Lượng giá hoạt động giáo dục sức khỏe cho thân nhân bệnh nhi về bệnh sốt xuất huyết tại khoa Sốt xuất huyết Bệnh viện Nhi đồng I

Mục tiêu: Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về bệnh SXH trước và sau khi GDSK. Phương pháp: Can thiệp bằng giáo dục sức khỏe. Thân nhân bệnh nhân SXH được phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi về nguyên nhân, triệu chứng, cách chăm sóc và phòng ngừa bệnh SXH lúc mới nhập viện và cho điểm theo thang điểm đánh giá phân loại. Trước khi xuất viện, các thân nhân được mời nghe điều dưỡng trình bày nội dung GDSK về bệnh sốt xuất huyết. Ngay sau đó các thân nhân này sẽ được đánh giá lại bằng bảng câu hỏi Post-test nội dung giống như phần Pre-test. Kết quả: 200 thân nhân được chọn tham gia nghiên cứu. Mức độ hiểu biết chung về bệnh SXH trước GDSK là rõ 1%, khá 7%, trung bình 55,5% và không biết 36,5%. Sau GDSK, 99% biết rõ và 1% biết khá về bệnh SXH. Trước GDSK, chỉ có 30,5% biết nguyên nhân gây bệnh SXH là do muỗi vằn chích, 10% biết đúng thời điểm muỗi chích. Trước GDSK, đa số thân nhân biết sốt là triệu chứng của bệnh nhưng chỉ có một số ít biết thêm các những dấu hiệu khác như đau nhức cơ, chấm xuất huyết. Khi chưa GDSK, chỉ có < 1/3 trường hợp nhận biết các dấu hiệu nặng của bệnh. Trong cách chăm sóc tại nhà, trước khi GDSK, còn một số sai lầm của thân nhân như cạo gió cắt lễ 67%, sử dụng thức ăn có màu 77,5%. Trước khi GDSK, nhiều thân nhân còn chưa biết xúc rửa, đậy kín dụng cụ chứa nước hoặc cho trẻ ngủ màn ngay cả ban ngày để phòng bệnh. Kết luận: GDSK là phương pháp can thiệp hiệu quả giúp phòng ngừa và phát hiện sớm những trường hợp SXH và có thể thực hiện đối với mọi thân nhân bệnh nhân khi đến cơ sở y tế

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lượng giá hoạt động giáo dục sức khỏe cho thân nhân bệnh nhi về bệnh sốt xuất huyết tại khoa Sốt xuất huyết Bệnh viện Nhi đồng I, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 110 LƯỢNG GIÁ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO THÂN NHÂN BỆNH NHI VỀ BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT TẠI KHOA SỐT XUẤT HUYẾT BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I Bùi Thị Bích Phượng*, Nguyễn Minh Tuấn*, Nguyễn Hoàng Mai Anh*, Lê Nguyễn Thanh Nhàn*, Phạm Thị Hải Yến* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về bệnh SXH trước và sau khi GDSK. Phương pháp: Can thiệp bằng giáo dục sức khỏe. Thân nhân bệnh nhân SXH được phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi về nguyên nhân, triệu chứng, cách chăm sóc và phòng ngừa bệnh SXH lúc mới nhập viện và cho điểm theo thang điểm đánh giá phân loại. Trước khi xuất viện, các thân nhân được mời nghe điều dưỡng trình bày nội dung GDSK về bệnh sốt xuất huyết. Ngay sau đó các thân nhân này sẽ được đánh giá lại bằng bảng câu hỏi Post-test nội dung giống như phần Pre-test. Kết quả: 200 thân nhân được chọn tham gia nghiên cứu. Mức độ hiểu biết chung về bệnh SXH trước GDSK là rõ 1%, khá 7%, trung bình 55,5% và không biết 36,5%. Sau GDSK, 99% biết rõ và 1% biết khá về bệnh SXH. Trước GDSK, chỉ có 30,5% biết nguyên nhân gây bệnh SXH là do muỗi vằn chích, 10% biết đúng thời điểm muỗi chích. Trước GDSK, đa số thân nhân biết sốt là triệu chứng của bệnh nhưng chỉ có một số ít biết thêm các những dấu hiệu khác như đau nhức cơ, chấm xuất huyết. Khi chưa GDSK, chỉ có < 1/3 trường hợp nhận biết các dấu hiệu nặng của bệnh. Trong cách chăm sóc tại nhà, trước khi GDSK, còn một số sai lầm của thân nhân như cạo gió cắt lễ 67%, sử dụng thức ăn có màu 77,5%. Trước khi GDSK, nhiều thân nhân còn chưa biết xúc rửa, đậy kín dụng cụ chứa nước hoặc cho trẻ ngủ màn ngay cả ban ngày để phòng bệnh. Kết luận: GDSK là phương pháp can thiệp hiệu quả giúp phòng ngừa và phát hiện sớm những trường hợp SXH và có thể thực hiện đối với mọi thân nhân bệnh nhân khi đến cơ sở y tế. Từ khóa: sốt xuất huyết, giáo dục sức khỏe, thân nhân bệnh nhi. ABSTRACT EVALUATION OF HEALTH EDUCATION ABOUT DENGUE FEVER TO SICK CHILDREN’S RELATIVES AT DENGUE HEMORRHAGIC FEVER DEPARTMENT, CHILDREN HOSPITAL 1 Bui Thi Bich Phuong, Nguyen Minh Tuan, Nguyen Hoang Mai Anh, Le Nguyen Thanh Nhan, Pham Thi Hai Yen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 110 - 115 Objective: Evaluate the knowledge of sick children’s relatives about Dengue fever before and after the implementaion of health education Method: 200 relatives were enrolled in the study. The level of general knowledge about Dengue fever before health education was good at 1%, above average at 7%, average at 55.5%, unknown at 36.5%. After health education, the level of general knowledge about Dengue fever was good at 99%, above average at 1%. Before health education, only 30.5% of the relatives knew mosquito Aedes agyptie is the cause of Dengue fever and 10% knew the time of mosquito biting. The majority of relatives knew fever is the symptom of the disease but only few paid attention to other manifestations such as myalgia, petechiae. Before health education, only 1/3 knew warning * Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tác giả liên lạc: ĐD Bùi Thị Bích Phượng, ĐT: 0937769189, Email: bichphuongnd1@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 111 signs of the disease. In child care at home, before health education, there were still some mistakes such as skin cutting at 67% and feeding with dark food at 77.5%. Many relatives did not know rinsing and covering water containers or keeping their children sleeping in curtains during daytime. Conclusion: Health education is an effective in preventing and identifying early Dengue – infected cases and can be carried out to child caregivers at any health care facilties. Keywords: dengue fever, health education, sick children’s relatives. ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt xuất huyết (SXH) là một bệnh nhiễm trùng cấp tính gây ra do virus Dengue. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở trẻ em. Hàng năm có từ hàng chục đến hàng trăm ngàn trường hợp mới mắc ở Việt Nam. Một trong những nguyên nhân là do sự hiểu biết của người dân chưa cao, dự phòng của gia đình và xã hội không thường xuyên và triệt để. Trong bệnh sốt xuất huyết sự hiểu biết và hợp tác của thân nhân bệnh nhi rất quan trọng giúp theo dõi phát hiện sớm các dấu hiệu nặng và phòng ngừa sự lan truyền bệnh. Giáo dục sức khỏe (GDSK) cho các thân nhân (thường là bà mẹ) là một trong những phương pháp có hiệu quả nâng cao ý thức phòng bệnh và kiểm soát tình hình bệnh tật. Cho nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá mức độ hiểu biết của thân nhân bệnh nhi trước và sau GDSK, từ đó xây dựng mô hình phương pháp GDSK phù hợp nhằm nâng cao kiến thức của thân nhân bệnh nhi trong việc phòng ngừa, phát hiện và theo dõi chăm sóc bệnh nhi SXH. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về bệnh SXH trước và sau khi GDSK. Mục tiêu chuyên biệt Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về dấu hiệu nhận biết, triệu chứng báo động của bệnh SXH trước và sau khi GDSK. Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhân về cách theo dõi, chăm sóc bệnh SXH trước và sau khi GDSK Đánh giá sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về nguyên nhân, cách phòng ngừa bệnh SXH trước và sau khi GDSK. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: can thiệp bằng GDSK Đối tượng nghiên cứu Những thân nhân bệnh nhi nhập viện khoa SXH bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 25/10/2010 - 30/03/2011. Cỡ mẫu: Lấy trọn ca Tiêu chuẩn đưa vào Những thân nhân bệnh nhi nhập viện khoa SXH được chẩn đoán sốt xuất huyết Tiêu chuẩn loại trừ Những thân nhân bệnh nhi sốt do những nguyên nhân khác không phải do sốt xuất huyết. Phương pháp thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi và cho điểm theo thang điểm đánh giá phân loại Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 13.0 Các bước tiến hành Phát phiếu khảo sát Pre-test và cho điểm. Xếp hạng mức độ kiến thức của thân nhân bệnh nhi theo bảng xếp hạng quy ước. Phương pháp cụ thể: Người nghiên cứu phỏng vấn các thân nhân bệnh nhi sốt xuất huyết mới nhập viện, trả lời bảng câu hỏi Pre- test liên quan đến triệu chứng của bệnh, dấu hiệu chuyển nặng, cách theo dõi, chăm sóc, nguyên nhân và cách phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết. Trước khi xuất viện, các thân nhân được mời nghe điều dưỡng trình bày nội dung GDSKvề bệnh sốt xuất huyết. Ngay sau đó các thân nhân này sẽ được đánh giá lại bằng bảng câu hỏi Post-test nội dung giống như phần Pre- test. Một hệ thống cho điểm (tối đa 30 điểm) được thiết kế để xếp hạng bệnh nhân tùy theo Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 112 mức độ hiểu biết. Kết quả nghiên cứu sẽ được so sánh Post- test và Pre-test về sự hiểu biết của thân nhân bệnh nhi về bệnh SXH. Kết quả dữ liệu được phân tích bằng chương trình SPSS 13. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm nhóm thân nhân Bảng 1: Đặc điểm nhóm thân nhân Đặc điểm n = 200 % Nam 06 3 Giới Nữ 194 97 Kinh 198 99 Dân tộc Hoa 02 1 Tỉnh 81 40,5 Địa chỉ TP 119 59,5 Mẹ 154 77 Cha 06 03 Ông bà 37 18,5 Quan hệ Người chăm sóc trẻ 03 1,5 Mù chữ 1 0,5 Cấp 1 5 2,5 Cấp 2 56 28,0 Cấp 3 100 50,0 Trung cấp cao đẳng 23 11,5 Trình độ Đại hoc, sau đại học 15 7,5 Nội trợ 34 17,0 CNV chức 71 35,5 Buôn bán 67 33,5 Công nhân 9 4,5 Nghề nghiệp Khác 19 9,5 Ti vi 2 1,0 Báo 4 2,0 Y tế địa phương 9 4,5 NVBVNĐ1 77 38,5 Họ hàng 75 37,5 Thông Tin Bảng hướng dẫn 33 16,5 Có 200 thân nhân chăm sóc trực tiếp bệnh nhi được làm khảo sát, trong đó đa số phụ nữ (97%) là mẹ của trẻ (77%) và bà (18,5%), bố thường ít chăm sóc khi con bệnh (3%). Tỉ lệ thân nhân có trình độ học vấn thấp hơn cấp 1 rất ít ( 3%). Trên 1/3 (38,5%) thân nhân tiếp nhận các thông tin về bệnh sốt xuất huyết từ bệnh viện Nhi Đồng 1, đây là con số đáng khích lệ, cần tiếp tục tăng cường giáo dục cho người dân từ các hoạt động truyền thông của bệnh viện: phát tờ rơi, khám và dặn dò người nhà khi trẻ đến khám bệnh, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Ngoài ra các thông tin từ bảng hướng dẫn cũng gây được nhiều sự chú ý của người dân (37,5%). Thân nhân biết các thông tin qua các phương tiện khác như báo chí, ti vi, và cơ sở y tế địa phương còn hạn chế.Trong nghiên cứu của Tiến Sĩ Tạ Văn Trầm(5) 10%. Hiểu biết thân nhân về tác nhân gây bệnh Bảng 2: Hiểu biết thân nhân về tác nhân gây bệnh Trước gdsk Sau gdsk n = 200 % n = 200 % Đúng: 61 30,5 Đúng: 200 100 Loại muỗi Sai: 139 69,5 Sai: 00 00 Đúng: 20 10 Đúng: 200 100 Thời điểm chích Sai: 180 90 Sai: 00 00 Đúng: 60 30 Đúng: 200 100 Nơi muỗi đẻ Sai: 140 70 Sai: 00 00 Đa số (95%) thân nhân biết muỗi là tác nhân truyền bệnh sốt xuất huyết, nhưng chỉ có 30,5% biết chính xác muỗi vằn truyền bệnh. Tuy nhiên 90% thân nhân nhận định sai về thời điểm muỗi chích, đa số thân nhân cho rằng muỗi chích truyền bệnh sốt xuất huyết vào ban đêm do đó không lưu ý ngủ màn, chống muỗi chích vào ban ngày(1). 70% thân nhân hiểu sai nơi muỗi đẻ, nghĩ muỗi đẻ nơi nước dơ, ao tù. Đây là những điểm rất quan trọng cần phải tăng cường hướng dẫn thân nhân hiểu rõ về thời điểm và nơi muỗi đẻ nhằm phòng ngừa tốt. Sau khi được tham gia buổi GDSK tại khoa, 100% thân nhân đã hiểu đúng về tác nhân truyền bệnh SXH, thời điểm muỗi chích và nơi muỗi đẻ. Dấu hiệu nhận biết bệnh sốt xuất huyết Bảng 3: Dấu hiệu nhận biết bệnh sốt xuất huyết Trước GDSK Sau GDSK n = 200 % n = 200 % Đúng: 197 98,5 Đúng: 197 98,5 Sốt Sai: 03 1,5 Sai: 03 1,5 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 113 Trước GDSK Sau GDSK n = 200 % n = 200 % Đúng: 40 20 Đúng: 160 80 Đau nhức cơ Sai: 160 80 Sai: 40 20 Đúng: 75 37,5 Đúng: 200 100 Chấm xuất huyết Sai: 125 62,5 Sai: 00 00 Đúng: 55 27,5 Đúng: 172 86 Mệt mỏi Sai: 145 72,5 Sai: 28 14 Đa số thân nhân (98,5%) đều biết sốt là triệu chứng của bệnh SXH vì sốt thường là vấn đề khiến các phụ huynh quan tâm lo lắng nhiều nhất. Tuy nhiên dấu hiệu xuất huyết thân nhân chưa lưu ý nhiều nên cần hướng dẫn thêm cách phát hiện các dấu hiệu này(7). Phần lớn thân nhân không biết dấu hiệu đau nhức cơ, mệt mỏi là các đặc điểm của bệnh SXH(6). Sau khi GDSK đa số thân nhân (>80%) nhận biết được các dấu hiệu của bệnh SXH như sốt, xuất huyết, đau nhức cơ, mệt mỏi. Hiểu biết của thân nhân về dấu hiệu nặng cần nhập viện Bảng 4: Hiểu biết của thân nhân về dấu hiệu nặng cần nhập viện Trước GDSK Sau GDSK n = 200 % n = 200 % Đúng: 70 35 Đúng: 194 97 Lừ đừ, bứt rứt Sai: 130 65 Sai: 06 03 Đúng: 36 18 Đúng: 190 95 Lạnh tay chân Sai: 164 82 Sai: 10 05 Đúng: 113 56,5 Đúng: 198 99 Ói Sai: 87 43,5 Sai: 02 01 Đúng: 60 30 Đúng: 196 98 Đau bụng Sai: 140 70 Sai: 04 02 Đúng: 38 19 Đúng: 196 98 Chảy máu bất thường Sai: 162 81 Sai: 04 02 Phần lớn thân nhân không biết các dấu hiệu nặng để đưa con đến cơ cở y tế kịp thời, chỉ có dưới 1/3 thân nhân biết lừ đừ, bứt rứt (35%), lạnh tay chân (18%), đau bụng (30%), chảy máu bất thường (19%) là dấu hiệu nặng của bệnh. Điều này thật đáng lo ngại vì thân nhân thường chỉ quan tâm đến dấu hiệu sốt của bệnh mà quên rằng bệnh thường trở nặng khi trẻ hết sốt(5). Do đó cần tích cực hướng dẫn thân nhân nhận biết các dấu hiệu nặng đặc biệt khi trẻ hết sốt thường vào ngày thứ 3 - 6 của bệnh, tái khám mỗi ngày theo hẹn hoặc tái khám ngay khi thấy một trong các dấu hiệu trở nặng(4). Cho nên Điều Dưỡng cần thường xuyên hướng dẫn, dặn dò thân nhân khi mới nhập viện, trong lúc chăm sóc,, đồng thời phát các tờ rơi GDSK. Sau khi đã được tham gia buổi tư vấn GDSK đa số thân nhân (>90%) đã biết được các dấu hiệu trở nặng của bệnh, đây là một kết quả đáng khích lệ. Hiểu biết của thân nhân về cách chăm sóc tại nhà Bảng 5: Hiểu biết của thân nhân về cách chăm sóc tại nhà Trước GDSK Sau GDSK n = 200 % n=200 % Đúng: 180 90 Đúng: 200 100 Dùng đúng thuốc hạ sốt Sai: 20 10 Sai: 00 00 Đúng: 116 58 Đúng: 200 100 Khoảng cách giữa các lần uống Sai: 84 42 Sai: 00 00 Đúng: 180 90 Đúng: 200 100 Theo y lệnh thầy thuốc Sai: 20 10 Sai: 00 00 Đúng: 66 33 Đúng: 200 100 Không cạo gió cắt lễ Sai: 134 67 Sai: 00 00 Đúng: 45 22,5 Đúng: 200 100 Không dùng thức ăn, nước uống: màu nâu, đen, đỏ Sai: 155 77,5 Sai: 00 00 Đúng: 196 98 Đúng: 200 100 Lau mát bằng nước đá Sai: 04 02 Sai: 00 00 Đúng: 80 40 Đúng: 200 100 Uống nhiều nước Sai: 120 60 Sai: 00 00 Ngày nay phụ huynh rất quan tâm đến bệnh của con, đa số (90%) thân nhân đưa trẻ đi khám bệnh ngay khi có sốt và dùng đúng loại thuốc hạ sốt, điều này rất thuận lợi để nhân viên y tế tiếp cận với thân nhân nhằm tuyên truyền bệnh SXH(6). Do đó cần phải cập nhật liên tục các thông tin về bệnh SXH đến các cơ sở y tế, trang bị thêm các tờ bướm, bảng hướng dẫn. Tuy nhiên do bệnh SXH sốt cao liên tục nên thân nhân rất lo lắng, thường uống thuốc hạ sốt quá nhiều lần (2-3 giờ/ 1 liều). Do đó, cần giải thích thêm bệnh sốt cao liên tục cần lau mát, uống nhiều nước hỗ trợ, tránh dùng quá liều thuốc hạ sốt(2). 76% thân nhân vẫn nghĩ có thể cạo gió, cắt lễ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 114 khi bị SXH, việc này rất nguy hiểm. Cần nhấn mạnh nguy cơ chảy máu khó cầm, nhiễm trùng và có thể nguy hiểm đến tính mạng. Đa số thân nhân (76%) vẫn dùng thức ăn, nước uống có màu nâu, đỏ nên nhân viên y tế cần thông tin để thân nhân tránh cho bệnh nhi ăn các loại thức ăn này để dễ phân biệt khi bệnh nhân có xuất huyết tiêu hóa(8). Chỉ có 2% thân nhân vẫn dùng nước đá để lau mát khi trẻ sốt. Cần nhắc lại cho thân nhân biết nên lau mát trẻ bằng nước ấm. Sau GDSK 100% thân nhân hiểu cách chăm sóc tại nhà. Hiểu biết của thân nhân về phòng bệnh sxh Bảng 6: Hiểu biết của thân nhân về phòng bệnh sxh TRƯỚC GDSK SAU GDSK Cách phòng bệnh n = 200 % n = 200 % Đúng: 173 86,5 Đúng: 198 99 Phun thuốc diệt muỗi nhang trừ muỗi Sai: 27 13,5 Sai: 02 01 Đúng: 81 40,5 Đúng: 191 95,5 Thoa kem chống muỗi Sai: 119 59,5 Sai: 09 4,5 Đúng: 50 25 Đúng: 192 96 Ngủ mùng ban ngày Sai: 150 75 Sai: 08 04 Đúng: 43 21,5 Đúng: 192 96 Xúc rửa dụng cụ chứa nước Sai: 157 78,5 Sai: 08 04 Đúng: 39 19,5 Đúng: 196 98 Đậy kín dụng cụ chứa nước, giữ nhà cửa sạch, thoáng Sai: 161 80,5 Sai: 04 02 Đa số thân nhân biết phun thuốc để chống muỗi (86,5%), và biết thoa kem để chống muỗi chích (40,5%), tuy vậy vẫn còn dưới 30% thân nhân chưa biết cách dùng các phương pháp thông thường, rẻ tiền, không độc hại như ngủ màn ban ngày (25%), súc rửa dụng cụ chứa nước (21,5%), đậy kín lu vại, giữ nhà sạch, thoáng (19,5%), có lẽ do quan niệm sai là muỗi chích vào ban đêm và đẻ nơi nước dơ của thân nhân bệnh nhi(4). Do vậy cần phải tăng cường công tác tuyên truyền giúp người dân hiểu về phòng ngừa bệnh SXH nhiều hơn nữa. Sau GDSK, trên 95% thân nhân đã hiểu đúng về phòng ngừa bệnh SXH. Tính điểm pre- test và post –test Bảng 6: Tính điểm pre-test và post-test Mức độ hiểu biết Pre-test (%) Post-test (%) Rõ 1 99 Khá 7 1 Trung bình 55,5 0 Không biết 36.5 0 Điểm trung bình Khác biệt giữa Pre-test và Post-test Pre – test 12,6 ±4,6 (4-27) Post –test 29,3 ±1,1 (23-30) 16,7 điểm P  0,001 (t-test bắt cặp) Trước GDSK sự hiểu biết về bệnh SXH chưa nhiều. Sau GDSK thân nhân đã biết cách phòng ngừa và phát hiện sớm bệnh, chăm sóc bệnh tại nhà, nhận biết các dấu hiệu nặng giúp cho việc phòng ngừa và điều trị tốt hơn. Do đó cần tăng cường hơn nữa tuyên truyền GDSK cho thân nhân bệnh nhi. KẾT LUẬN Đa số phụ nữ (mẹ, bà) vẫn là người trực tiếp chăm sóc bệnh nhi. Do vậy các chương trình GDSK cần quan tâm đến các đối tượng này. Còn nhiều thân nhân chưa biết thời điểm muỗi chích, nơi muỗi đẻ do vậy cũng chưa biết sử dụng các biện pháp thông thường để phòng tránh. Thân nhân thường chỉ quan tâm đến triệu chứng sốt mà quên đi các dấu hiệu khác như xuất huyết hay các dấu hiệu chuyển nặng. Phần lớn thân nhân cũng chưa biết rõ cách chăm sóc trẻ SXH tại nhà. Do vậy vai trò của GDSK là rất quan trọng nhằm giúp thân nhân biết cách phòng bệnh, cách phát hiện bệnh, theo dõi, chăm sóc, phát hiện các dấu hiệu nặng để đưa đến cơ sở y tế kịp thời. Sau khi được tham gia GDSK, đa số thân nhân nắm bắt được cách phòng bệnh, phát hiện bệnh sớm, chăm sóc bệnh nhi tại nhà, và phát hiện kịp thời các dấu hiệu nặng. Tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về “Bệnh sốt xuất huyết - cách Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV Nhi Đồng 1 - Năm 2011 115 chăm sóc và phòng ngừa” tại khoa và tại bệnh viện, đồng thời phát cách tờ bướm, dán áp phích, khuyến khích những người đã hiểu biết về bệnh hướng dẫn lại cho họ hàng, hàng xóm xung quanh. Tuy nhiên, chăm sóc điều trị và phòng ngừa tốt bệnh SXH cần có sự tham gia của ngành y tế và cả cộng đồng. Do đó cần tăng cường thêm công tác tuyến, phối hợp nhiều ban ngành, đoàn thể. KIẾN NGHỊ GDSK thường xuyên và liên tục tại khoa phòng và bệnh viện Nhi Đồng 1. GDSK về SXH ở các cơ sở y tế. Tăng cường công tác tuyến. Phối hợp các ban ngành trong GDSK. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2009) Sốt Dengue, sốt Xuất Huyết Dengue. =202&cat=1679&ID=1839 (06/06/2009). 2. Nalongsack s. et al (2009), knowledge, attitude and practice regarding dengue among people in pakse, laos. Nagoya J. Med. Sci. 71, 29 – 37 3. Tạ Văn Trầm, Lê Bích Liên, Nguyễn Trọng Lân (1989), Hiểu biết của các bà mẹ về Sốt xuất huyết Dengue, Hội nghị Khoa học kỹ thuật Khoa Y, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, lần thứ XII, tháng 10/1989. 4. Trần Ngọc Hữu (1999), Các yếu tố ảnh hưởng hành vi phòng chống sốt xuất huyết của bà mẹ, Hội nghị tổng kết chương trình cải thiện xử trí sốt xuất huyết, Bệnh viện Nhi Đồng 1, tháng 12/1999, 32 - 38 5. Trần Thanh Hải,Tạ Văn Trầm (2008). Kiến thức,thái độ, hành vi của Bà mẹ về phòng chống bệnh sốt xuất huyết Dengue.* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Tập 12, PB Số 4, chuyên đề Y tế công cộng: 142 – 146. 6. Trần Thị Cẩm Nguyên, Nguyễn Đỗ Nguyên (2010), Hiệu quả của một chương trình giáo dục sức khỏe về phòng chống sốt xuất huyết Dengue cho học sinh trung học cơ sở tỉnh Bình Dương năm 2009. Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Tập 14 – Phụ bản số 1, chuyên đề dược, răng hàm mặt, y tế công cộng: 169-176 7. Trần văn Hai, Lê Thành Tài (2008): Kiến thức, thái độ, thực hành về phòng sốt Dengue Sốt Xuất Huyết Dengue của người dân xã Bình Thành, Huyện Thanh Bình – TỈnh Đồng Tháp năm 2006, Y Học TPHCM, Tập 12 - Phụ bản số 4, chuyên đề Y tế công cộng: 39 – 44. 8. WHO (1997), Dengue hemorrhgic fever: Diagnosis, treatment, prevention and control, 2nd edition, Geneva, WHO.