Thực hiện chủtrương đổi mới chương trình giáo dục phổthông vềviệc xây
dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa phổthông, đổi mới phương pháp dạy
học, định hướng đổi mới kiểm tra đánh giá môn học (có sửdụng 30-50% trắc
nghiệm khách quan) thì ngành giáo dục đã không ngừng phát triển vềmọi mặt với
mục tiêu và phương châm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học toàn diện nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụcông nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Theo xu hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quảhọc tập của
HS, hiện nay Bộgiáo dục đã có quyết định từnăm học 2006- 2007 sẽtổchức thi tốt
nghiệp trung học phổthông và kì thi tuyển sinh đại học áp dụng hình thức thi trắc
nghiệmkhách quan toàn bộ đối với bộmôn Hóa học. Để đảm bảo tính khách quan,
công bằng, khảthi và hướng quá trình dạy học ngày càng tích cực hơn, đánh giá kết
quảhọc tập của HS cần căn cứvào mục tiêu của chương trình THPT nâng cao,
chuẩn kiến thức, kĩnăng ởmỗi lớp. Muốn vậy, trước tiên phải đổi mới phương
pháp giảng dạy bộmôn cho phù hợp với hình thức thi trắc nghiệm, nhanh chóng
xây dựng bộngân hàng trắc nghiệm và tổchức kiểm tra trắc nghiệm thường xuyên
đểHS làm quen dần. Việc nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi người giáo viên
phải luôn tựtrao dồi kiến thức, nghiên cứu các phương pháp tối ưu nhất, đặc biệt là
các phương pháp giải toán trắc nghiệm nhanh là nhu cầu cấp thiết nhằm truyền đạt
cho HS khối lượng kiến thức cơbản một cách chính xác, khoa học và nhanh chóng
nhất qua đó bồi dưỡng cho HS năng lực tự đánh giá kết quảhọc tập của bản thân,
tựgiác, chủ động tích cực học tập, tựtìm lấy kiến thức cho bản thân, biết vận dụng
sáng tạo, linh hoạt và nhanh nhạy trong mọi tình huống.
Nhằm đáp ứng cho nhu cầu “nóng” vềviệc đổi mới phương pháp kiểm tra
đánh giá trong dạy học hóa học ởtrường phổthông, nhiều tác giả đã cho ra đời các
quyển sách vềbài tập trắc nghiệm. Tuy nhiên, việc hệthống thành phương pháp
giải cụthểcho từng dạng bài cũng nhưviệc xây dựng thành hệthống các bài toán
trắc nghiệm vô cơlà vấn đềtương đối mới mẻ. Chính vì vậy, chúng tôi dã chọn đề
tài: “Thiết kếWebsite vềphương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm khách
quan hóa học vô cơ ởtrường trung học phổthông”nhằm giúp ích cho HS hội
nhập nhanh với xu hướng kiểm tra thi cửdưới hình thức trắc nghiệm, phát triển
năng lực tưduy, khảnăng nhạy bén của HS trong giải quyết bài tập từ đó nâng cao
chất lượng học tập trong thời đại mới.
143 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thiết kế Website về phương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm khách quan hóa học vô cơ ở trường Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Ngọc Xuân
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học Hóa học
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ TỬU
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này đã được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập tại Đại học Sư
phạm Tp.HCM. Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng
Khoa học công nghệ - Sau đại học, Khoa Hóa học trường Đại học Sư phạm
Tp.HCM.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, chân thành đến PGS. TS Trần Thị
Tửu, người hướng dẫn đề tài đã dành nhiều thời gian đọc bản thảo, bổ sung và đóng
góp nhiều ý kiến quý báu trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Trịnh Văn Biều, người Thầy là đã giúp
đỡ, động viên tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn các bạn cùng lớp đã luôn tạo điều kiện giúp đỡ, động
viên nhau trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã động viên, giúp đỡ trong thời gian học tập, nghiên cứu để tác giả có thể
hoàn thành luận văn này.
Nguyễn Thị Ngọc Xuân
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐC : Đối chứng
ĐLBT : Định luật bảo toàn
GV : Giáo viên
Hh : Hỗn hợp
HS : Học sinh
KL : Kim loại
PPGDHH : Phương pháp giảng dạy hóa học
Ptpư : Phương trình phản ứng
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
TNKQ : Trắc nghiệm khách quan
TNTL : Trắc nghiệm tự luận
TSCĐ : Tuyển sinh cao đẳng
TSĐH : Tuyển sinh đại học
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thực hiện chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ thông về việc xây
dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa phổ thông, đổi mới phương pháp dạy
học, định hướng đổi mới kiểm tra đánh giá môn học (có sử dụng 30-50% trắc
nghiệm khách quan) thì ngành giáo dục đã không ngừng phát triển về mọi mặt với
mục tiêu và phương châm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học toàn diện nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Theo xu hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
HS, hiện nay Bộ giáo dục đã có quyết định từ năm học 2006- 2007 sẽ tổ chức thi tốt
nghiệp trung học phổ thông và kì thi tuyển sinh đại học áp dụng hình thức thi trắc
nghiệm khách quan toàn bộ đối với bộ môn Hóa học. Để đảm bảo tính khách quan,
công bằng, khả thi và hướng quá trình dạy học ngày càng tích cực hơn, đánh giá kết
quả học tập của HS cần căn cứ vào mục tiêu của chương trình THPT nâng cao,
chuẩn kiến thức, kĩ năng ở mỗi lớp. Muốn vậy, trước tiên phải đổi mới phương
pháp giảng dạy bộ môn cho phù hợp với hình thức thi trắc nghiệm, nhanh chóng
xây dựng bộ ngân hàng trắc nghiệm và tổ chức kiểm tra trắc nghiệm thường xuyên
để HS làm quen dần. Việc nâng cao chất lượng dạy và học đòi hỏi người giáo viên
phải luôn tự trao dồi kiến thức, nghiên cứu các phương pháp tối ưu nhất, đặc biệt là
các phương pháp giải toán trắc nghiệm nhanh là nhu cầu cấp thiết nhằm truyền đạt
cho HS khối lượng kiến thức cơ bản một cách chính xác, khoa học và nhanh chóng
nhất qua đó bồi dưỡng cho HS năng lực tự đánh giá kết quả học tập của bản thân,
tự giác, chủ động tích cực học tập, tự tìm lấy kiến thức cho bản thân, biết vận dụng
sáng tạo, linh hoạt và nhanh nhạy trong mọi tình huống.
Nhằm đáp ứng cho nhu cầu “nóng” về việc đổi mới phương pháp kiểm tra
đánh giá trong dạy học hóa học ở trường phổ thông, nhiều tác giả đã cho ra đời các
quyển sách về bài tập trắc nghiệm. Tuy nhiên, việc hệ thống thành phương pháp
giải cụ thể cho từng dạng bài cũng như việc xây dựng thành hệ thống các bài toán
trắc nghiệm vô cơ là vấn đề tương đối mới mẻ. Chính vì vậy, chúng tôi dã chọn đề
tài: “Thiết kế Website về phương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm khách
quan hóa học vô cơ ở trường trung học phổ thông” nhằm giúp ích cho HS hội
nhập nhanh với xu hướng kiểm tra thi cử dưới hình thức trắc nghiệm, phát triển
năng lực tư duy, khả năng nhạy bén của HS trong giải quyết bài tập từ đó nâng cao
chất lượng học tập trong thời đại mới.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế Website về phương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm khách
quan hóa học vô cơ ở trường THPT nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập
của HS và hiệu quả dạy học của GV.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
- Nghiên cứu tổng quan về các phần mềm hỗ trợ thiết kế website.
- Đề xuất và hệ thống hóa phương pháp giải các bài tập trắc nghiệm hóa học
vô cơ.
- Thiết kế website về phương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm hóa học
vô cơ gồm các nội dung chính sau:
+ Phương pháp giải nhanh bài toán trắc nghiệm vô cơ;
+ Bài tập trắc nghiệm theo từng chương trong chương trình hóa vô cơ
THPT;
+ Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm hóa vô cơ;
+ Lý thuyết vô cơ;
+ Tài nguyên.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng
của Website trong việc nâng cao kĩ năng giải bài tập trắc nghiệm cho HS.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn hóa học ở trường phổ thông.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Việc thiết kế Website về phương pháp giải nhanh các bài tập trắc nghiệm
khách quan hóa vô cơ ở trường trung học phổ thông.
5. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình Hóa học vô cơ trung học phổ thông.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu hệ thống hóa được các phương pháp giải, vận dụng được để xây dựng
hệ thống bài tập hóa học vô cơ đa dạng và thiết kế website hỗ trợ phương pháp giải
nhanh được thực hiện đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm, tính thẫm mỹ thì sẽ
giúp học sinh có thêm một công cụ tự học đắc lực, giáo viên có thêm nguồn tư liệu
giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
7. Phương pháp và phương tiện nghiên cứu
- Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Phân tích, tổng hợp.
- Sử dụng máy tính và các phần mềm tin học để thiết kế website về phương
pháp giải nhanh các bài toán trắc nghiệm hóa học vô cơ.
- Điều tra thực tiễn.
- Thực nghiệm sư phạm.
- Tổng hợp và xử lý kết quả điều tra, kết quả thực nghiệm sư phạm theo
phương pháp thống kê toán học.
8. Điểm mới của luận văn
- Nghiên cứu và đề xuất các phương pháp giải nhanh các bài toán hóa học vô
cơ.
- Thiết kế website hỗ trợ phương pháp giải nhanh các bài toán trắc nghiệm
hóa vô cơ. Website còn có thêm phần bổ trợ kiến thức giáo khoa, ngân
hàng đề thi trắc nghiệm giúp cho việc tự học của học sinh được tốt hơn.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Theo xu hướng đổi mới kiểm tra thi cử theo hình thức trắc nghiệm khách
quan cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hiện nay trên mạng đã xuất hiện
rất nhiều website viết về trắc nghiệm. Với các trang web như hocmai.vn, onthi.com,
onbai.com,…chúng ta dễ dàng tìm thấy ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm hóa học. Tuy
nhiên, chưa có một trang web nào được kiểm định về chất lượng ngân hàng câu hỏi
cũng như hoàn chỉnh về phương pháp giải nhanh các bài toán trắc nghiệm hóa học.
Hiện nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về trắc nghiệm. Sau đây là một số
luận văn, luận án chuyên ngành hóa học, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học
sư phạm Huế và Đại học sư phạm Vinh.
- Đào Thị Việt Anh (1998), Bước đầu nghiên cứu sử dụng máy vi tính trong
việc kiểm tra kiến thức hóa học phần vô cơ lớp 11 PTTH, Luận văn thạc sỹ
PPGDHH, Trường ĐHSP Hà Nội.
- Lê Danh Bình (1997), Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cho kiểm tra đánh
giá kiến thức kỹ năng hóa học của HS lớp 11, Luận văn thạc sỹ PPGDHH,
Trường ĐHSP Hà Nội.
- Nguyễn Đức Chính (2006), Biên soạn các bài toán hóa học hữu cơ có
phương pháp giải nhanh để làm câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa
chọn, Luận văn thạc sỹ PPGDHH, Trường ĐHSP Hà Nội.
- Hoàng Thị Kiều Dung (1999), Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để
kiểm tra đánh giá kiến thức HS lớp 11 và 12 PTTH, Luận văn thạc sỹ
PPGDHH, Trường ĐHSP Huế.
- Nguyễn Thị Khánh (1998), Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để
kiểm tra kiến thức hóa học 12 PTTH, Luận văn thạc sỹ PPGDHH, Trường
ĐHSP Hà Nội.
- Phạm Thị Tuyết Mai (2003), Sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan và
tự luận trong kiểm tra, đánh giá kiến thức hóa học của HS lớp 12 trường
THPT, Luận văn thạc sỹ PPGDHH, Trường ĐHSP Huế.
- Nguyễn Thị Phương Thúy (2000), Nghiên cứu sử dụng trắc nghiệm trong
kiểm tra đánh giá các kiến thức về kỹ năng thực hành PPGHHH ở các
trường ĐH và CĐSP, Luận văn thạc sỹ PPGDHH, Trường ĐHSP Hà Nội.
Nhìn chung, các đề tài đã nghiên cứu đa phần xây dựng hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm dùng làm ngân hàng câu hỏi. Đề tài của thầy Nguyễn Đức Chính có đề cập
tới phương pháp giải nhanh bài toán trắc nghiệm hóa học hữu cơ, chưa có đề tài nào
nghiên cứu về lĩnh vực vô cơ, nhất là việc xây dựng Website có nội dung hỗ trợ
phương pháp giải nhanh các bài toán trắc nghiệm hóa học vô cơ là hoàn toàn mới
mẻ.
1.2. Cơ sở lí luận về trắc nghiệm khách quan
1.2.1. Khái niệm [11], [15]
Theo nghĩa chữ Hán “trắc” là đo “nghiệm” là suy xét, chứng thực.
Ngày nay, trắc nghiệm được hiểu là là hình thức đặc biệt để thăm dò một số
đặc điểm về năng lực trí tuệ (thông minh, trí nhớ, tưởng tưởng, chú ý) hoặc để kiểm
tra một số kiến thức, kĩ năng của HS thuộc một chương trình nhất định.
TNKQ là phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS bằng hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Trắc nghiệm được gọi là khách quan vì cách
cho điểm là khách quan chứ không chủ quan như TNTL. Có thể coi kết quả chấm
điểm là như nhau không phụ thuộc vào người chấm bài trắc nghiệm đó.
1.2.2. Các hình thức TNKQ
TNKQ được chia làm 4 loại câu hỏi [15], [18]
1.2.2.1. Câu hỏi đúng - sai hoặc có - không
Là hình thức câu trắc nghiệm đơn giản nhất gồm phần câu dẫn là một câu
hỏi, hoặc một nhận định, phần trả lời là 2 lựa chọn nhằm trả lời cho câu hỏi, hoặc
nhận xét về ý kiến nhận định ở phần gốc.
Ví dụ 1: Khoanh tròn vào chữ Đ nếu câu phát biểu đúng, vào chữ S nếu câu đó là
sai:
1. Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất ở trạng thái hóa hợp và
mang điện
Đ S
2. Nguyên tử gồm những hạt có mang điện Đ S
Ví dụ 2: Giả sử rằng một tờ nhật báo loan tin người ta vừa khám phá ra một
nguyên tố mới có khối lượng nguyên tử ở giữa khối lượng nguyên tử Nitơ và Oxi.
Anh chị có tin rằng nguyên tố đó có thực hay không? C K
Loại câu này rất thông dụng vì hình thức đơn giản nhất, dễ soạn và có khả
năng áp dụng rộng rãi nhất. GV có thể soạn đề thi trong một thời gian ngắn. Khuyết
điểm của loại này có độ phân cách (khả năng phân biệt HS giỏi với HS kém) thấp,
vì độ may rủi cao (50%), có độ tin cậy thấp, tính khoa học kém, đề ra thường có
khuynh hướng trích nguyên văn giáo khoa nên khuyến khích thói quen học thuộc
lòng hơn là tìm tòi suy nghĩ.
1.2.2.2. Câu hỏi ghép đôi
Là những câu hỏi có hai dãy thông tin, một bên là các câu hỏi và bên kia là
câu trả lời. Số câu ghép đôi càng nhiều thì xác suất may rủi càng thấp, do đó càng
tăng phần ghép so với phần được ghép thì chất lượng trắc nghiệm càng được nâng
cao.
Loại này thích hợp với câu hỏi sự kiện khả năng nhận biết kiến thức hay những
mối tương quan không thích hợp cho việc áp dụng các kiến thức mang tính nguyên
lý, quy luật và mức đo các khả năng trí thức nâng cao.
Ví dụ: Chọn cấu hình electron ở cột II ghép vào chỗ trống ở cột I cho thích hợp
Cột I
A. N147 có cấu hình electron
B. 3147 N có cấu hình electron
C. Na2311 có cấu hình electron
D. Na2311 có cấu hình electron
Cột II
1. 1s22s22p6
2. 1s22s22p63s1
3. 1s22s22p3
4. 1s22s22p6
5. 1s22s22p5
6. 1s22s1
1.2.2.3. Câu hỏi điền khuyết hay có câu trả lời ngắn
Câu hoặc đoạn câu có 1 khoảng trống để người trả lời bài trắc nghiệm chọn
từ, ngữ thích hợp điền vào chỗ trống đó.
Ví dụ: Hãy viết cấu hình electron đầy đủ cho các nguyên tử có lớp electron ngoài
cùng là:
…………… 2s1 ……………… 2s22p3
…………… 2s22p6 ………………………… 3s23p1
Lợi thế của nó là làm hạn chế sự đoán mò của HS. Họ có cơ hội trình bày
những câu trả lời khác thường phát huy óc sáng tạo. GV dễ soạn câu hỏi thích hợp
với các môn tự nhiên, có thể đánh giá mức hiểu biết về nguyên lý, giải thích các sự
kiện, diễn đạt ý kiến và thái độ của mình đối với vấn đề đặt ra. Tuy nhiên khuyết
điểm chính của loại trắc nghiệm này là việc chấm bài mất nhiều thời gian và giáo
viên thường không đánh giá cao các câu trả lời sáng tạo tuy khác đáp án mà vẫn có
lý.
1.2.2.4. Câu hỏi nhiều lựa chọn
Đây là loại câu trắc nghiệm có ưu điểm hơn cả và được dùng thông dụng
nhất. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn là dạng câu hỏi có nhiều phương án cho trước, thí
sinh chỉ việc chọn một trong các phương án đó. Hiện nay thường dùng 4 đến 5
phương án.
Câu hỏi dạng này thường có hai phần là phần dẫn và phần lựa chọn. Phần
gốc là câu hỏi hay câu bỏ lửng (chưa hoàn tất) phải đặt ra một vấn đề hay đưa ra
một ý tưởng rõ ràng giúp cho thí sinh hiểu rõ câu hỏi trắc nghiệm để chọn câu trả
lời thích hợp. Phần lựa chọn gồm nhiều cách giải đáp trong đó có một phương án
đúng còn lại là “mồi nhữ” hay câu nhiễu.
Ví dụ: Sự sắp xếp các nguyên tố trong bảng HTTH dựa vào
A. hóa trị. B. điện tích hạt nhân.
C. độ âm điện. D. khối lượng nguyên tử.
1.2.3. Cách biên soạn câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn [15]
Lựa chọn kiến thức như các khái niệm cơ bản, các định nghĩa, nguyên tắc,
nguyên lí, định luật…mà HS cần phải biết hoặc hiểu. Thiết kế câu trắc nghiệm xoay
quanh một khái niệm, một kiến thức, một vấn đề, một ý tưởng được trình bày trong
câu dẫn. Toàn bộ các lựa chọn có quan hệ với câu dẫn được xây dựng theo cùng
một phương thức.
Phải đảm bảo chắc chắn để mỗi một câu hỏi trắc nghiệm chỉ có một câu trả
lời đúng. Phải xem xét tất cả các khả năng, tất cả các phương án sao cho chỉ có một
phương án đúng. Sau đây là một số chú ý quan trọng để soạn được câu trắc nghiệm
nhiều lựa chọn tốt:
- Câu chọn phải có cùng quan hệ với câu dẫn.
Ví dụ: Chọn định nghĩa đúng về ion trong các phương án sau:
A. Ion là hạt mang điện.
B. Ion là nguyên tử mang điện.
C. Ion là nguyên tử hay nhóm nguyên tử mang điện.
D. Ion là thành phần của chất điện li.
Đáp án là câu C. Câu D sai vì có thể hiểu thành phần ở đây là thành phần
nguyên tố, ví dụ H2SO4 là chất điện li, thành phần gồm H, S, O.
- Câu đúng phải đúng hoàn toàn, không được gần đúng.
Ví dụ: “Axit sunfuric đặc, nóng có tính oxy hóa mạnh, còn axit sunfiric
loãng không có tính oxy hóa”.
Câu này không chính xác vì ion H+ trong dung dịch H2SO4 loãng thể hiện
tính oxy hóa khi tác dụng với kim loại đứng trước H trong dãy hoạt động hóa học
của kim loại.
- Câu đúng phải đúng không tranh cãi được, điều này có nghĩa là một và chỉ
một câu được xác định từ trước là đúng.
Ví dụ: Phản ứng nào sau đây thuộc loại tự oxy hóa - khử?
A. 2 Na + 2 H2O 2 NaOH + H2.
B. 2 NaNO3
ot 2 NaNO2 + O2.
C. NH4NO3
ot N2O + 2 H2O.
D. 3 NO2 + H2O
ot 2 HNO3 + NO.
Phương án C và D có tài liệu đều coi là phản ứng tự oxy hóa khử, nhưng
cũng có tài liệu chỉ coi phương án D mới là phản ứng tự oxy hóa khử, còn phương
án C là phản ứng nội oxy hóa khử.
- Phải luôn có ý thức rõ ràng về mục đích của câu hỏi.
Điều này có ý nghĩa nếu như có ý định trắc nghiệm năng lực nhận thức ở
mức nhớ thì không được “ngụy trang” câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng một thể hiện
khác đi. Thí dụ muốn trắc nghiệm ở mức nhớ định nghĩa oxit lớp 8: “ Oxit là hợp
chất của Oxi với một nguyên tố khác” thì không nên thể hiện dưới dạng khác đi là:
“Oxit là hợp chất gồm hai nguyên tố, trong đó có một nguyên tố là oxi”.
- Câu dẫn phải ngắn gọn, rõ ràng, ít dùng các từ phủ định. Và tránh dùng hai
lần phủ định.
Người ta thường nhấn mạnh khía cạnh khẳng định hơn phủ định trong kiến
thức. Tuy nhiên, đôi khi HS cần biết những ngoại lệ hoặc sai lầm cần tránh. Trong
những trường hợp ấy, việc dùng một ít câu hỏi có chữ “không” hoặc “ngoại trừ” là
có thể được. Khi dùng một từ có ý nghĩa phủ định nên gạch dưới hoặc ion đậm để
HS chú ý hơn.
- Các câu dẫn phải trong sáng, tránh dẫn đến hiểu lầm hay có thể hiểu theo
nhiều cách.
Ví dụ: Đốt a gam chất hữu cơ thu được 5 mol CO2 và nước.
Ví dụ trên có thể hiểu theo hai cách: Cả CO2 và H2O có tổng số mol là 5 mol
hoặc có 5 mol CO2, còn số mol H2O không cho biết.
- Câu dẫn không nên quá dài vì phải mất nhiều thời gian cho việc đọc câu hỏi.
- Câu dẫn nên là câu hỏi trọn vẹn, không đòi hỏi HS đọc các câu chọn mới
biết mình đang được hỏi về vấn đề gì.
- Những từ buộc phải nhắc lại nhiều lần trong các câu chọn thì đưa vào câu
dẫn.
Ví dụ: Nguyên tố hóa học là những nguyên tử có cùng đặc tính nào sau đây?
A. Điện tích hạt nhân. B. Nguyên tử khối.
C. Số khối. D. Số nơtron trong hạt nhân.
- Câu nhiễu phải có tính hấp dẫn, phải tỏ ra có lí đối với những người không
am hiểu hoặc hiểu không đúng.
Ví dụ: “Bazơ là hợp chất, phân tử phải có nhóm –OH”. Nếu đã học lý thuyết
về axit – bazơ của Bronsted thì câu trên là sai, có thể dùng làm câu nhiễu vì nó đúng
với định nghĩa axit – bazơ của Areniuyt.
- Câu dẫn không được chứa một đầu mối nào để đoán ra câu trả lời.
Ví dụ: Đưa 2 đầu đũa thủy tinh có quấn bông vừa nhúng vào dung dịch HCl
đặc và dung dịch NH3 đặc lại gần nhau thường xuất hiện “khói trắng”. Công thức
hóa học của chất đó là chất nào sau đây?
A. HCl. B. NH3. C. NH4Cl. D. Cl2.
Ở đây, câu dẫn đã “mách bảo” đáp án C vì HCl tác dụng với NH3 phải tạo
NH4Cl.
- Các câu chọn cũng không được chứa một đầu mối nào để đoán ra câu trả
lời.
Ví dụ: Axit HCl có thể tham gia phản ứng oxy hóa – khử với vai trò chất
nào sau đây?
A. Chất khử. B. Chất oxy hóa.
C. Chất tạo môi trường. D. A, B, C đều đúng.
1.2.4. Đánh giá chất lượng câu hỏi TNKQ [15], [18]
Để đánh giá chất lượng của câu TNKQ hoặc của đề thi TNKQ, người ta
thường dùng một số đại lượng đặc trưng. Sau đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số
đại lượng quan trọng nhất, bằng cách giải thích định tính đơn giản.
Chia loại HS làm 3 nhóm:
- Nhóm giỏi gồm 27% số lượng HS có điểm số cao nhất của kỳ kiểm tra.
- Nhóm kém gồm 27% số lượng HS có điểm thấp của kỳ kiểm tra.
- Nhóm trung bình gồm 46% số lượng HS còn lại.
Gọi:
- N là tổng số HS tham gia làm bài kiểm tra
- NH là số HS nhóm giỏi làm đúng câu i
- NM là số HS nhóm trung bình làm đúng câu i
- NL là số HS nhóm kém làm đúng câu i
1.2.4.1. Độ khó hoặc độ dễ của câu hỏi
Khi nói đến độ khó, ta phải xem xét câu TNKQ là khó đối với đối tượng nào.
Nhờ việc thử nghiệm trên các đối tượng HS phù hợp. Độ khó của câu TNKQ được
tính như sau:
H M LN + N + NK =
N
%
(0 ≤ K ≤ 1 hay 0% ≤ K ≤ 100%)
K càng lớn thì câu hỏi càng dễ.
0 ≤ K ≤ 0,2: Câu hỏi rất khó
0 ,2 ≤ K ≤ 0,4: Câu hỏi khó
0,4 ≤ K ≤ 0,6: Câu hỏi rất trung bình
0,6 ≤ K ≤ 0,8: Câu hỏi dễ
0,8 ≤ K ≤ 1: Câu hỏi rất dễ
1.2.4.2. Độ phân biệt
Khi ra một câu hỏi hay một bài trắc nghiệm cho một nhóm HS nào đó, người
ta muốn phân biệt trong nhóm ấy những người có năng lực khác nhau như giỏi, khá,
trung bình, kém… Câu TNKQ thực hiện được khả năng đó gọi là có độ phân biệt.
Muốn cho câu hỏi có độ phân biệt thì phản ứng của nhóm HS giỏi và nhóm HS kém
đối với câu hỏi đó hiển nhiên phải khác nhau. Thực hiện phép tính thống kê, người
ta tính được độ phân biệt P theo công thức:
H LN - NP =
0,27 . N
(0 ≤ P ≤ 1)
P càng lớn thì câu hỏi có độ phân biệt càng cao.
1.2.4.3. Độ tin cậy
Trắc nghiệm là một phép đo lường để biết được năng lực của đối tượng được
đo. Tính chính xác của phép đo lường này rất quan trọng. Độ tin cậy của bài trắc
nghiệm chính là đại lượng biểu thị mức độ chính xác của phép đo nhờ bài trắc
nghiệm. Toán học thống kê cho nhiều phương pháp để tính độ tin cậy của một bài
trắc nghiệm hoặc dựa vào