Trong cơ chế thị trường mở như hiện nay, lợi nhuận đã trở thành mục đích kinh doanh, đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu và là đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều vươn tới. Chỉ khi nào có lợi nhuận thì doanh nghiệp mới có điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, nâng cao uy tín và thế lực của mình trên thị trường cũng như không ngừng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì vậy việc xác định đúng đắn lợi nhuận, có biện pháp để nâng cao lợi nhuận, từ đó phân phối sử dụng lợi nhuận hợp lý là một trong những vấn đề thường trực của các doanh nghiệp hiện nay.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác khi chuyển mình sang nền kinh tế thị trường do có sự thay đổi về cơ chế quản lý, công ty cổ phần giầy Hưng Yên đã gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng với sự cố gắng quyết tâm của Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã có những bước chuyển đổi phù hợp để đứng vững và phát triển sản phẩm của mình với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, đảm bảo đời sống cho công nhân, bảo vệ được tài sản, uy tín của công ty trong thương trường và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Để tiếp tục duy trì và nâng cao lợi nhuận, đòi hỏi công ty phải thiết lập kế hoạch, định hướng phát triển và đề ra các biện pháp cụ thể phù hợp với điều kiện công ty và thích ứng với thị trường.
83 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận - Thực trạng và giải pháp nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần giầy Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cơ chế thị trường mở như hiện nay, lợi nhuận đã trở thành mục đích kinh doanh, đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu và là đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều vươn tới. Chỉ khi nào có lợi nhuận thì doanh nghiệp mới có điều kiện tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, nâng cao uy tín và thế lực của mình trên thị trường cũng như không ngừng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì vậy việc xác định đúng đắn lợi nhuận, có biện pháp để nâng cao lợi nhuận, từ đó phân phối sử dụng lợi nhuận hợp lý là một trong những vấn đề thường trực của các doanh nghiệp hiện nay.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác khi chuyển mình sang nền kinh tế thị trường do có sự thay đổi về cơ chế quản lý, công ty cổ phần giầy Hưng Yên đã gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng với sự cố gắng quyết tâm của Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã có những bước chuyển đổi phù hợp để đứng vững và phát triển sản phẩm của mình với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, đảm bảo đời sống cho công nhân, bảo vệ được tài sản, uy tín của công ty trong thương trường và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Để tiếp tục duy trì và nâng cao lợi nhuận, đòi hỏi công ty phải thiết lập kế hoạch, định hướng phát triển và đề ra các biện pháp cụ thể phù hợp với điều kiện công ty và thích ứng với thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận và phân phối lợi nhuận đối với sự lớn mạnh của doanh nghiệp, với những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường cùng với thực tế tìm hiểu tại công ty cổ phần giầy Hưng Yên, hơn nữa được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thanh Huyền và các cô chú phòng Tài chính - Kế toán, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài “Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận - thực trạng và giải pháp nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần giầy Hưng Yên” để làm chuyên đề tốt nghiệp với mục đích làm sáng tỏ bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, đánh giá khái quát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến việc xác định, thực hiện lợi nhuận của công ty và thực tế tình hình lợi nhuận, công tác phân phối lợi nhuận của công ty cổ phần giầy Hưng Yên.
Phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề một cách khoa học trong sự vận động thống nhất của một tổng thể vật chất cùng với sự tác động khách quan của các yếu tố bên ngoài lên chung. Một số phương pháp cụ thể: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích,…
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, em xin được trình bày thành 3 chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận trong các doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình lợi nhuận và công tác phân phối lợi nhuận tại công ty cổ phần giầy Hưng Yên
Chương III: Một số biện pháp góp phần nâng cao lợi nhuận và phân phối lợi nhuận hợp lý tại công ty cổ phần giầy Hưng Yên
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN TRONG
DOANH NGHIỆP
I. LỢI NHUẬN, KẾT CẤU LỢI NHUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm lợi nhuận
Mỗi chế độ xã hội, mỗi giai đoạn lịch sử, lợi nhuận được hiểu theo những cách khác nhau. Đó là đề tài tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế. Từ những giai đoạn đầu sơ khai của nền kinh tế hàng hoḠcho đến khi nền kinh tế thị trường phát triển ở giai đoạn cao, sản xuất, trao đổi hàng hoá trên thị trường chịu sự tác động chủ yếu của quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Phương thức sản xuất phong kiến tan rã chuyển sang phương thức sản xuất TBCN, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển thì lợi nhuận luôn giữ một vai trò quan trọng, là mục đích mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều hướng tới, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Như ta đã biết, trong nền kinh tế trọng thương thì lợi nhuận được hiểu là do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua rẻ bán đắt mà có. Có thể nói, đây là một cách hiểu sơ khai nhất về lợi nhuận, sự hạn chế và cách hiểu bản chất lợi nhuận do họ chưa biết đến nguồn gốc sinh ra lợi nhuận. Dựa vào quan niệm về lợi nhuận như trên, những đề xuất trong chính sách của họ đều thiên về tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Đây còn là thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất TBCN, nền kinh tế giản đơn chuyển sang nền kinh tế thị trường và chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản.
Trong khi đó, quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông cho rằng lợi nhuận có được là do tiết kiệm chi phí mà có còn lưu thông không tạo ra gì cả. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, điều đó cho thấy được sự hạn chế về mặt xã hội cũng như mặt lý luận trong quá trình nhận thức lợi nhuận về học thuyết và phân tích kinh tế.
Đến thời kỳ C.Marx, ông đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị. C.Marx là người đã phân chia thời gian lao động của người công nhân thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư. Trong thời gian lao động tất yếu người lao động sáng tạo ra sản phẩm cho mình còn trong thời gian lao động thặng dư người lao động sáng tạo ra sản phẩm thặng dư và bị nhà tư bản chiếm đoạt và gọi là giá trị thặng dư. Nếu gọi giá trị sản phẩm là C + V + m
Trong đó:
C: Chi phí nhà sản xuất bỏ ra để mua TLSX
V: Chi phí thuê nhân công
m: Giá trị thặng dư
Thì giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài tiền mua sức lao động và do người công nhân làm thuê sáng tạo ra.Như vậy, trong quá trình sản xuất, sức lao động sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn phần tiền công lao động, phần dôi ra là giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, đối với nhà tư bản thì họ lấy kết quả tiền thu bán hàng so sánh với chi phí sản xuất đã bỏ ra về tư liệu sản xuất, tiền thuê nhân công và phần dôi ra gọi là lợi nhuận.
Như vậy khái niệm lợi nhuận gắn liền với khái niệm chi phí sản xuất. Do đó, C.Marx cho rằng, lợi nhuận xét về bản chất là một bộ phận của giá trị thặng dư do người lao động tạo ra và nó chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư mà thôi.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là mục tiêu không thể thiếu ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Dưới góc độ tài chính, lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp có thể thấy lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, để xác định lợi nhuận thu được trong một thời kỳ nhất định người ta căn cứ vào hai yếu tố:
- Thu nhập phát sinh trong một thời kỳ nhất định.
- Chi phí phát sinh để đem lại thu nhập trong thời kỳ đó, hay nói cách khác chỉ những chi phí phân bổ cho các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh đã thực hiện trong kỳ.
Công thức xác định lợi nhuận:
Lợi nhuận
=
Tổng thu nhập
-
Tổng chi phí
Đối với các doanh nghiệp, thu nhập chủ yếu là doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Doanh thu bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ là biểu hiện bằng tiền giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp cho thị trường trong một thời kỳ nhất định sau khi trừ đi các khoản giảm trừ như: chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại; cộng thêm phần trợ giá, phụ thu, phụ trội khi thực hiện việc cung cấp hàng hóa dịch vụ. Thời điểm xác định doanh thu là khi người mua chấp nhận thanh toán, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa.
Chi phí là khoản tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để có được thu nhập đó. Trong tổng chi phí, chiếm tỷ trọng lớn nhất là chi phí kinh doanh, ngoài ra các khoản thuế gián thu được coi là một khoản chi phí nói chung mà doanh nghiệp phải nộp cho Ngân sách Nhà nước để được quyền tự do hoạt động trong hành lang mà pháp luật đó bảo hộ.
Như vậy, để có được lợi nhuận thì toàn bộ doanh thu của doanh nghiệp thực hiện được trong kỳ phải đủ bù đắp chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra và có lãi.
1.2. Kết cấu lợi nhuận
Ngày nay, hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp đều phát triển và mở rộng không ngừng trong khuôn khổ hành lang pháp lý của Nhà nước. Các cơ chế chính sách của Nhà nước đều nhằm mục đích khuyến khích sự phát triển đầu tư của doanh nghiệp trong nước cũng như ngoài nước. Do đó phạm vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế đều được mở rộng, các doanh nghiệp có thể đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, đa dạng hoá qui mô hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, lợi nhuận thu được từ nhiều hoạt động khác nhau, theo chế độ hiện hành ở nước ta lợi nhuận trong doanh nghiệp có 2 loại sau:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
- Lợi nhuận từ hoạt động khác
1.2.1. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh trừ đi chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động đầu tư vốn nhằm tìm kiếm lợi nhuận theo những mục tiêu đã được xác định sẵn. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm hai hoạt động:
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ: Theo phân công lao động xã hội, chức năng chủ yếu của kinh doanh thương mại là mua bán trao đổi hàng hóa, cung cấp các dịch vụ nhằm đưa hàng hóa từ sản xuất đến tiêu dùng. Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ được hình thành từ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động đầu tư tài chính. Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như: mua bán trái phiếu, cổ phiếu; góp vốn liên doanh liên kết; cho thuê tài sản; lãi tiền gửi, lãi cho vay thuộc nguồn vốn kinh doanh… Các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này góp phần làm tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.2. Lợi nhuận từ hoạt động khác
Lợi nhuận từ hoạt động khác: là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí của các hoạt động khác và thuế phải nộp theo quy định (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp). Đó là các khoản lãi thu được từ các hoạt động riêng biệt khác ngoài những hoạt động nêu trên. Những khoản lãi này phát sinh không thường xuyên, doanh nghiệp không dự kiến trước hoặc có dự kiến trước nhưng ít có khả năng thực hiện được. Lợi nhuân khác thường bao gồm: thu từ các khoản phải trả không xác định được chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt bỏ, các khoản lãi từ việc bán vật tư tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt mất mát, lãi thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định; tiền được phạt, được bồi thường…
1.3. Vai trò của lợi nhuận
Hiện nay và hơn bao giờ hết lợi nhuận đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Lợi nhuận không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp, với người lao động mà với cả toàn xã hội. Để thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của lợi nhuận ta xem xét vai trò của nó đối với từng đối tượng sau:
- Đối với nền sản xuất xã hội
Lợi nhuận là tiền đề tái sản xuất mở rộng của toàn xã hội vì lợi nhuận là nguồn tích luỹ xã hội không có tích luỹ không có tái sản xuất mở rộng và không có sự phát triển của toàn xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải đem lại lợi nhuận ngày càng cao để phục vụ tái sản xuất mở rộng xã hội và bản thân doanh nghiệp.
- Đối với ngân sách Nhà nước:
Lợi nhuận là nguồn thu đáng kể cho ngân sách quốc gia thông qua việc thu thuế thu nhập doanh nghiệp từ các tổ chức kinh tế. Ngân sách Nhà nước có nguồn thu để đầu tư vào kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh duy trì bộ máy quản lý hành chính, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân và giúp đỡ các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người có khó khăn…
- Đối với người lao động
Sức lao động là một trong ba yếu tố không thể thiếu của quá trình kinh doanh, vì vậy để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách liên tục và có hiệu quả ngày càng cao thì đòi hỏi doanh nghiệp cần phải quan tâm đến người lao động một cách thoả đáng. Ngoài việc nâng tiền lương thì nguồn cơ bản để doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm của mình đến người lao động là sử dụng quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trích lập các quỹ bắt buộc như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính… sẽ được trích lập các quỹ sau: Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi. Thông qua sự vận động của các quỹ này, doanh nghiệp tạo điều kiện để đảm bảo và cải thiện đời sống vật chất lẫn tinh thần cho người lao động. Các quỹ này góp phần đảm bảo lợi ích người lao động cũng như kích thích tinh thần hăng say lao động của người công nhân.
- Đối với doanh nghiệp
Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa trong khuôn khổ của pháp luật.
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì nguồn chủ yếu cho các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính…đều được lấy từ lợi nhuận. Các quỹ này doanh nghiệp có thể bổ sung cho vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất kinh doanh đòi hỏi. Nhờ có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có nguồn để đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng lực sản xuất, hoàn thiện sản phẩm, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh hàng hoá trong doanh nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá khỏi sự thua thiệt.
Như vậy, lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của một doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Phấn đấu tăng lợi nhuận là một đòi hỏi tất yếu của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, là mục tiêu của các doanh nghiệp.
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp
1.4.1. Tổng mức lợi nhuận
Tổng mức lợi nhuận là một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số lãi sẽ được tạo ra trong năm. Chỉ tiêu này được xác định và tổng hợp theo từng mảng hoạt động hoặc theo từng đơn vị thành viên của DN
Tổng mức lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh, nhưng không vì thế mà coi nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau. Để đánh giá, so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với nhau thì ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, người ta còn phải sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận. Các tỷ suất lợi nhuận thường được sử dụng để đánh giá chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bao gồm:
1.4.2. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
x
100%
trên tổng vốn kinh doanh
Tổng vốn KD bình quân
Hoặc:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
x
100%
trên tổng vốn kinh doanh
Tổng vốn KD bình quân
Vốn kinh doanh bình quân được tính như sau:
=
Vốn kinh doanh
+
Vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh
đầu kỳ
cuối kỳ
bình quân
2
Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn kinh doanh cho biết, cứ 1 đồng vốn sử dụng bình quân trong kỳ ta thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận (trước và sau thuế). Thông qua chỉ tiêu này có thể đánh giá trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
1.4.3. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
=
Tổng lợi nhuận trước thuế
x
100
trên doanh thu
Tổng doanh thu thuần
Hoặc:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
x
100%
trên doanh thu
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận (trước và sau thuế). Công thức trên cho thấy, để tăng tỷ suất lợi nhuận, một mặt phải tăng khối lượng tiêu thụ mặt khác phải đảm bảo chất lượng sản phẩm tiêu thụ. Nếu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu thì tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại.
1.4.4. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí
Tỷ suất lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
x
100%
trên chi phí
Tổng CPKD phân bổ cho hàng đã tiêu thụ trong năm
Nó cho biết cứ 1 đồng chi phí bỏ vào sản xuất sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí càng cao càng tốt. Bởi lẽ mục tiêu của doanh nghiệp là tăng lợi nhuận cao và sử dụng chi phí ở mức thấp nhất. Và chính qua đây, doanh nghiệp có thể biết được lợi thế trong việc tăng giảm chi phí như thế nào là tốt từ đó đề ra các biện pháp quản lý chi phí cho phù hợp.
1.4.5. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Tỷ suất lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận sau thuế
x
100%
trên vốn chủ sở hữu
vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy, cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra trong kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp thấy được hiệu quả của nguồn vốn chủ sở hữu bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp định hướng sản xuất những mặt hàng có doanh lợi cao, đảm bảo sản xuất có hiệu quả. Chỉ tiêu này còn là mối quan tâm của các nhà cung ứng tín dụng và các nhà đầu tư.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LỢI NHUẬN VÀ PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp do đó, nó sẽ chịu ảnh hưởng của tổng hợp các nhân tố kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, xã hội, thị trường trong và ngoài nước. Kết cấu của lợi nhuận khá phức tạp và nó ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Trong đó có những nhân tố thuộc về bên trong chủ quan của doanh nghiệp, có những nhân tố bên ngoài không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Một số nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp như sau
2.1.1. Nhân tố khách quan
2.1.1.1. Các nhân tố về thị trường
* Thị trường và sự cạnh tranh: Chính nhu cầu hàng hoá, dịch vụ của thị trường quyết định lượng cung ứng của doanh nghiệp trên cơ sở xác định quy mô sản xuất tối ưu. Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả đồng thời là một doanh nghiệp có được thị trường tiêu thụ lớn, nhiều tiềm năng. Mục đích của doanh nghiệp là sản xuất hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng để kiếm lời. Bởi vậy mà các doanh nghiệp rất chú trọng đến việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và mở rộng thị trường từ đó mở rộng quy mô kinh doanh thu được lơin nhuận ngày càng nhiều.
Khi có khả năng thanh toán của xã hội với sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm với mức giá có xu hướng tăng lên, nên sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Nhưng khi nhu cầu này giảm xuống thì lượng tiêu thụ sản phẩm giảm đi, mức lợi nhuận doanh nghiệp giảm đi. Như chúng ta có thể thấy, mối quan hệ cung cầu có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Và điều quan trọng ở đây là mỗi loại doanh nghiệp sau khi đã nghiên cứu kỹ về cung cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ mình sản xuất kinh doanh thì phải xác định được một quy mô sản xuất tối ưu, chất lượng hàng hoá, xác định được mức giá phù hợp nhất để đảm bảo cho người bán muốn bán và người mua cũng muốn mua. Từ đó đảm bảo được lợi nhuận tối ưu.
Nói đến thị trường không thể không nói đến yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là một đặc tính tất yếu của nền kinh tế thị trường và có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh tốt sẽ thu hút được khách hàng, chiếm lĩnh được thị trường, đạt lợi nhuận cao. Ngược lại doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh sẽ giảm dần thị phần tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, dẫn đến khả năng không thể tồn tại lâu dài được. Bởi thế, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh trên tất cả các mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Giá cả vật tư, tiền lương đầu vào của doanh n