Trong hệ thống các môn học ởtrường phổthơng, Tiếng Việt là một môn 
học giữvai trò vô cùng quan trọng. Trước tiên với tưcách là một môn học 
độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụcung cấp cho học sinh những tri thức về
ngôn ngữhọc và hệthống tiếng Việt, cùng với những quy tắc hoạt động và 
sản phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng nói là công 
cụcủa tưduy nên Tiếng Việt còn đảm nhận thêm một chức năng khác – chức 
năng trang bịcho học sinh công cụ đểtiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức 
khoa học trong nhà trường. Tưduy vượt trội và giao tiếp thành công phụ
thuộc rất lớn vào khảnăng sửdụng ngôn ngữcủa mỗi cá nhân. 
Với vịtrí và vai trò đặc biệt nhưvậy, mục tiêu của quá trình dạy và học 
tiếng Việt ởtrường phổthông cần phải được xác định một cách chính xác và 
đầy đủ. Báo cáo đềdẫn của Viện Khoa học Giáo dục trình bày tại Hội thảo 
“Dạy học tiếng Việt trong nhà trường phổthông đầu thếkỷ21” (2000) đã xác 
định rõ mục tiêu hàng đầu của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường là 
giúp cho học sinh có năng lực sửdụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, hình thành và
rèn luyện năng lực giao tiếp, thểhiện rõ trong việc sửdụng tốt 4 kĩnăng cơ
bản: đọc, viết, nghe và nói. Mục tiêu nhưvậy là đúng và phù hợp với xu thế
dạy tiếng mẹ đẻcủa các nước trên thếgiới trong thếkỷXXI. 
Đểcó thểsửdụng tốt ngôn ngữtrong giao tiếp, học sinh không chỉ được 
trang bịcác tri thức vềhệthống ngôn ngữnhưnhững hiểu biết vềcác đơn vị
và các quy tắc thuộc các bình diện của ngôn ngữnhưngữâm, từvựng, ngữ
pháp, v.v mà còn phải được trang bịcảnhững tri thức vềsựsửdụng ngôn 
ngữtrong giao tiếp. Đểcó thểsửdụng tốt ngôn ngữtrong mọi hoạt động giao 
tiếp, học sinh phải có những hiểu biết cơbản vềngữdụng học.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
129 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2920 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bình diện ngữ dụng học trong việc dạy học tiếng việt ở trường trung học cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
-----  ----- 
Nguyễn Thị Ngọc Thúy 
BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG HỌC TRONG VIỆC DẠY 
HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ 
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn 
 Mã số : 60 14 10 
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 PGS. TS. BÙI MẠNH HÙNG 
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
1 
 Trong hệ thống các môn học ở trường phổ thơng, Tiếng Việt là một môn 
học giữ vai trò vô cùng quan trọng. Trước tiên với tư cách là một môn học 
độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức về 
ngôn ngữ học và hệ thống tiếng Việt, cùng với những quy tắc hoạt động và 
sản phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, vì tiếng nói là công 
cụ của tư duy nên Tiếng Việt còn đảm nhận thêm một chức năng khác – chức 
năng trang bị cho học sinh công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức 
khoa học trong nhà trường. Tư duy vượt trội và giao tiếp thành công phụ 
thuộc rất lớn vào khả năng sử dụng ngôn ngữ của mỗi cá nhân. 
 Với vị trí và vai trò đặc biệt như vậy, mục tiêu của quá trình dạy và học 
tiếng Việt ở trường phổ thông cần phải được xác định một cách chính xác và 
đầy đủ. Báo cáo đề dẫn của Viện Khoa học Giáo dục trình bày tại Hội thảo 
“Dạy học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông đầu thế kỷ 21” (2000) đã xác 
định rõ mục tiêu hàng đầu của việc dạy học tiếng Việt trong nhà trường là 
giúp cho học sinh có năng lực sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, hình thành và 
rèn luyện năng lực giao tiếp, thể hiện rõ trong việc sử dụng tốt 4 kĩ năng cơ 
bản: đọc, viết, nghe và nói. Mục tiêu như vậy là đúng và phù hợp với xu thế 
dạy tiếng mẹ đẻ của các nước trên thế giới trong thế kỷ XXI. 
 Để có thể sử dụng tốt ngôn ngữ trong giao tiếp, học sinh không chỉ được 
trang bị các tri thức về hệ thống ngôn ngữ như những hiểu biết về các đơn vị 
và các quy tắc thuộc các bình diện của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ 
pháp, v.v… mà còn phải được trang bị cả những tri thức về sự sử dụng ngôn 
ngữ trong giao tiếp. Để có thể sử dụng tốt ngôn ngữ trong mọi hoạt động giao 
tiếp, học sinh phải có những hiểu biết cơ bản về ngữ dụng học. 
 Điều đó có nghĩa rằng những tri thức về ngữ dụng học có ý nghĩa rất lớn 
trong việc giúp học sinh hình thành năng lực sử dụng ngôn ngữ. Vậy câu hỏi 
đặt ra là: Vấn đề ngữ dụng học đã được quan tâm đúng mức trong quá trình 
2 
dạy và học tiếng Việt ở trường phổ thông hay chưa? Ngữ dụng học đã được 
đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông như thế nào? v.v… Trả lời được những 
câu hỏi ấy sẽ giúp nhìn nhận và đánh giá chính xác hơn về hiệu quả của 
chương trình và cách giảng dạy phân môn Tiếng Việt so với mục tiêu đã đặt 
ra. Đó cũng chính là lý do khiến chúng tôi thực hiện đề tài: “Bình diện ngữ 
dụng học trong việc dạy học tiếng Việt ở trường trung học cơ sở”. 
 Với việc thực hiện đề tài này, chúng tôi mong rằng luận văn sẽ có những 
đóng góp sau: 
 – Góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ngữ dụng học với yêu cầu và 
thực tiễn của việc giảng dạy Tiếng Việt ở trường trung học cơ sở hiện nay. 
 – Khẳng định vai trò quan trọng của ngữ dụng học trong việc hình thành 
và rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp cho học sinh trung 
học cơ sở. 
 – Đưa ra những kiến nghị để việc xây dựng chương trình phân môn 
Tiếng Việt ở trường trung học cơ sở được hợp lý hơn cũng như tìm ra được 
những phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất giúp học sinh hình thành và rèn 
luyện năng lực giao tiếp. 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
 Ở nước ngoài, ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX các nhà triết học và 
logic học nổi tiếng như L.Wittgenstein, J.Austin, J.Searle, v.v… đã có những 
công trình nghiên cứu đầu tiên về ngữ dụng học. Bên cạnh việc quan tâm đến 
những vấn đề lý thuyết chung về ngữ dụng học, các nhà ngôn ngữ học thế 
giới cũng đã bắt đầu đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa ngữ dụng học với quá 
trình giảng dạy ngôn ngữ. Tuy nhiên vấn đề mà họ quan tâm lại là mối quan 
hệ giữa ngữ dụng học với quá trình giảng dạy ngôn ngữ thứ hai hay ngoại ngữ 
(tạm gọi là L2). 
3 
 G. Kasper với bài viết “Can pragmatic competence be taught?” (1997) đã 
nhấn mạnh những hiểu biết về ngữ dụng học chính là một trong những yếu tố 
cấu tạo nên năng lực giao tiếp (communicative competence). Để đi đến kết 
luận này, tác giả đã điểm qua rất nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu 
trước đó. Trong đó có thể kể đến Savignon (1991) với nhận định sau: Năng 
lực ngữ dụng của những người học ngôn ngữ thứ hai sẽ là một phần trong 
năng lực giao tiếp của những học viên không phải là người bản ngữ và do đó 
nó sẽ có vai trò xác định mô hình của năng lực giao tiếp. Còn trong mô hình 
của Bachman (1990) thì “năng lực ngôn ngữ” lại được phân chia thành hai 
năng lực bộ phận là “năng lực tổ chức” và “năng lực ngữ dụng”. Dẫu được 
trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cuối cùng G. Kasper cũng đã làm 
sáng tỏ một điều: Năng lực ngữ dụng chính là một trong những nhân tố quan 
trọng cấu thành nên năng lực giao tiếp. Đồng thời trong bài viết của mình, tác 
giả cũng đã thừa nhận rằng có một sự tương đồng đặc biệt về những hiểu biết 
liên quan đến ngữ dụng giữa tiếng mẹ đẻ và L2, và nếu người học biết tận 
dụng sự chuyển di tích cực này vào quá trình học L2 thì sẽ làm cho việc nắm 
bắt những kiến thức về ngữ dụng học trong L2 trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. 
Nhưng trong thực tế, người học thường chỉ sử dụng những hiểu biết này một 
cách vô thức mà chưa tạo ra được thói quen sử dụng có ý thức vốn tri thức 
tiềm ẩn này. Vì vậy, theo tác giả, trong quá trình giảng dạy ngôn ngữ nhất 
thiết phải có sự can thiệp mang tính chất sư phạm, không phải với mục đích 
cung cấp cho người học những tri thức mới về ngữ dụng học mà đánh thức 
vốn hiểu biết có sẵn trong tiềm thức của họ và khuyến khích họ chuyển di 
những hiểu biết về ngữ dụng học có tính phổ quát trong tiếng mẹ đẻ sang quá 
trình nắm bắt ý nghĩa của L2 trong những ngữ cảnh tương ứng. Mặc dù đó là 
quan điểm của G. Kasper về việc giảng dạy và rèn luyện năng lực ngữ dụng 
4 
trong quá trình dạy L2, nhưng những ý kiến trên vẫn có giá trị đối với việc 
dạy tiếng mẹ đẻ. 
 Tiếp theo là công trình nghiên cứu “Pragmatics in language teaching” do 
nhóm tác giả G. Kasper, K. Rose biên soạn. Có thể nói đây là tập sách đầu 
tiên dành riêng cho việc nghiên cứu giảng dạy ngữ dụng học trong các lớp 
học L2. Nội dung chính của công trình này là trình bày kết quả thực nghiệm 
được thực hiện ở các lớp học, đồng thời minh họa cho các hướng nghiên cứu 
tập trung vào hai vấn đề quyết định, đó chính là khả năng giảng dạy các vấn 
đề thuộc bình diện ngữ dụng học trong việc dạy L2 cũng như cách thức và qui 
trình đánh giá hoạt động nhận thức của người học về vấn đề này. Ở phần đầu 
tập sách, các tác giả một lần nữa cũng khẳng định vai trò quyết định của năng 
lực ngữ dụng trong hệ thống năng lực giao tiếp của người học. Những phần 
còn lại chủ yếu là miêu tả các công trình nghiên cứu cùng các số liệu để khảo 
sát hiệu quả học tập của những lớp học được cung cấp đầy đủ những hướng 
dẫn về phương diện ngữ dụng. Qua công trình này, nhóm biên soạn muốn giải 
quyết ba vấn đề sau: Có thể giảng dạy những vấn đề gì thuộc về năng lực ngữ 
dụng? Trong lớp học, có thể tạo ra những cơ hội học tập nào để phát triển 
năng lực ngữ dụng cho người học? Những hướng giảng dạy nào là khả thi và 
hiệu quả? Thiết nghĩ, đó không chỉ là vấn đề mà các giáo viên dạy L2 quan 
tâm, mà còn là nỗi trăn trở, băn khoăn của không ít giáo viên giảng dạy tiếng 
mẹ đẻ. 
 Ngoài hai công trình trên vẫn còn nhiều tài liệu khác viết về mối quan hệ 
giữa ngữ dụng học và giảng dạy ngôn ngữ. Chẳng hạn như công trình 
“Pragmatics and Eduacation” của nhóm tác giả F. Lowenthal, F. Vandamme. 
Đây là tập sách gồm nhiều bài viết khác nhau. Trong đó cũng có một số bài 
viết thực sự có ý nghĩa đối với việc giảng dạy ngữ dụng học cho người học 
ngôn ngữ. Chẳng hạn như bài “Mục đích, phương pháp và lí thuyết trong 
5 
giảng dạy ngôn ngữ” của tác giả H. Stephen Straight. Trong bài viết này, tác 
giả đã xác định mục đích đầu tiên của việc học ngôn ngữ là đạt đến sự trôi 
chảy, lưu loát trong giao tiếp. Theo tác giả, để đạt được mục đích ấy, trong 
quá trình học cách lĩnh hội và sản sinh văn bản, các kiến thức và hình thức 
luyện tập liên quan đến ngữ dụng học mà cụ thể là hội thoại và giao tiếp nên 
được khuyến khích thực hiện. Thế nhưng ý niệm của tác giả về việc giảng dạy 
ngữ dụng học trong quá trình học tập ngôn ngữ chỉ dừng lại ở đó mà chưa có 
sự phân tích, hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hơn. 
 Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về vấn 
đề này chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò quan trọng của các kiến thức 
ngữ dụng học đối với việc hình thành năng lực giao tiếp, đồng thời cũng có 
đưa ra một số hướng dẫn có tính sư phạm để giảng dạy hiệu quả hơn vấn đề 
này trong các giờ học ngôn ngữ, nhưng tất cả chỉ dừng lại phục vụ cho việc 
dạy L2. 
 Ở Việt Nam, năm 2002, sách giáo khoa Ngữ văn trung học cơ sở được triển 
khai đại trà. Trước đó, có một số công trình nghiên cứu về phương pháp giảng 
dạy Tiếng Việt, nhưng là để áp dụng cho việc dạy Tiếng Việt theo sách giáo 
khoa cũ. Sách giáo khoa thay đổi nên các quan niệm về nguyên tắc và phương 
pháp giảng dạy cũng thay đổi theo những hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên 
có một thực tế là việc tìm hiểu ngữ dụng học dưới góc độ ứng dụng vào quá 
trình dạy tiếng mẹ đẻ lại được rất ít các nhà Việt ngữ quan tâm. Vì vậy, trước 
và sau năm 2002, ở nước ta hầu như không có tài liệu nào nghiên cứu tập 
trung về vấn đề này. Nó chủ yếu được đề cập đến trong những công trình 
nghiên cứu về những vấn đề khác lớn hơn, chẳng hạn như: 
 Trong “Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn về dạy và học tiếng Việt ở trường 
trung học” (1998), khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên 
quan đến việc dạy – học ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã rất đề cao quan điểm dạy 
6 
học bản ngữ dựa trên lí thuyết hoạt động lời nói: “Trên quan điểm coi hoạt 
động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là 
bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho 
học sinh phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời 
nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để 
nâng cao ý thức, qui tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý 
thức về năng lực giao tiếp, tổ chức cho học sinh sáng tạo các hành vi lời nói 
trong giao tiếp, (…), tức là dạy cho học sinh ứng xử sáng tạo trong giao tiếp 
ở môi trường có tính thực tiễn nhất của đời sống.” [61: 161]. Để thực hiện 
mục đích ấy, theo Trương Dĩnh, về hình thức bài tập, giờ thực hành bản ngữ 
phải coi trọng việc xây dựng bộ bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao 
tiếp cho học sinh. Mặc dù tác giả không hiển ngôn hóa yêu cầu phải dạy các 
tri thức về ngữ dụng học cho học sinh nhưng dựa trên quan niệm của tác giả 
về các định hướng cải tiến việc dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông, chúng 
tôi nhận thấy để làm được điều ấy thì việc cung cấp các kiến thức và kĩ năng 
về ngữ dụng là yêu cầu cần thiết đối với quá trình rèn luyện năng lực hoạt 
động giao tiếp cho học sinh. 
 Trong “Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt” (1999), tác giả Bùi Minh 
Toán đã đề cập đến các vấn đề như: sự hiện thực hóa các bình diện của từ 
trong hoạt động giao tiếp, sự biến đổi và chuyển hóa của từ trong hoạt động 
giao tiếp,… Cách tiếp cận này đã mở ra một hướng giảng dạy hiệu quả các bài 
học về từ trong chương trình Tiếng Việt trung học cơ sở. Đó là hướng giảng 
dạy quan tâm đến bình diện ngữ dụng học, cụ thể là khi dạy về từ, giáo viên 
nên đặt từ trong hoạt động giao tiếp để xác định đúng nhất nghĩa của từ trong 
ngữ cảnh, trên cơ sở đó hướng dẫn học sinh sử dụng và lĩnh hội từ trong giao 
tiếp. 
7 
 Tương tự như hai công trình trên, đa số các tài liệu nghiên cứu về phương 
pháp giảng dạy đều không đề cập trực tiếp đến ý nghĩa và phương hướng 
giảng dạy các vấn đề ngữ dụng học trong giờ học tiếng Việt. Sự cần thiết của 
việc gắn liền quá trình giảng dạy tiếng Việt với việc cung cấp những tri thức 
cơ bản về ngữ dụng học chỉ được đề cập gián tiếp trong các bài viết nhân bàn 
về vấn đề dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp, có thể kể đến một số 
tài liệu khác như: Trương Dĩnh (1992), Lê A (2001), Lê Thị Minh Nguyệt 
(2006), Vũ Thị Thanh Hương (2006), v.v… 
 Quan điểm giao tiếp yêu cầu qui trình dạy học tiếng Việt phải được đặt 
trong các hoàn cảnh giao tiếp và giáo viên phải thường xuyên tạo ra được các 
tình huống giao tiếp để học sinh thực hành ngôn ngữ. Các yêu cầu ấy chỉ thực 
hiện được khi học sinh có những hiểu biết cơ bản về ngữ dụng học – ngành 
học nghiên cứu về ngôn ngữ trong giao tiếp. Vì vậy có thể nói nếu như quan 
điểm giao tiếp được xem là quan điểm mới, tích cực trong việc định hướng 
cải tiến tình hình dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông thì vai trò và ý nghĩa 
của việc giảng dạy bình diện ngữ dụng học trong giờ học tiếng Việt đã được 
khẳng định một cách gián tiếp. 
 Bên cạnh những bài nghien cứu có tính lí luận về vai trò và ý nghĩa của các 
kiến thức ngữ dụng đối với việc hình thành kĩ năng giao tiếp cho học sinh thì 
vẫn có một số bài viết nghiên cứu trực tiếp về việc giảng dạy một số vấn đề 
cụ thể liên quan đến ngữ dụng học. Những bài viết dạng này trước năm 2002 
chủ yếu chỉ viết về việc dạy hàm ngôn cho học sinh phổ thông, chẳng hạn 
như: 
 – Bài viết “Dạy hàm ngôn là dạy nghệ thuật giao tiếp cho học sinh trung 
học phổ thông” của Nguyễn Thị Phương Thảo (2000). Tác giả đã khẳng định 
những lí do cho thấy việc dạy hàm ngôn đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với 
quá trình rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp cho học sinh, 
8 
tuy nhiên bài viết vẫn chưa đưa ra được những định hướng cụ thể cho quá 
trình giảng dạy. 
 – Bài viết “Về tính thiết thực của dạy hàm ngôn cho học sinh trung học 
phổ thông” (2001) và “Hàm ngôn và dạy hàm ngôn” (2001) của Lê Xuân 
Mậu. Trong hai bài viết này, tác giả đã có những đánh giá rất thẳng thắn về 
tình hình dạy học hàm ngôn ở các trường phổ thông, trên cơ sở đó đưa ra 
những kiến nghị cụ thể để tăng cường tính thiết thực trong việc dạy hàm 
ngôn. Với chúng tôi, đó là những kiến nghị tích cực, có ý nghĩa lớn đối với 
quá trình giảng dạy các vấn đề liên quan đến bình diện ngữ dụng học. 
 Ngoài vấn đề hàm ngôn, các nhà nghiên cứu về phương pháp giảng dạy 
tiếng Việt hiện nay đã quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các tình huống 
giao tiếp trong dạy học tiếng Việt, có thể kể đến các tài liệu sau: 
 – Tình huống giao tiếp, tình huống giao tiếp giả định và việc dạy hội thoại, 
Nguyễn Trí (2007). 
 – Dạy học “Nghĩa của câu” ở trung học phổ thông theo tình huống giao 
tiếp, Lê Thị Bích Hồng (2007). 
 Các bài viết này bước đầu đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình 
huống giao tiếp trong dạy tiếng, chẳng hạn như tác giả Lê Thị Bích Hồng đã 
nhấn mạnh: “Trong dạy học, để giúp học sinh tích cực chủ động, huy động 
mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức 
mới hay giải quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc 
lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, giáo viên 
cần xây dựng các tình huống giao tiếp.” [21: 32]. Bên cạnh đó, tác giả của hai 
bài viết trên cũng đã cố gắng đưa ra những định nghĩa đầy đủ về tình huống 
giao tiếp và tình huống giao tiếp giả định, đồng thời xác định các đặc điểm cơ 
bản cũng như những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ 
9 
học tiếng; trên cơ sở đó mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống 
giao tiếp trong giờ dạy tiếng Việt. 
 Nhìn chung, bình diện ngữ dụng học trong việc giảng dạy tiếng Việt không 
hẳn là một vấn đề mới mẻ vì đã được đề cập đến gián tiếp qua các tài liệu viết 
về những vấn đề mang tính lí luận về phương pháp và nguyên tắc dạy học 
tiếng Việt. Nhưng đó cũng không hẳn là một vấn đề đã cũ vì vẫn chưa nhận 
được sự quan tâm đúng mức của các nhà khoa học. Hầu hết các tài liệu nước 
ngoài chỉ quan tâm việc ứng dụng ngữ dụng học trong quá trình dạy L2; còn 
tài liệu trong nước chỉ quan tâm đến vấn đề ấy một cách chung chung dưới 
dạng những bài viết ngắn, hoặc chỉ là một phần rất nhỏ trong một công trình 
nghiên cứu lớn. Có thể nói dạy và học các vấn đề ngữ dụng học một cách 
thích hợp thật sự là một yêu cầu cấp thiết đối với việc hình thành và rèn luyện 
năng lực giao tiếp cho học sinh, song đề tài này vẫn đang còn bị bỏ ngõ với 
nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng. 
3. Đối tượng nghiên cứu 
 Như tên đề tài đã nêu, công trình này tập trung nghiên cứu bình diện ngữ 
dụng học trong việc giảng dạy tiếng Việt ở trường trung học cơ sở. Ngoài việc 
xác định, phân loại các hướng triển khai giảng dạy bình diện ngữ dụng học 
trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở, chúng tôi còn tiến hành khảo sát 
thực tế giảng dạy bình diện ngữ dụng học ở một số trường trung học cơ sở 
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
 Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phối hợp những phương pháp 
nghiên cứu sau: 
10 
 – Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu xem 
bình diện ngữ dụng học đã được triển khai giảng dạy như thế nào trong sách 
giáo khoa Ngữ văn, từ đó thấy được tính chỉnh thể của vấn đề cần khảo sát. 
 – Phương pháp điều tra xã hội học: Chúng tôi đã thực hiện phương pháp 
này bằng cách phát phiếu thăm dò ý kiến cho giáo viên và học sinh ở một số 
trường trung học cơ sở về vấn đề “Bình diện ngữ dụng học trong việc dạy học 
tiếng Việt ở trường trung học cơ sở”. Trên cơ sở đó, thống kê, xử lí số liệu và 
các thông tin cần thiết về việc giảng dạy vấn đề này ở trường trung học cơ sở 
hiện nay. 
 – Phương pháp phân tích – tổng hợp: Từ các dữ liệu khảo sát, thống kê 
được và các cơ sở lí luận cần thiết, chúng tôi tiến hành phân tích, tổng hợp và 
đánh giá về tình hình giảng dạy các vấn đề liên quan đến ngữ dụng học trong 
sách giáo khoa Ngữ văn bậc trung học cơ sở, từ đó, nêu lên những kiến nghị 
để quá trình giảng dạy vấn đề này đạt được kết quả tốt nhất như mong muốn. 
 – Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để: 
 + So sánh các hướng triển khai giảng dạy các vấn đề liên quan đến ngữ 
dụng học trong sách giáo khoa Ngữ văn, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, 
đánh giá về hiệu quả và hạn chế của từng hướng giảng dạy. 
 + So sánh các ngữ liệu trong quá trình phân tích, đối chiếu việc giảng 
dạy các vấn đề thuộc bình diện ngữ dụng học trong sách giáo khoa Ngữ văn 
mới và một số vấn đề tương đương trong sách giáo khoa Tiếng Việt cũ để 
thấy được những điểm tiến bộ và những chỗ còn hạn chế, cần khắc phục của 
quá trình giảng dạy các vấn đề này trong sách giáo khoa Ngữ văn mới. 
 + So sánh cách giảng dạy bình diện ngữ dụng học trong một số bài của 
sách giáo khoa Ngữ văn với một số bài trong sách giáo khoa của Hàn Quốc và 
Singapore để rút ra kinh nghiệm giảng dạy về lĩnh vực này của các nước có 
nền giáo dục phát triển. 
11 
5. Cấu trúc luận văn 
 Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn gồm 3 chương: 
 Chương 1 trình bày những khái niệm thuộc lĩnh vực ngữ dụng học và lí 
luận giảng dạy ngôn ngữ có liên quan trực tiếp đến đề tài làm cơ sở lí luận 
cho việc nghiên cứu về tầm quan trọng của việc phải dạy ngữ dụng học ở 
trường phổ thông. Ngoài ra, chương 1 còn giới thiệu một cái nhìn tổng quát 
về chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn, tạo cơ sở đi vào tìm hiểu cụ thể 
hơn bình diện ngữ dụng học được giảng dạy trong chương trình mới. 
 Chương 2 xác định trong chương trình và sách giáo khoa mới nội dung nào 
thuộc về ngữ dụng học và tìm hiểu vấn đề ngữ dụng học đã được giảng dạy 
như thế nào. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về việc giảng dạy 
vấn đề này trong sách giáo khoa mới. 
 Chương 3 đưa ra ý kiến