Bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ (HIE) gây tử vong và di chứng não ít nhất 25 - 75%, hiện chưa có
phương pháp điều trị đặc hiệu. Làm lạnh toàn thân được chứng minh làm giảm tử vong và di chứng ở bệnh não
thiếu oxy, tuy nhiên chưa được áp dụng ở Đông Nam Á.
Mục tiêu: đánh giá bước đầu mức độ an toàn và kết quả đến lúc xuất viện của phương pháp này tại Bv Nhi
Đồng 1.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả.
Kết quả: 7 trường hợp HIE trung bình và nặng được áp dụng làm lạnh toàn thân trước 6 giờ tuổi. Không
ghi nhận chậm nhịp xoang < 80 l/phút, toan chuyển hóa nặng, rối loạn đông máu, thiếu máu phải truyền máu
hoặc cấy máu dương tính trong thời gian 72 giờ làm lạnh. Một trường hợp có hạ huyết áp < 40 mmHg tuy
nhiên có đáp ứng với thuốc vận mạch. Sáu trường hợp xuất viện với tình trạng tỉnh, bú sữa hoàn toàn, không
cần dùng thuốc co giật sau 15,0 ± 5,4 ngày; 6 trẻ này có kết quả EEG tuần đầu không có biểu hiện nặng: 50%
bình thường, 50% điện thế thấp hoặc không liên tục.
Kết luận: Làm lạnh toàn thân có thể áp dụng an toàn để điều trị cho trẻ bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục
bộ mức độ trung bình - nặng và bước đầu có kết quả ban đầu khả quan.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Làm lạnh toàn thân: Phương pháp điều trị mới ở trẻ bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ tại Bệnh viện Nhi đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 102
LÀM LẠNH TOÀN THÂN: PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ MỚI
Ở TRẺ BỆNH NÃO THIẾU OXY THIẾU MÁU CỤC BỘ TẠI BV NHI ĐỒNG
1
Hồ Tấn Thanh Bình*, Cam Ngọc Phượng*
TÓM TẮT
Bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ (HIE) gây tử vong và di chứng não ít nhất 25 - 75%, hiện chưa có
phương pháp điều trị đặc hiệu. Làm lạnh toàn thân được chứng minh làm giảm tử vong và di chứng ở bệnh não
thiếu oxy, tuy nhiên chưa được áp dụng ở Đông Nam Á.
Mục tiêu: đánh giá bước đầu mức độ an toàn và kết quả đến lúc xuất viện của phương pháp này tại Bv Nhi
Đồng 1.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả.
Kết quả: 7 trường hợp HIE trung bình và nặng được áp dụng làm lạnh toàn thân trước 6 giờ tuổi. Không
ghi nhận chậm nhịp xoang < 80 l/phút, toan chuyển hóa nặng, rối loạn đông máu, thiếu máu phải truyền máu
hoặc cấy máu dương tính trong thời gian 72 giờ làm lạnh. Một trường hợp có hạ huyết áp < 40 mmHg tuy
nhiên có đáp ứng với thuốc vận mạch. Sáu trường hợp xuất viện với tình trạng tỉnh, bú sữa hoàn toàn, không
cần dùng thuốc co giật sau 15,0 ± 5,4 ngày; 6 trẻ này có kết quả EEG tuần đầu không có biểu hiện nặng: 50%
bình thường, 50% điện thế thấp hoặc không liên tục.
Kết luận: Làm lạnh toàn thân có thể áp dụng an toàn để điều trị cho trẻ bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục
bộ mức độ trung bình - nặng và bước đầu có kết quả ban đầu khả quan.
Từ khóa: làm lạnh toàn thân, bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ
ABSTRACT
WHOLE BODY COOLING: A NEW TREATMENT
OF HYPOXIC ISCHEMIC ENCEPHALOPATHY IN CHILDREN HOSPITAL 1
Ho Tan Thanh Binh, Cam Ngoc Phuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 102 - 108
Hypoxic ischemic encephalopathy causes death and disability at least 25 – 75%, until now no specific clinical
intervention has been used to alter outcome. Whole body cooling has been approved to reduce mortality and
disabling neurodevelopmental sequelae, but not applied yet in South East Asia.
Objective: To evaluate early the safety and short term results until discharge of whole body cooling in CH1.
Methods: A case series study of newborn HIE with whole body cooling by using CritiCool system in NICU,
CH1 from 12/2011 – 5/2012.
Results: 7 cases HIE moderate and severe had been used whole body cooling before 6 hours old. No case had
sinus bradycardia < 80 beats/m, severe metabolic acidosis, disseminated intravascular coagulopathy, or blood
culture positive during 72 hours of cooling. One baby had hypotension below 40 mmHg, adapted with
vasopressor. 6 babies discharged alert, fully milkfed after 15.0 ± 5.4 days. They had EEG first week with no severe
results: 50% normal and 50% low voltage or discontinuous background. Conclusion: Whole body cooling can be
applied safety for HIE moderate to severe treatment and lead to favorable early outcome.
Keywords: whole body cooling, hypoxic ischemic encephalopathy..
*: Khoa Hồi sức sơ sinh– BV Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: ThS BS Hồ Tấn Thanh Bình, ĐT: 0908440550, Email:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 103
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sơ sinh là một trong các vấn đề
chăm sóc sức khỏe lớn. Nhiễm trùng, non tháng
và sanh ngạt là 3 nguyên nhân tử vong sơ sinh
hàng đầu (chiếm hơn 80%)(10,11). Bệnh não thiếu
oxy thiếu máu cục bộ (HIE), sau ngạt chu sinh
gây tử vong và bệnh tật gồm di chứng não ít
nhất 25% - 75% trẻ sống sót(1,3,8,10,12,13,15,14), có tỉ lệ 3
– 5 trẻ trong 1000 trẻ sanh sống và tỉ lệ này còn
cao hơn ở những nơi không đủ nguồn lực(14,16).
Cho đến nay, chưa có phương pháp điều trị đặc
hiệu để làm thay đổi kết quả ở nhóm trẻ HIE
trung bình đến nặng với tỉ lệ tử vong và di
chứng não cao. Các phương pháp điều trị đang
áp dụng chỉ là điều trị hỗ trợ như tránh tăng
thân nhiệt, hỗ trợ hô hấp – tuần hoàn, chống co
giật, nuôi ăn tĩnh mạch và tiêu hóa, điều chỉnh
rối loạn nước điện giải .
Thiếu oxy trước và trong khi sanh có thể
phá hủy các tế bào não của trẻ sơ sinh. Tổn
thương do thiếu oxy vẫn tiếp diễn sau đó một
thời gian. Một cách để dừng các tổn thương
này là hạ thân nhiệt toàn thân hay phần đầu
của trẻ trong vài ngày. Phương pháp này có
thể làm giảm lượng tế bào não bị tổn
thương(2,3,6,8,10,12,14,17). Nhiều thử nghiệm lâm
sàng đã được thực hiên như là Cool Cap Trial
(International) - Lancet 2005, NICHD Whole
Body Cooling Trial (US) - NEJM 2005, TOBY
Trial (UK/Europe/Israel), ICE Trial
(Australia) (tổng số ca là 638) ở các nước
tiên tiến và ba bài phân tích gộp độc lập đã
chứng minh hạ thân nhiệt giảm tử vong và di
chứng do bệnh não thiếu oxy(8,10,12,13). Giảm
nguy cơ tử vong và di chứng [RR = 0.76 (95%
CI 0,65, 0,89)] của phương pháp hạ thân nhiệt
theo báo cáo của Cochrane Review là rất đáng
kể, đặc biệt đối vơi bệnh lý não mà trước nay
chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu(10).
Làm lạnh toàn thân là 1 trong 2 phương
pháp điều trị hạ thân nhiệt đã được áp dụng
thường quy ở nhiều trung tâm sơ sinh lớn,
nhưng chỉ ở các quốc gia phát triển(5,4,8,12,15,14).
Chưa có y văn về làm lạnh toàn thân cũng như
hạ thân nhiệt ở vùng Đông Nam Á. Do đó
chúng tôi thực hiện báo cáo “Làm lạnh toàn
thân: phương pháp điều trị mới ở trẻ bệnh não
thiếu oxy thiếu máu cục bộ tại bệnh viện Nhi
Đồng 1” để đánh giá bước đầu mức độ an toàn
và kết quả đến lúc xuất viện của phương pháp
này.
Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá ban đầu mức độ an toàn và kết quả
sớm đến lúc xuất viện của phương pháp làm
lạnh toàn thân trong điều trị trẻ bệnh não thiếu
oxy thiếu máu cục bộ (HIE) tại bệnh viện Nhi
Đồng 1, Việt Nam.
Mục tiêu chuyên biệt:
Mô tả các đặc điểm sản khoa, hồi sức phòng
sanh và tình trạng lúc nhập viện của trẻ được
nhận vào nghiên cứu
Mô tả các ảnh hưởng của phương pháp làm
lạnh toàn thân (rối loạn nhịp tim, hạ huyết áp,
toan chuyển hóa nặng, rối loạn đông máu,
nhiễm trùng huyết)
Đánh giá kết quả ban đầu: tổn thương gan
thận, thời gian hỗ trợ hô hấp, thời gian nằm
viện, kết quả EEG và kết quả lúc xuất viện.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu mô tả thực hiện tại khoa Hồi sức
sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1, Việt Nam: Trong
vòng 6 giờ sau sanh, sau khi thỏa các tiêu chuẩn
nhận vào và loại trừ của nghiên cứu, trẻ sẽ được
áp dụng phương pháp làm lạnh toàn thân giữ
thân nhiệt ổn định 33.5°C trong 72 giờ(5,6,8).
Tiêu chuẩn nhận vào(7,10,12,13,15,17)
Khi có đủ 3 tiêu chuẩn sau:
Trẻ ≥ 36 tuần tuổi thai, trước 6 giờ tuổi
Có bằng chứng ngạt sau sanh: có ≥ 1 trong
các điểm sau
Khí máu động mạch ≤ 1 giờ tuổi: pH < 7,0
hoặc BE ≥ 16 mEq/L
Apgar ≤ 5 trong ≥ 5 phút sau sanh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 104
Cần được hồi sức phòng sanh (gồm bong
hoặc NKQ) ≥ 5 phút
Trẻ bệnh não thiếu máu cục bộ thiếu oxy
trung bình – nặng: có co giật hoặc có ít nhất 3
trong 6 dấu hiệu sau:
Bảng 1: Đặc điểm về tri giác, cử động tự nhiên, tư
thế, trương lực, phản xạ nguyên phát, thần kinh tự
chủ
Đặc điểm Bệnh não mức độ
trung bình
Bệnh não mức độ
nặng
Tri giác Li bì Mê
Cử động tự nhiên Giảm cử động Không cử động
Tư thế Tay gập, chân duỗi
(mất vỏ)
Tay chân duỗi
(mất não)
Trương lực Giảm trương lực cơ Mềm nhũn
Phản xạ nguyên
phát
Bú yếu
Moro 1 thì
Không phản xạ bú
Moro (-)
Thần kinh tự chủ
(1 trong các dấu
hiệu sau)
Đồng tử
Nhịp tim
Hô hấp
Co nhỏ
Nhịp chậm
Thở không đều
Dãn đồng tử, PXAS
(-)
Nhịp tim dao động
Ngưng thở
Tiêu chuẩn loại trừ(7,10,13,15)
Nhiễm trùng, xuất huyết hoặc dị tật bẩm
sinh hệ TKTW
Đa dị tật hoặc bất thường nhiễm sắc thể
Nhập viện sau 6 giờ tuổi
Suy hô hấp nặng thở máy cần FiO2 > 60%
Cân nặng lúc sanh < 1800 gram
KẾT QUẢ
Báo cáo của chúng tôi dựa trên kết quả điều
trị bằng phương pháp làm lạnh toàn thân 7 trẻ
bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ.
Bảng 2: Đặc điểm sản khoa, hồi sức phòng sanh và
tình trạng lúc nhập viện của trẻ được nhận vào
nghiên cứu
Đặc điểm Kết quả
Tuổi thai (tuần) 39.7 ± 1.0 (38 – 41)
Cân nặng lúc sanh (gr) 3257 ± 294 (2800 – 3600)
Nam giới 5 (66.7%)
Cách sanh
Sanh thường 1 (14.3%)
Sanh hút 2 (28.6%)
Đặc điểm Kết quả
Sanh mổ 4 (57.1%)
Hồi sức phòng sanh
Không ghi nhận 1 (14.3%)
Mask – NKQ 6 (85.7%)
Ấn tim 5 (71.4%)
Adrenalin 4 (57.1%)
Apgar < 5 trong 5 phút 4 (57.1%)
Không ghi nhận 1 (14.3%)
Thời điểm lúc nhập viện
(phút)
133 ± 53 (60 – 195)
Thời điểm bắt đầu làm
lạnh (phút)
246 ± 35 (210 – 300)
Phân độ bệnh não theo
Sarnat
4 (57.1%)
Trung bình 3 (42.9%)
Nặng 1 (14.3%)
Tăng thân nhiệt 3 (42.9%)
Co giật
Suy hô hấp 4 (57.1%)
Oxy 3 (42.9%)
NKQ 3 (42.9%)
Sốc – Có sử dụng vận
mạch
Bảng 3. Các ảnh hưởng của phương pháp làm lạnh
toàn thân trong 72 giờ
Đặc điểm Kết quả
Rối loạn nhịp
Nhịp chậm xoang < 80 l/phút 0 (0%)
Các rối loạn nhịp khác 0 (0%)
Tụt huyết áp 1 (14.3%)
Sử dụng thêm vận mạch 1 (14.3%)
Toan máu pH < 7.2 0 (0%)
Rối loạn đông máu 0 (0%)
Thiếu máu cần truyền máu 0 (0%)
CRP > 20 mg% 1 (14.3%)
Cấy máu dương tính 0 (0%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 105
Biểu đồ 1: Thân nhiệt trẻ trước, trong và sau giai
đoạn hạ thân nhiệt toàn thân.
Biểu đồ 2 và 3: Thay đổi nhịp tim và huyết áp trước,
trong và sau giai đoạn làm lạnh toàn thân.
Biểu đồ 4 và 5: Thay đổi Creatinin máu và AST
máu trước, trong và sau giai đoạn làm lạnh toàn thân
Bảng 4: Kết quả điều trị ban đầu
Đặc điểm Kết quả
Điện não EEG N5 – 7 6 ca
Nặng: đẳng điện hoặc burst-
suppression
0 (0%)
Trung bình: điện thế thấp hoặc dạng
không liên tục
3 (50.0%)
Nhẹ: sóng co giật 0 (0%)
Bình thường 3 (50.0%)
Xuất viện 6 (85.7%)
Thời gian nằm viện (ngày) 15.0 ± 5.4 (9 – 25)
Thời gian hỗ trợ hô hấp (ngày) 6.0 ± 3.2 (3 – 11)
Tình trạng lúc xuất viện
Tỉnh, bú sữa hoàn toàn 6 (100%)
Co giật phải dùng thuốc 0 (0%)
BÀN LUẬN
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi điều
trị làm lạnh toàn thân cho 6 trẻ bệnh não thiếu
oxy thiếu máu cục bộ. Có 3 trường hợp không
được sử dụng phương pháp này, một do suy hô
hấp nặng lúc nhập viện thở máy FiO2 100%, một
do hệ thống làm lạnh đang sử dụng cho bệnh
nhân khác (chỉ có 1 máy), một do nhập viện trễ
sau 6 giờ tuổi.
Nhóm bệnh nhân của chúng tôi tất cả đều đủ
tháng, có CNLS trung bình 3257 ± 294gr và
66,7% là nam. Bốn trường hợp sanh mổ đều có
chỉ định cấp cứu do trẻ bị suy thai cấp trước và
trong chuyển dạ. Ngoài 1 trường hợp không có
thông tin về vấn đề hồi sức phòng sanh, 6 trường
hợp còn lại đều cần phải hồi sức ngay sau sanh
với bóp bóng qua mặt nạ / nội khí quản, trong đó
5 trường hợp phải ấn tim và 4 trường hợp phải sử
dụng Adrenalin. Như vậy vấn đề ngạt thiếu oxy ở
nhóm bệnh nhân chúng tôi là nặng. Hồi sức
phòng sanh rất quan trọng, nếu hiệu quả giúp
giảm đáng kể tổn thương não của trẻ, giảm độ
nặng của bệnh não thiếu oxy thiếu máu cục bộ(3).
Thời điểm nhập viện trung bình là 133 ± 53
(60 – 195) phút. Trẻ cần chuyển viện sớm để điều
trị do thời gian vàng cho phương pháp hạ thân
nhiệt toàn thân là 6 giờ. Đây là thời gian cửa sổ để
ngăn chặn não bị tổn thương chuyển sang chết tế
bào(2,3,6,10,13,16,17). Thời điểm bắt đầu làm lạnh trong
báo cáo chúng tôi là 246 ± 35 (210 – 300) phút.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Nhi Khoa 106
Đánh giá độ nặng bệnh não thiếu oxy thiếu
máu cục bộ theo phân loại Sarnat, 4 trường hợp
độ trung bình, 3 trường hợp độ nặng. Theo y văn,
nhóm trung bình có tiên lượng tử vong 10% và
di chứng nặng là 30%; trong khi ở nhóm nặng
tiên lượng tử vong là 60% và di chứng nặng là
hầu hết(1,2,3,8,10,12,15,14).
Tăng thân nhiệt thời điểm lúc nhập viện ghi
nhận ở 1 trẻ với nhiệt độ 39oC. Biểu hiện co giật
lâm sàng được thấy ở 3 trẻ (42.9%), điều trị được
áp dụng là Phenobarbital tấn công 20mg/kg
trong 30 phút. Tăng thân nhiệt và co giật sớm
trong 24 giờ đầu đều là dấu hiệu tiên lượng
xấu(8,15,14). Hiện nay, trong vấn đề hồi sức phòng
sanh ở trẻ đủ tháng, khuyến cáo tránh để trẻ tăng
thân nhiệt. Cứ thân nhiệt trẻ tăng 1 độ C, di
chứng não tăng gấp 4 lần(8,15,14). Do đó nhất thiết
cần tránh để trẻ tăng thân nhiệt dù trẻ có được áp
dụng hoặc không phương pháp hạ thân nhiệt
toàn thân. Trẻ biểu hiện bệnh não thiếu oxy thiếu
máu cục bộ không nên ủ ấm và nên để hạ thân
nhiệt thụ động trên đường chuyển viện.
Tình trạng lúc nhập viện, tất cả đều cần hỗ trợ
hô hấp, trong đó 4 ca được sử dụng oxy qua
canula, 3 ca được giúp thở qua nội khí quản. Có 3
trường hợp có biểu hiện sốc và được sử dụng vận
mạch Dopamin ± Dobutamin trước khi tiến hành
làm lạnh toàn thân.
Chúng tôi sử dụng hệ thống CritiCool để hạ
thân nhiệt toàn thân cho trẻ. kiểm soát thân nhiệt
của trẻ thông qua 2 cảm biến nhiệt độ ở da và ở
trực tràng. Qua ghi nhận nhiệt độ của trẻ khi bắt
đầu làm lạnh đạt thân nhiệt 33,5oC, và trong 72
giờ sau đó ghi nhận 2 nhiệt độ thấp nhất và cao
nhất trong ngày (theo dõi mỗi 3 giờ), biểu thị qua
biểu đồ 1, chúng tôi nhận thấy nhiệt độ của trẻ
nhanh chóng đạt được mục tiêu 33,5oC trong
vòng 30 phút và được giữ ổn định 33 – 34oC trong
72 giờ. Do là hệ thống điều chỉnh tự động nên
việc kiểm soát nhiệt độ ổn định và không làm
tăng thêm công việc của điều dưỡng.
Việc theo dõi nhịp tim và huyết áp của trẻ
tương tự thân nhiệt. Chúng tôi nhận thấy nhịp
tim của 6 trường hợp giảm trong khi bắt đầu làm
lạnh đến lúc đạt nhiệt độ mong muốn là 33,5oC,
nhịp tim trung bình của 6 trường hợp này trước
khi làm lạnh và sau khi đạt thân nhiệt 33,5oC lần
lượt là 151 ± 22 và 108 ± 18 nhịp / phút. Một
trường hợp còn lại nhịp tim không giảm là do
thân nhiệt trước khi làm lạnh của trường hợp này
đã là 33oC. Tuy nhiên không có trường hợp nào
ghi nhận có nhịp chậm xoang < 80 nhịp / phút
cũng như những rối loạn nhịp khác. Theo y văn,
5 thử nghiệm lâm sàng lớn gồm làm lạnh đầu của
Gunn 1998, Akisu 2003, Gluckman 2005; làm
lạnh toàn thân của Eicher 2005, Shankaran 2005
đều báo cáo ảnh hưởng của hạ thân nhiệt làm
chậm nhịp tim và phân tích gộp chứng minh
làm tăng tỉ lệ nhịp chậm xoang dưới 80
nhịp/phút có ý nghĩa thống kê RR 5.96 (95% CI
2,15, 16,49)(8,10,12,13). Theo tác giả Shankaran 2005,
tỉ lệ nhịp chậm xoang ở nhóm làm lạnh toàn
thân so với nhóm chứng lần lượt là 1/102 ca và
0/106 ca (RR 3,12 (0,13 – 75,63)(10,12,15,14). Theo
đánh giá của chúng tôi, làm lạnh toàn thân có
làm giảm nhịp tim, tuy nhiên ảnh hưởng này chỉ
có trong giai đoạn làm lạnh và phục hồi sau đó.
Đối với huyết áp, chúng tôi nhận thấy không có
sự thay đổi rõ rệt trước và sau khi bắt đầu làm
lạnh, tất cả 7 trường hợp đều có huyết áp duy trì
trên 40 mmHg. Trong thời gian 72 giờ làm lạnh,
có 1 trường hợp ghi nhận có tụt huyết áp < 40
mmHg, tuy nhiên trẻ đáp ứng với tăng liều vận
mạch và duy trì huyếp áp > 40 mmHg sau đó.
Phân tích gôp 5 thử nghiệm cho thấy hạ thân
nhiệt chỉ gây hạ huyết áp có ý nghĩa thống kê tối
thiểu RR 1,17 (95% CI 1,00, 1,38)(8,10,13). Riêng theo
tác giá Shankaran 2005, tỉ lệ hạ huyết áp cần sử
dụng vận mạch giữa nhóm làm lạnh toàn thân
và nhóm chứng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê RR 1,08 (0,82, 1,40)(15,14). Như vậy chúng
tôi nhận thấy làm lạnh toàn thân có ảnh hưởng
lên huyết động của trẻ nhưng ảnh hưởng ít và
không nghiêm trọng.
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào
có tình trạng toan máu pH < 7.2, rối loạn đông
máu, thiếu máu cần truyền máu trong thời gian
làm lạnh. Kết quả này phù hợp y văn. Làm lạnh
toàn thân không làm tăng tỉ lệ toan chuyển hóa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 107
máu nặng, đông máu nội mạch lan tỏa, thiếu
máu cần truyền máu(8,10,13).
Mặc dù y văn chứng minh hạ thân nhiệt
không làm tăng nhiễm trùng huyết, tuy nhiên
đây vẫn là một trong những vấn đề được quan
tâm liệu nhiễm trùng huyết có tăng khi làm lạnh
toàn thân gây tác dụng ngược khi áp dụng ở các
nước đang phát triển(5,4,6,9,16). Chúng tôi theo dõi
CRP máu trước khi làm lạnh, 24 giờ và 72 giờ
sau làm lạnh, kết quả cho thấy 6 / 7 trường hợp
CRP máu không tăng hoăc tăng dưới 20 mg%.
Chỉ 1 trường hợp có CRP máu tăng lên 27mg%
thời điểm 72 giờ sau bắt đầu làm lạnh. Không có
trường hợp nào có cấy máu dương tính sau 72
giờ làm lạnh cũng như trong thời gian nằm viện.
Như vậy chăm sóc trẻ đúng cách trong khi làm
lạnh cũng như kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện
sẽ giúp việc áp dụng làm lạnh toàn thân vẫn
mang lại kết quả cải thiện tiên lượng tương tự
như ở các nước đã phát triển.
Đánh giá kết quả điều trị ban đầu của phương
pháp làm lạnh toàn thân. Chúng tôi theo dõi
chức năng gan thận (creatinin máu và SGOT
máu) trước khi làm lạnh và mỗi 24 giờ trong 72
giờ làm lạnh qua biểu đồ 3 và 4. Chúng tôi nhận
thấy Creatinin máu giảm nhanh về giá trị bình
thường vào ngày 3 trong 6 trường hợp, có 1
trường hợp tổn thương thận không đáp ứng điều
trị, tiếp tục tăng cao nồng độ Creatinin máu. Tổn
thương gan được đánh giá qua nồng độ AST máu.
Chúng tôi quan sát thấy giá tri AST máu cũng
giảm vào ngày thứ 3 (180,5 ± 152,1 UI/l) so với
trước khi làm lạnh (295,3 ± 261,3 UI/l).
Tỉ lệ tử vong là 1/7 trường hợp (14,3%).
Trường hợp tử vong là trẻ có tình trạng suy
thai cấp, được sanh mổ cấp cứu, được hồi sức
phòng sanh với bóp bóng qua NKQ, ấn tim, sử
dụng Adrenalin TM, Apgar 0 điểm 1 phút, 1
điểm 5 phút. 3 điểm 10 phút. Trẻ nhập viện với
đánh giá tổn thương bệnh não thiếu oxy thiếu
máu cục bộ mức độ nặng, thân nhiệt 33oC, tím
khi bóp bóng, sốc được sử dụng vận mạch
Dopamin và Dobutamin. Trẻ được làm lạnh
vào thời điểm 4 giờ 30 phút sau sanh sau khi
đã ổn định hô hấp và tuần hoàn. Trong giai
đoạn làm lạnh toàn thân, trẻ được thở máy và
tiếp tục vận mạch. Sau giai đoạn làm lạnh trẻ
có tình trạng suy hô hấp nặng, cao áp phổi tồn
tại không đáp ứng với điều trị các thuốc dãn
mạch máu phổi, tử vong vào 6 ngày tuổi. Tử
thiết phổi xác định tổn thương xơ hóa mạch
máu và mô kẽ phổi do tình trạng ngạt chu
sanh. 6 trường hợp còn lại đều được xuất viện.
Thời gian hỗ trợ hô hấp của nhóm trẻ này là
6,0 ± 3,2 (3 – 11) ngày. Một trong những quan
sát của chúng tôi là việc cai máy thở thuận lợi
là do trẻ cải thiện tri giác sớm và kiểm soát
được đường thở.
Co giật ghi nhận trong ngày đầu ở 3 trong 6
trẻ có kết quả xuất viện. Sau giai đoạn làm lạnh,
không có trẻ nào có biểu hiện co giật trên EEG
vào ngày tuổi 5 – 7 hoặc trên lâm sàng đến thời
điểm xuất viện. Tất cả trẻ xuất viện đều không cần
sử dụng thuốc chống co giật.
EEG trong tuần đầu có giá trị tiên lượng cao
về di chứng não ở nhóm trẻ bệnh não thiếu oxy
thiếu máu cục bộ(1). Biểu hiện trên EEG nếu bất
thường nặng như đẳng điện hoặc burst-
suppression làm khả năng di chứng nặng gia
tăng với LR = 8,3, nếu không có biểu hiện nặng,
khả năng di chứng nặng giảm với UR = 0,09(1).
Nhóm trẻ xuất viện gồm 6 trẻ (4 ca độ trung bình
và 2 ca nặng) sau khi hoàn thành giai đoạn làm
lạnh toàn thân, được tiến hành đo EEG trong
tuần tuổi đầu tiên. Kết quả được đọc bởi bác sĩ
chuyên khoa thần kinh. Kết quả có 3 trường hợp
ghi nhận điện thế thấp hoặc không liên tục, 3
trường hợp không ghi nhận bất thường.
Tất cả trẻ xuất viện đều có tri giác tỉnh, bú sữa
hoàn toàn với thời gian nằm viện trung bình là
15,0 ± 5,4 (9 – 25) ngày. Đây là kết quả ban đầu
khả quan nhất là nếu có phối hợp với EEG bình
thường. Tuy nhiên vấn đề phát triển thần kinh sẽ
được chúng tôi theo dõi tiếp tục vào thời điểm 6
tháng, 12 tháng và 18 tháng để đánh giá chính
xác hơn. Theo đánh giá tổng quan hệ thống, hạ
thân nhiệt làm giảm tỉ lệ tử vong và