếm 3,5%. Việc sơ cứu
bỏng bằng bùn, nước tiểu và thảo mộc chiếm
36%, sử dụng vaseline và dầu 28,5%, được chăm
sóc tại cơ sở y tế 20% và chỉ có 13,5% làm mát
vết thương bằng nước lạnh, sạch.
Thông tin, kiến thức đúng và thái độ tích
cực về sơ cứu bỏng
Nguồn thông tin về sơ cứu bỏng được người
dân tìm hiểu chủ yếu qua sự hướng dẫn của gia
đình có 44% (105/384) người trả lời đồng ý, qua
bạn bè, lối xóm chiếm 38% (91/384), từ nguồn
thông tin từ tivi, internet chiếm 39% (92/384), kế
tiếp là nguồn từ các sách báo có 29% (70/384)
người trả lời là có đọc, thông tin được cung cấp
từ nhân viên y tế 8% (20/384) và từ trường học
nghề 9% (21/384) (bảng 4). Các kết quả nghiên
cứu trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so
với kết quả nghiên cứu của Harvey(6), nguồn
thông tin qua sách báo chiếm 41,7%, internet
3,2%, nhân viên y tế 9,8%, từ bạn bè và gia đình
là 4,8%. Sự khác biệt về nguồn cung cấp thông
tin từ gia đình và bạn bè có thể là do phong tục
tập quán của người phương đông mối quan hệ
gia đình, bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến
những suy nghĩ, hành động của các thành viên
trong gia đình, các bậc ông bà, cha mẹ thường
truyền lại những kinh nghiệm đã có cho con
cháu của mình. Kinh nghiệm dân gian không
phải là không tốt hoặc sai trong việc sơ cứu và
điều trị các trường hợp bỏng nhẹ(7), nhưng cách
chúng ta áp dụng nó như thế nào hay hiểu
nhầm việc chọn lựa cách xử trí dẫn đến hậu quả
không lường.
Người dân áp dụng thời gian làm mát bằng
sử dụng nước lạnh, sạch hay dưới vòi nước
đang chảy cho sơ cứu bỏng rất khác nhau. Số
người dân lựa chọn thời gian sơ cứu bỏng dưới
20 phút chiếm tỷ lệ rất cao 87% (333/384) trường
hợp, trong khi đó chỉ có 42 người dân lựa chọn
thời gian sơ cứu bỏng đúng 20 phút chiếm tỷ lệ
11% (42/384) trường hợp (bảng 5). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Harvey(6) thời gian
làm mát 20 phút chiếm 9,4% và nghiên cứu của
Cuttle(2) chiếm 12%. Điều này cho thấy người
dân có kiến thức về thời gian làm mát vết bỏng
nhưng chưa đúng cho nên vẫn còn những biến
chứng do bỏng gây ra.
Kiến thức đúng chung về sơ cứu bỏng của
người dân chỉ chiếm có 11% (bảng 6) thấp hơn 2
kết quả nghiên cứu của Vũ Mạnh Độ(13) là 21,9%
và của Đỗ Thanh Long(3) là 17,63%. Như vậy, kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiểu biết
và kiến thức về sơ cứu bỏng của người dân chưa
thực sự đầy đủ và khoa học. Do đó cách xử trí
ban đầu mang tính tự phát, tự cứu chữa theo
kinh nghiệm sai lầm được truyền miệng trong
dân gian cũng có thể làm cho tỷ lệ sơ cứu không
đúng gia tăng.
Thái độ tích cực về sơ cứu bỏng của người
dân khi được phỏng vấn chiếm tỷ lệ 54% (bảng
7). Kết quả này cho thấy rất phù hợp với tình
hình thực tế tại cộng đồng dân cư lao động.
Người dân biết khi bị bỏng thì rất nguy hiểm có
thể để lại sẹo xấu và cần phải sơ cứu ngay
nhưng có thể do chưa từng bị bỏng nặng hay
bỏng với diện tích lớn nên họ chủ quan chưa cần
phải tìm hiểu thông tin sơ cứu bỏng làm gì và
chỉ cần kinh nghiệm truyền miệng đã có thể đủ
để sơ cứu bỏng. Ngoài ra, có thể do công việc
làm quá bận rộn nên không có thời gian để tìm
hiểu thông tin.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 228
Liên quan giữa thái độ tích cực và kiến
thức đúng về sơ cứu bỏng
Trong nghiên cứu chúng tôi thấy có mối liên
quan giữa thái độ tích cực và kiến thức đúng
chung khi phân tích đơn biến với PR = 1,54 (KTC
95%: 1,28 ‐ 1,87) với p = 0,001 (bảng 8). Tuy
nhiên khi phân tích đa biến thì mối quan hệ này
không có ý nghĩa thống kê với PR = 1,9 (KTC
95%: 0,99 ‐ 1,54) với p = 0,052 (bảng 9). Một số
người dân có kiến thức đúng về sơ cứu bỏng
nhưng có thể họ chưa có thái độ tích cực về sơ
cứu bỏng cho chính bản thân của mình. Tai nạn
bỏng thường xảy ra trong tình huống bất ngờ
người dân chỉ biết sơ cứu cho người khác mà
quên việc sơ cứu cho chính mình làm gia tăng
mức độ trầm trọng của tổn thương bỏng của bản
thân. Nếu người dân có thái độ tích cực nhanh
chóng kêu gọi sự hỗ trợ của người khác để làm
giảm những tổn thương không đáng có.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ người dân có kiến thức đúng về sơ cứu
bỏng rất thấp chiếm 11% và thái độ tích cực về
sơ cứu bỏng ở mức trung bình chiếm 54 %. Có
mối liên quan giữa thái độ tích cực v