Ngay từ khi vũtrụ đang còn là một cõi hỗn mang, cùng với tưduy nguyên
thủy còn khá hạn chếcủa loài người thuởkhai thiên lập địa, huyền thoại xuất hiện
nhưmột công cụ đểcon người nhận thức thếgiới và nhận thức chính bản thân
mình. Những luận giải vềgiới tựnhiên vềsau được tập hợp, gìn giữvà truyền tụng
nhưmột hình thức lưu dấu vềgiai đoạn khởi thủy của nhân loại và dân tộc. Ngày
nay, kho tàng các tích truyện dân gian vô cùng quí báu ấy luôn chiếm một vịtrí
quan trọng trong cơtầng văn hóa của mỗi dân tộc. Bất cứmột quốc gia hay một
vùng lãnh thổnào trên thếgiới đều lưu giữcho riêng mình một hệhuyền thoại, có
khi khu biệt, có khi giao thoa với các dân tộc khác, nhưng cho dù có sựgặp gỡ đi
chăng nữa thì những gì thuộc vềbản sắc văn hóa vẫn luôn hiện diện trong các dị
bản.
Khi giải thích vềnguồn gốc của vạn vật, huyền thoại chứa đựng trong mình
đặc trưng của mỗi vùng đất sản sinh ra nó nhưng đồng thời cũng mang dáng dấp của
tưduy nguyên thủy và được xem là tài sản chung của nhân loại. Ngày nay, khi khoa
học kĩthuật không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, những
tưởng một kho thần thoại vĩ đại của nhân loại đã hoàn tất nghĩa vụxa xưa của nó,
chấp nhận lui vềquá vãng, nhưng không, huyền thoại vẫn chứng tỏtầm ảnh hưởng
sâu sắc lên nhiều lĩnh vực quan trọng trong đời sống xãhội. Ngay từkhi xuất hiện,
huyền thoại đã mang trong mình trọng trách thiêng liêng: “là mô hình đầu tiên của
mọi hệtưtưởng, là cái nôi nguyên hợp của nhiều loại hình văn hóa khác nhau –
văn học, nghệthuật, tôn giáo và ởmức độnào đó, cảtriết học, thậm chí cảkhoa
học”[39, tr. xiv]. Chính vì vậy, bất kì một hiện tượng nào của cuộc sống thường
nhật dù nhỏnhặt hay lớn lao đều có thểtìm thấy trong đó sựkết nối với những cội
rễhuyền thoại. Trong công trình nghiên cứu Những huyền thoại[05], Roland
Barthes đã ví huyền thoại nhưlà hệthống kí hiệu thứhai, một siêu ngôn ngữ. Hay
nói cách khác, huyền thoại bao gồm hai hệthống kí hiệu, hệthống này chèn lên hệ
thống kia. Trong đó, hệthống thứnhất chính là mô hình ba thành phần theo lí
thuyết kí hiệu học của nhà ngôn ngữhọc Ferdinand de Saussure: cái biểu đạt – cái
được biểu đạt – kí hiệu(là sựkết hợp của hai yếu tốtrước). Dựa trên mô hình này,
Barthes đã phát triển lên thành một hệthống kép, trong đó yếu tốkết thúc của hệ
thống thứnhất chính là yếu tốbắt đầu cho hệthống thứhai. Khi ấy, cái biểu đạt của
huyền thoại vừa là nghĩa vừa là hình thức và “với tưcách là tổng các kí hiệu ngôn
ngữ, nghĩa của huyền thoại có giá trị đặc thù, nó thuộc vềmột câu chuyện” [05, tr.
303] chứkhông đơn thuần là nghĩa biểu đạt của các kí hiệu riêng rẽ. Với tưcách là
một hệthống kíhiệu, một thứsiêu ngôn ngữ, huyền thoại hiện diện ởkhắp mọi nơi.
Thậm chí ngày nay ởnhiều nơi trên thếgiới đâu đó vẫn còn tồn tại những tộc người
sống biệt lập với xã hội bên ngoài và lối tưduy nguyên thủy vẫn chi phối hành vi,
cách ứng xửcủa họmột cách sâu sắc.
138 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1867 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Người yêu dấu (Beloved) của Foni morrison dưới góc nhìn huyền thoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________________
Đường Thị Thùy Trâm
“NGƯỜI YÊU DẤU” (BELOVED)
CỦA TONI MORRISON
DƯỚI GÓC NHÌN HUYỀN THOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________________
Đường Thị Thùy Trâm
“NGƯỜI YÊU DẤU” (BELOVED)
CỦA TONI MORRISON
DƯỚI GÓC NHÌN HUYỀN THOẠI
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1 . Huyền thoại và vai trò của huyền thoại trong sáng tác văn học
Ngay từ khi vũ trụ đang còn là một cõi hỗn mang, cùng với tư duy nguyên
thủy còn khá hạn chế của loài người thuở khai thiên lập địa, huyền thoại xuất hiện
như một công cụ để con người nhận thức thế giới và nhận thức chính bản thân
mình. Những luận giải về giới tự nhiên về sau được tập hợp, gìn giữ và truyền tụng
như một hình thức lưu dấu về giai đoạn khởi thủy của nhân loại và dân tộc. Ngày
nay, kho tàng các tích truyện dân gian vô cùng quí báu ấy luôn chiếm một vị trí
quan trọng trong cơ tầng văn hóa của mỗi dân tộc. Bất cứ một quốc gia hay một
vùng lãnh thổ nào trên thế giới đều lưu giữ cho riêng mình một hệ huyền thoại, có
khi khu biệt, có khi giao thoa với các dân tộc khác, nhưng cho dù có sự gặp gỡ đi
chăng nữa thì những gì thuộc về bản sắc văn hóa vẫn luôn hiện diện trong các dị
bản.
Khi giải thích về nguồn gốc của vạn vật, huyền thoại chứa đựng trong mình
đặc trưng của mỗi vùng đất sản sinh ra nó nhưng đồng thời cũng mang dáng dấp của
tư duy nguyên thủy và được xem là tài sản chung của nhân loại. Ngày nay, khi khoa
học kĩ thuật không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, những
tưởng một kho thần thoại vĩ đại của nhân loại đã hoàn tất nghĩa vụ xa xưa của nó,
chấp nhận lui về quá vãng, nhưng không, huyền thoại vẫn chứng tỏ tầm ảnh hưởng
sâu sắc lên nhiều lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội. Ngay từ khi xuất hiện,
huyền thoại đã mang trong mình trọng trách thiêng liêng: “là mô hình đầu tiên của
mọi hệ tư tưởng, là cái nôi nguyên hợp của nhiều loại hình văn hóa khác nhau –
văn học, nghệ thuật, tôn giáo và ở mức độ nào đó, cả triết học, thậm chí cả khoa
học” [39, tr. xiv]. Chính vì vậy, bất kì một hiện tượng nào của cuộc sống thường
nhật dù nhỏ nhặt hay lớn lao đều có thể tìm thấy trong đó sự kết nối với những cội
rễ huyền thoại. Trong công trình nghiên cứu Những huyền thoại [05], Roland
Barthes đã ví huyền thoại như là hệ thống kí hiệu thứ hai, một siêu ngôn ngữ. Hay
nói cách khác, huyền thoại bao gồm hai hệ thống kí hiệu, hệ thống này chèn lên hệ
thống kia. Trong đó, hệ thống thứ nhất chính là mô hình ba thành phần theo lí
thuyết kí hiệu học của nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure: cái biểu đạt – cái
được biểu đạt – kí hiệu (là sự kết hợp của hai yếu tố trước). Dựa trên mô hình này,
Barthes đã phát triển lên thành một hệ thống kép, trong đó yếu tố kết thúc của hệ
thống thứ nhất chính là yếu tố bắt đầu cho hệ thống thứ hai. Khi ấy, cái biểu đạt của
huyền thoại vừa là nghĩa vừa là hình thức và “với tư cách là tổng các kí hiệu ngôn
ngữ, nghĩa của huyền thoại có giá trị đặc thù, nó thuộc về một câu chuyện” [05, tr.
303] chứ không đơn thuần là nghĩa biểu đạt của các kí hiệu riêng rẽ. Với tư cách là
một hệ thống kí hiệu, một thứ siêu ngôn ngữ, huyền thoại hiện diện ở khắp mọi nơi.
Thậm chí ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới đâu đó vẫn còn tồn tại những tộc người
sống biệt lập với xã hội bên ngoài và lối tư duy nguyên thủy vẫn chi phối hành vi,
cách ứng xử của họ một cách sâu sắc.
Lịch sử loài người trải qua hàng thế kỉ tồn tại và phát triển cùng với sự đồng
hành của văn học nghệ thuật. Là một hình thái ý thức của huyền thoại, văn học cũng
không nằm ngoài trường lực tác động của “cái nôi nguyên hợp” này. Có thể nói
trong bất kì một thể loại văn học nào, từ huyền thoại (hay thần thoại – theo cách gọi
thường gặp), sử thi đến truyện cổ tích hay thơ ca,… đều thấp thoáng trong đó các
tích truyện huyền thoại. Điều này đã được Meletinsky – một học giả Xô Viết nổi
tiếng về folklore học và kí hiệu học - chứng minh và khẳng định nhiều lần trong các
công trình nghiên cứu của ông về huyền thoại, ví dụ như: truyện cổ tích là một
mảnh vỡ được “văng ra” từ huyền thoại, hay “truyện cổ tích thoát thai từ huyền
thoại” [39, tr. 355], hoặc “nguồn gốc chủ yếu của việc hình thành các sử thi cổ đại
là các truyện cổ tích – tráng ca (…) và đặc biệt là huyền thoại” [39, tr. 364]. Cùng
với bao thăng trầm của cuộc sống, văn học đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi về
phương pháp sáng tác, hình thành nên những trào lưu văn học khác nhau, bổ sung
và thay thế cho nhau. Nếu như thế kỉ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ của những
sáng tác thuộc trường phái hiện thực chủ nghĩa thì thế kỉ XX lại được chứng kiến sự
lên ngôi của những sáng tác theo khuynh hướng “huyền thoại hóa”. Tiểu thuyết của
J. Joyce, Th. Mann, F. Kafka,… thơ của T. S. Eliot, W. B. Yeats,… kịch của J.
Anouilh, Claudel, Cocteau,… là những ví dụ tiêu biểu. Một cách lặng lẽ, huyền
thoại ngả bóng vào địa hạt sáng tác văn chương như một lẽ tất yếu. Điều này một
lần nữa chứng tỏ sự trường tồn của những giá trị tinh thần được trầm tích qua thời
gian, được đảm bảo bởi một độ lùi lịch sử đáng kể, đủ dài để loại bỏ những gì
không xứng đáng và chưng cất nên những gì tinh túy nhất.
1.2 . Toni Morrison – nhà văn của những thân phận nô lệ cùng khổ
Hòa vào khuynh hướng huyền thoại hóa trong sáng tác văn học thế kỉ XX là
một nữ văn sĩ mà cho đến nay sáng tác của bà vẫn nhận được sự quan tâm sâu rộng
của đông đảo độc giả. Đó là những trang tiểu thuyết làm dấy lên trong lòng người
đọc những trạng thái xúc cảm trái ngược: vừa giận giữ vừa thương xót, vừa kinh hãi
nhưng cũng đầy thán phục, bàng hoàng mà lại cảm thông vô hạn,… Toni Morrison
đã dành trọn cuộc hành trình trên trang viết để phơi bày một hiện thực bấy lâu hoặc
bị phớt lờ (bởi những người Mỹ da trắng) hoặc cố tình trốn chạy (bởi những người
Mỹ gốc Phi) – đó là chế độ nô lệ (Slavery) và nạn phân biệt chủng tộc
(Apartheid) khắc nghiệt kéo dài hàng mấy trăm năm (1619 – 1865) trên đất Mỹ.
Cùng các nhà văn Mĩ gốc Phi khác, Morrison sử dụng huyền thoại (huyền thoại Hi
Lạp, huyền thoại châu Phi…) trong các tác phẩm của mình với ý nghĩa mang những
giá trị văn hóa của tổ tiên đến gần hơn với các thế hệ hậu duệ và đồng thời cũng gần
hơn với cả những ai đã cố tình đánh cắp nó.
Toni Morrison, tên khai sinh là Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng
2 năm 1931. Bút danh “Toni” được hình thành trong những năm tháng học đại học
bởi những người bạn cùng lớp của bà, còn “Morrison” được lấy theo họ của người
chồng đầu tiên gốc Jamaika. Sinh trưởng trong một gia đình người Mỹ gốc Phi
(African – American hoặc Afro – American) nên ngay từ nhỏ, cô bé Chloe đã sớm
cảm nhận được sự bất bình đẳng trong xã hội Mỹ. Mặc dù không trực tiếp hứng
chịu sự khắc nghiệt của chế độ nô lệ, hơn nữa nạn phân biệt chủng tộc đến thế hệ
của nhà văn cũng đã giảm đi phần nào nhưng những gì được hấp thu từ thời niên
thiếu vẫn tác động không nhỏ đến trực cảm sáng tác của bà sau này. Ông bà ngoại
của tác giả vốn là những người da đen di cư từ Alabama (Kentucky) đến Ohio (bối
cảnh chính của tiểu thuyết Người yêu dấu) vào năm 1912. Hơn ai hết, họ vô cùng
thấu hiểu nỗi cùng cực của cuộc sống nô lệ, sự nghèo đói và thái độ kì thị của
những người da trắng đối với cư dân da màu. Bố của tác giả là một nông dân
chuyên trồng hoa màu nhưng do không chịu được sự áp chế chủng tộc của tiểu bang
Georgia nên phải chạy lên mạn Bắc. Vốn là một tiểu bang nằm ở phía Bắc Hoa Kì,
Ohio được hình thành bởi những người dân nhập cư da màu đa sắc tộc đổ về từ
khắp nơi trên thế giới. Thị trấn Lorain - nơi nhà văn sinh sống - cũng mang những
đặc điểm văn hóa tương tự. Ở một đất nước được mệnh danh là Tân Thế giới, là
miền đất hứa như Hoa Kì, chế độ nô lệ và nạn phân biệt chủng tộc mặc dù trên danh
nghĩa đã được chấm dứt từ lâu nhưng kì thực thì những hậu quả mà nó để lại cho
đến nay vẫn chưa thể gột sạch. Luật pháp có thể khống chế nạn bạo hành và sự bất
công, thời gian có thể xoa dịu những vết thương trong quá khứ nhưng tư tưởng kì
thị trong cộng đồng da trắng cũng như những chấn thương tinh thần mà người da
màu phải gánh chịu thì không thể biến mất trong chốc lát được. Những nô lệ da đen
– đối trọng chủ yếu của người Mĩ da trắng trong tư tưởng phân biệt chủng tộc – bị
cho là nguyên nhân chủ yếu khiến cho dòng máu của những người Mĩ da trắng –
những con người ưu tú “được Chúa lựa chọn” – bị lai tạp. Và cho đến tận bây giờ, ở
một xã hội hiện đại vào bậc nhất như Mĩ, những tư tưởng lạc hậu trên vẫn còn tồn
tại.
Tiểu thuyết gia Toni Morrison bộc lộ niềm yêu thích văn chương từ khá sớm.
Thuở nhỏ, bà chăm chỉ học tiếng Latinh, say mê đọc tiểu thuyết của Gustave
Flaubert, Jane Austen, L. Tonxtoi,... Tốt nghiệp trung học loại ưu, Toni Morrison
học ngành khoa học xã hội tại đại học Howard – nơi chuyên giáo dục những sinh
viên da đen. Hoàn tất bậc đại học vào năm 1953, bà theo học cao học tại Đại học
Cornell chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ Anh, sau đó là quãng thời gian chuyên tâm
tìm hiểu các tác phẩm của Virginia Woolf và William Faulker – hai tác giả có tầm
ảnh hưởng không nhỏ trong sáng tác của nhà văn sau này. Bên cạnh đó, bà cũng
từng theo học những bậc thầy của phong trào bảo vệ người da màu như: nhà thơ
Sterling Brown, nhà triết học Alain Blocke,… Chính vì sớm được hấp thu một nền
văn hóa, giáo dục luôn có sự gắn bó mật thiết với những vấn đề khá nhạy cảm như
chủng tộc, giai cấp, dân quyền, nhân quyền… nên ngay từ những năm tháng tuổi
trẻ, Toni Morrison đã tích cực tham gia vào các phong trào tranh đấu cho Dân
quyền của người da đen. Ở người phụ nữ này dường như luôn thường trực một xúc
cảm mạnh mẽ về những gì thuộc về ý thức bản ngã. Chính vì vậy, việc lên tiếng
khẳng định và bảo vệ giá trị tồn tại của giống nòi như một bản năng sẵn có nơi bà,
là hệ quả tất yếu của những gì tuổi thơ được thụ cảm. Hiện nay, bà là “Giáo sư phụ
trách bộ môn Xã hội học” tại Đại học Princeton, Hoa Kì.
Toni Morrison đến với văn chương như một sự bày tỏ những suy nghĩ của
một người dân yếm thế trên đất Mĩ, một sự phơi bày những góc khuất của xã hội
hiện đại, một tiếng nói mạnh mẽ vì quyền bình đẳng, một hành động khơi gợi lại
những gì cố tình bị lãng quên trong quá khứ. Tiểu thuyết của bà là những trang viết
tìm về quá khứ được sáng tác hướng về số phận của cộng đồng nô lệ da đen cùng
khổ. Mắt biếc (The Bluest Eye) – tác phẩm đầu tiên được hoàn thành vào năm 1970
kể về câu chuyện của Pecola – cô bé da đen luôn cầu xin Thượng Đế cho mình có
được một đôi mắt xanh biếc – vốn là biểu tượng về vẻ đẹp của người Mĩ da trắng.
Rồi lần lượt những tác phẩm sau đó như Sula (1973), Bài ca của Solomon (Song of
Solomon – 1977), Tar Baby (1981), Người yêu dấu (Beloved - 1987), Jazz (1992),
Thiên đường (Paradise – 1998), Tình yêu (Love – 2003), và cuốn tiểu thuyết gần
đây nhất là A Mercy (tạm dịch là Lòng khoan dung, xuất bản vào tháng 11 – 2008)
đều là những xúc cảm về cuộc đời của người nô lệ da đen trên đất Mỹ. Trong số
chín tiểu thuyết vừa nêu thì tác phẩm được phần lớn độc giả đánh giá là nổi bật hơn
cả, “thành công và tinh tế hơn cả” là tiểu thuyết Người yêu dấu. Đó là
lịch sử thân phận cá nhân tải nặng cả một quá khứ tập thể. Một bản thánh ca
dâng tặng tình yêu, tình mẫu tử. Một cuốn tiểu thuyết của lầm lỗi và lòng
khoan dung, của sự lãng quên và nỗi ám ảnh, của cái chết như sự hi sinh tất
yếu và khát vọng sống mãnh liệt, của những giày vò đau đớn đối với tâm hồn
và ngọn lửa yêu thương bất diệt.
(Lời tựa của tiểu thuyết Beloved [95] được xuất bản ở Việt Nam với tên gọi
Thương [42]).
Thuở nhỏ, Toni Morrison chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nguồn cội văn hóa
châu Phi, từ truyền thống gia đình, bên cạnh đó là những câu chuyện kể nhuốm màu
huyền thoại của cha mẹ. Khi trưởng thành, trên cuộc hành trình đến với văn học,
nhà văn lại được tiếp cận với khuynh hướng huyền thoại hóa trong văn học của thế
kỉ XX, đồng thời tự nghiên cứu và chịu ảnh hưởng khá rõ nét về phương pháp sáng
tác của hai tác giả Woolf và Faulker. Những nguồn lực khách quan trên đã đóng vai
trò không nhỏ trong việc hình thành nên phong cách sáng tác của tác giả: chú trọng
khai thác đề tài về người nô lệ da đen và những tàn tích của một thời kì xưa cũ dưới
ánh sáng của huyền thoại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiện nay, ở Việt Nam đang lưu hành hai bản dịch của tiểu thuyết Beloved.
Bản dịch thứ nhất có tên gọi Người yêu dấu được xuất bản vào năm 2007 của hai
dịch giả Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thanh Tâm (nhà xuất bản Văn Học). Bản dịch thứ
hai là Thương, xuất bản vào năm 2008 do tác giả Hồ như dịch, nhà xuất bản Phụ
Nữ ấn hành. Vào thời điểm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Người yêu dấu
(Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại” thì chỉ mới xuất hiện
duy nhất một bản dịch. Chính vì vậy, chúng tôi đã giải quyết vấn đề trong sự đối
sánh giữa hai văn bản: nguyên tác bằng tiếng Anh – Beloved và bản chuyển ngữ
sang tiếng Việt với tên gọi Người yêu dấu [41]. Để thuận tiện về vấn đề ngôn ngữ
cũng như giúp cho những ai quan tâm dễ dàng hơn khi tìm hiểu cả bản dịch lẫn
nguyên tác, chúng tôi đã lấy tên đề tài ở cả hai ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Anh.
Khi bản dịch của tác giả Hồ Như xuất hiện, có lẽ do đã có sự tham khảo và đối sánh
với bản dịch truớc nên trong lần chuyển ngữ này, chúng tôi cũng nhận thấy những
ưu trội của bản dịch sau. Chính vì vậy, chúng tôi xem đây là tài liệu tham khảo bổ
sung để hiểu hơn về nguyên tác. Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi cũng
tìm hiểu thêm những tiểu thuyết khác của Toni Morrison để nắm bắt tư tưởng xuyên
suốt trong các sáng tác của bà.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Ở thể loại tiểu thuyết, mỗi tác phẩm của Toni Morrison đều có một tầm ảnh
hưởng nhất định đối với độc giả. Đó đều là những tác phẩm “tuyệt đẹp và gắn bó
máu thịt với cuộc sống và con người” (đánh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển). Tuy
vậy, cho đến thời điểm này, trong số các sáng tác của bà thì sức lan tỏa rộng lớn của
Người yêu dấu1 là điều không ai có thể phủ nhận. Với Người yêu dấu, Toni
Morrison một lần nữa khẳng định vai trò của thủ pháp huyền thoại hóa như là một
thủ pháp nghệ thuật đắc dụng và xuyên suốt, góp phần quan trọng tạo nên tầm ảnh
hưởng cho những tác phẩm của bà. Nghiên cứu “yếu tố huyền thoại” trong tiểu
thuyết Người yêu dấu, chúng tôi sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Giới thuyết về các khái niệm trung tâm như: huyền thoại, cổ mẫu, hiến tế,
tái sinh,… nhằm tạo tiền đề cho việc thuyết minh những nội dung sau đó một cách
hiệu quả.
- Sự tái hiện đầy ám ảnh của “những hình tượng mang tính hằng số” (cách
gọi của C. Jung) hay là những “cổ mẫu” (archétype).
- Bàn về “nguyên lý tính Mẫu” trong tác phẩm. “Tính Mẫu” thể hiện qua
hình tượng của những người phụ nữ bất hạnh nhưng vĩ đại như Baby Suggs, Sethe,
và trong vô vàn những nhân vật hữu danh cũng như vô danh khác. Nội dung này
được triển khai trong sự đối sánh với huyền tích về vai trò của người phụ nữ trong
thần thoại cổ xưa.
- Sự hóa thân của Beloved, ý nghĩa ẩn giấu sau câu chuyện kinh hoàng về
quá trình “hiến tế” và “tái sinh” của cô, các tầng nghĩa của “tái sinh” và “hiến tế”
đối với các nhân vật trong tác phẩm nói riêng và của cả dân tộc châu Phi trên đất Mĩ
nói chung.
1 Kể từ trang này, để tránh nhầm lẫn, chúng tôi sẽ thống nhất cách viết như sau: Người yêu dấu – chỉ tên tác
phẩm và Beloved – chỉ tên nhân vật.
- Cuộc hành trình tìm kiếm tự do của mỗi cá nhân trong Người yêu dấu. Để
thoát khỏi kiếp nô lệ, họ đã phải chấp nhận đánh đổi không ít và những chấn thương
về tinh thần sau này vẫn không thôi giày vò, ám ảnh họ. Sự “tái sinh” liệu có được
như mong muốn sau khi những người nô lệ da đen đã chấp nhận “hiến tế” quá
nhiều?
…
Tất cả những vấn đề trên đã tạo nên không khí huyền thoại cho một tác phẩm
mang hơi thở hiện đại. Người yêu dấu là sự kết hợp giữa cái thường nhật và cái đột
hiện, hiện thực và siêu thực trộn lẫn nhưng lại khiến độc giả chấp nhận như một
điều tất yếu. Đặc điểm này cũng giúp khẳng định giá trị của tác phẩm trong việc
phơi bày một hiện thực đau lòng vốn đã ăn sâu bén rễ trong lòng xã hội Mĩ hàng
mấy thế kỉ. Đó là chế độ nô lệ (Slavery) và nạn kì thị chủng tộc (Apactheid). Bên
cạnh đó thủ pháp huyền thoại hóa có tác dụng nâng cao tầm vóc của tác phẩm khiến
cho những vấn đề được phản ánh trở nên chân thực như nó vốn dĩ, bởi lẽ không ai
có thể thay đổi được những gì đã thuộc về huyền thoại. Người yêu dấu kể một câu
chuyện về lịch sử nhưng lại không gợi nên trong lòng độc giả cảm giác đang đọc
một bản trần thuật khô cứng mà như đang chứng kiến một câu chuyện đầy xúc cảm,
giàu tính nhân văn và giá trị hiện thực. Trong quá trình tìm hiểu đề tài, vì một số
điều kiện khách quan và chủ quan chi phối nên ở luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu
khai thác những biểu hiện của phương pháp sáng tác theo khuynh hướng huyền
thoại hóa trong tiểu thuyết Người yêu dấu – một dấu ấn quan trọng trong toàn bộ
sự nghiệp sáng tác của Toni Morrison, là tác phẩm giúp bà đạt giải thưởng Pulitzer
về sáng tác tiểu thuyết vào năm 1988, đồng thời cũng là tiền đề cho giải thưởng vô
cùng danh giá sau này, giải Nobel văn học năm 1993 như một sự ghi nhận những
đóng góp của tác giả trong công cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng của người da
màu trên đất Mĩ. Tiểu thuyết Người yêu dấu đã được chuyển thể thành phim vào
năm 1998.
3. Lịch sử vấn đề
Trong phần này chúng tôi sẽ điểm qua những công trình nghiên cứu, những
đánh giá, nhận định của các tác giả trong và ngoài nước xung quanh tác phẩm
Người yêu dấu và ít nhiều có liên quan đến phạm vi của đề tài: “Người yêu dấu
(Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại”. Chúng tôi sẽ không
giới thuyết về các khái niệm cũng như bàn về nội dung của tác phẩm mà những vấn
đề này sẽ được đề cập đến trong phần nội dung chính.
Hiện nay, Toni Morrion là một trong những tác giả nhận được sự quan tâm
sâu sắc của các nhà lý luận, phê bình văn học cũng như của đông đảo độc giả trên
thế giới. Có lẽ không quá lời khi cho rằng bà là một nhà văn khá đặc biệt so với
những nhà văn người Mĩ khác cùng thời. Toni Morrison là một tiểu thuyết gia Mĩ
gốc Phi. Chính vì vậy mà những gì được bà lựa chọn để phản ánh trong tác phẩm
hầu hết đều liên quan đến các khía cạnh khá nhạy cảm của cộng đồng người dân
nhập cư da đen trên đất Mĩ. Chúng chạm đến nỗi đau lâu nay vẫn còn âm ỉ trong họ.
Tự do và nô lệ, sự đối trọng giữa (người Mĩ) da trắng và (người Mĩ) da không trắng
hay nạn phân biệt chủng tộc, chứng bệnh tự căm ghét chính dòng giống mình, sự sợ
hãi khi đối diện với kí ức,… tất cả những vấn đề trên đều thuộc về một góc khuất
vẫn nằm rất sâu đâu đó trong mỗi một người Mĩ da đen. Và trong tiểu thuyết của
Toni Morrison, những sự thật bị lảng tránh ấy không những đều được chạm đến mà
còn bị khuấy đảo một cách dữ dội. Vì những đề tài mang tính thời sự luôn xuất hiện
trong tiểu thuyết của Toni Morrison nên dù cho chúng có ẩn mình sau những phép
ẩn dụ, những biểu tượng đa nghĩa hay thủ pháp huyền thoại hóa đi nữa thì người
đọc vẫn nhận ra ý nghĩa hiện thực được gửi gắm trong tác phẩm. Trong một bài
phỏng vấn, tác giả của tiểu thuyết Người yếu dấu từng khẳng định “một tác phẩm
nghệ thuật phải mang ý nghĩa chính trị” nên những bài nghiên cứu về tác phẩm của
bà nói chung hoặc tiểu thuyết nói riêng thường hướng vào việc khai thác khía cạnh
này. Về Người yêu dấu, hiện nay, trên thế giới tuy có nhiều hướng tiếp cận khác
nhau nhưng tựu trung đều