Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue nặng người lớn có tổn thương gan nặng và khảo sát mối tương quan giữa tổn thương gan với các biến chứng khác. Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiền cứu những bệnh nhân ≥ 15 tuổi, được chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue nặng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới 2009, có xét nghiệm MAC-ELISA (+) hoặc NS1 (+) nhập khoa Hồi sức Tích cực Chống độc người lớn-Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trong khoảng thời gian từ 1/2010 đến 1/2012. Kết quả: 68/197 (34,5%) trường hợp tăng men gan ≥ 1000 U/L. Kết quả điều trị có 20/68 (29,4%) bệnh nhân tử vong. Khi so sánh nhóm tổn thương gan nặng với nhóm không tổn thương gan nặng, có sự khác biệt về giới nữ (OR=2,4), xử trí chống sốc tại bệnh viện tuyến trước (OR=5,2), rối loạn tri giác (OR=18,1), xuất huyết nặng (OR=15,1), tái sốc (OR = 2,3), tăng bilirubin máu (OR= 12,5), tổn thương thận (OR=24,7), tăng acid lactic máu (OR=50,1), tử vong (OR=53,3). Khi phân tích biểu đồ đường cong ROC tìm mối tương quan giữa các trị số men gan AST, ALT với nguy cơ tử vong, ALT 1000U/L có độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 86% (AUC=0,906) – AST 1000U/L có độ nhạy 82% và độ đặc hiệu 72% (AUC=0,845). Kết luận: Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của bệnh cảnh tổn thương gan nặng trong sốt xuất huyết Dengue người lớn còn cao. Tổn thương gan nặng làm tăng nguy cơ thoát huyết tương nặng, xuất huyết nặng, suy gan cấp, tổn thương thận, toan chuyển hóa tăng acid lactic và dễ dẫn tới tử vong cho người bệnh.
8 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối tương quan của tổn thương gan với các biến chứng khác trong bệnh cảnh sốt xuất huyết dengue nặng người lớn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 150
MỐI TƯƠNG QUAN CỦA TỔN THƯƠNG GAN VỚI CÁC BIẾN CHỨNG
KHÁC TRONG BỆNH CẢNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE NẶNG
NGƯỜI LỚN
Nguyễn Văn Hảo*, Dương Bích Thủy**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue nặng người lớn có tổn thương gan nặng và khảo
sát mối tương quan giữa tổn thương gan với các biến chứng khác.
Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiền cứu những bệnh nhân ≥ 15 tuổi,
được chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue nặng theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới 2009, có xét nghiệm
MAC-ELISA (+) hoặc NS1 (+) nhập khoa Hồi sức Tích cực Chống độc người lớn-Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trong
khoảng thời gian từ 1/2010 đến 1/2012.
Kết quả: 68/197 (34,5%) trường hợp tăng men gan ≥ 1000 U/L. Kết quả điều trị có 20/68 (29,4%) bệnh
nhân tử vong. Khi so sánh nhóm tổn thương gan nặng với nhóm không tổn thương gan nặng, có sự khác biệt về
giới nữ (OR=2,4), xử trí chống sốc tại bệnh viện tuyến trước (OR=5,2), rối loạn tri giác (OR=18,1), xuất huyết
nặng (OR=15,1), tái sốc (OR = 2,3), tăng bilirubin máu (OR= 12,5), tổn thương thận (OR=24,7), tăng acid lactic
máu (OR=50,1), tử vong (OR=53,3). Khi phân tích biểu đồ đường cong ROC tìm mối tương quan giữa các trị số
men gan AST, ALT với nguy cơ tử vong, ALT 1000U/L có độ nhạy 90% và độ đặc hiệu 86% (AUC=0,906) –
AST 1000U/L có độ nhạy 82% và độ đặc hiệu 72% (AUC=0,845).
Kết luận: Tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của bệnh cảnh tổn thương gan nặng trong sốt xuất huyết Dengue
người lớn còn cao. Tổn thương gan nặng làm tăng nguy cơ thoát huyết tương nặng, xuất huyết nặng, suy gan
cấp, tổn thương thận, toan chuyển hóa tăng acid lactic và dễ dẫn tới tử vong cho người bệnh.
Từ khóa: Sốt xuất huyết Dengue nặng, tổn thương gan nặng, tử vong
ABSTRACT
RELATIONSHIP BETWEEN SEVERE LIVER DAMAGE AND OTHER COMPLICATIONS IN ADULT
DENGUE HEAMORRHAGIC FEVER
Nguyen Van Hao, Duong Bich Thuy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17-Supplement of No 1-2013: 150 - 157
Objectives: To identify the percentage of adult Dengue hemorrhagic fever (DHF) with severe liver
damage and to study the relationship between it and other complications.
Population-Method: A prospective cross sectional study on patients more than 15 years old with
diagnosis of severe DHF according to 2009 WHO criteria and positive results of MAC-ELISA or NS1
antigen admitted to Adult ICU of the Hospital for Tropical Diseases from January 2010 to January 2012.
Results; 68/197 (34.5%) cases had serum transaminase ≥ 1000 U/L. Outcome of treatment were 20/68
(29.4%) death cases. A comparison between group of severe liver damage and control group showed that there
were differences in female sex (OR=2.4), primary treatment of shock in province hospitals (OR=5.2),
* Bộ Môn Nhiễm - Đại Học Y Dược TP. HCM
** Khoa cấp cứu Hồi sức tích cực Chống độc người lớn bệnh viện Nhiệt đới TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS BS Nguyễn Văn Hảo, ĐT: 0913857025, Email: haodiep61@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 151
unconsciousness (OR = 18.1), severe bleeding (OR=15.1), recurrent shock (OR=2.3), high bilirubinemia (OR
=12.5), acute renal injury (OR=24.7), lactic acidosis (OR= 50.1), death (OR=53.3). With reference to ROC
method in studying the relationship between elevated transaminases and risk of death, ALT 1000U/L had
sensitivity of 90% and specificity of 86% (AUC = 0.906), AST 1000U/L had sensitivity of 82% and specificity of
72% (AUC = 0.845).
Conclusion: The morbidity rate and fatal rate of DHF adult patients with severe liver damage are high.
Severe hepatic damage causes increasing in risks of severe plasma leakage, major bleeding, acute liver failure,
acute renal injury, lactic acidosis and death.
Keywords: Severe Dengue hemorrhagic fever, severe liver damage, death
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, bệnh sốt xuất huyết
Dengue (SXH-D) không chỉ ảnh hưởng đến trẻ
em mà có xu hướng gia tăng ở các nhóm tuổi
lớn hơn và lan nhanh sang nhiều khu vực trên
toàn thế giới(7,12,20). Tại Việt Nam, theo số liệu
thống kê của Bộ Y tế (BYT) năm 2011 có 70.999
ca mắc với 61 ca tử vong, chiếm tỷ lệ 0,086%.
Mặt khác, theo báo cáo của một số tác giả, tỉ lệ
tử vong trong SXH-D người lớn ngày càng báo
động, thường trong bệnh cảnh sốc nặng, kèm
với đông máu nội mạch lan tỏa, toan chuyển
hóa, suy gan, suy thận, suy hô hấp cấp(10,17)
Biểu hiện gan to, vàng da, tăng men gan, tăng
phosphatase kiềm, suy gan và viêm gan tối
cấp đã được nhiều tác giả trên thế giới ghi
nhận ở các bệnh nhân SXH-D. Tuy nhiên,
phần lớn các nghiên cứu được tiến hành ở trẻ
em(1,3,14,15). Theo tổng kết ban đầu các trường
hợp SXH-D người lớn từ năm 1998 đến năm
2000 của tác giả L.T.T.Thảo và cộng sự, trị số
men transaminases được ghi nhận tăng gấp ba
lần giá trị bình thường(10). Những năm gần
đây, biểu hiện tăng AST và ALT đôi khi rất
cao, một số trường hợp kèm theo vàng da, suy
gan Theo Đ.T Trung, AST và ALT tăng cao
có liên quan với các biến chứng nặng của
bệnh(19). Theo phân loại của Tổ chức y tế thế
giới (TCYTTG) năm 2009, bệnh nhân SXH-D
có biểu hiện tăng men gan 1000 U/L được
xem như SXH-D nặng. Tăng men gan có phải
là một trong những yếu tố góp phần tiên
lượng bệnh hay không? Sự hiểu biết và kinh
nghiệm điều trị SXH-D người lớn có biểu hiện
tăng cao men gan hiện vẫn còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Mối tương quan giữa tổn thương gan với các
biến chứng khác trong bệnh cảnh SXH-D nặng
ở người lớn” với mục tiêu nhằm xác định tỷ lệ
bệnh nhân SXH-D nặng người lớn có tổn
thương gan nặng và khảo sát mối tương quan
giữa tổn thương gan với các biến chứng khác
của bệnh.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang, tiền cứu
Đối tượng nghiên cứu
Dân số đích
Tất cả các bệnh nhân ≥ 15 tuổi được chẩn
đoán và điều trị SXH-D tại BVBNĐ TPHCM.
Dân số nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân ≥ 15 tuổi được chẩn
đoán và điều trị SXH-D nặng tại khoa
CCHSTCCĐNL BVBNĐ từ 1/2010 đến 1/2012.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân ≥ 15 tuổi.
Được chẩn đoán SXH-D nặng theo tiêu
chuẩn của Bộ Y tế Việt Nam (2011).
Có xét nghiệm MAC-ELISA (+) hoặc NS1 (+).
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
N = Z21-α/2×p×(1-p)/d2
Công thức tính cỡ mẫu dựa vào tỉ lệ tổn
thương gan theo các nghiên cứu trước đây:
3,8%-15%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 152
Với α = 0,05; Z = 1,96; d = 0,10
Chọn p = 0,15 để n cực đại ⇒ n = 1,962 × 0,15×
0,85/0,01 = 48,9 # 49
Vậy cỡ mẫu chọn ít nhất là 49 trường hợp.
Định nghĩa
Tổn thương gan nặng: AST hoặc ALT
1000U/L(20)
Suy gan cấp khi có rối loạn tri giác (thang
điểm GCS 14 điểm) kèm với rối loạn đông máu
huyết tương hoặc bilirubin máu 3mg% (54
mmol/L).
Tổn thương thận: khi creatinine máu tăng 2
lần giới hạn trên theo tuổi, đối với người lớn
2,5mg% (221mmol/L).
Sốc do thoát huyết tương: khi bệnh nhân có
biểu hiện tụt huyết áp (huyết áp tâm thu <90
mmHg) hoặc huyết áp kẹp (hiệu số huyết áp tối
đa và huyết áp tối thiểu 20 mmHg), mạch
nhanh >90 lần/phút với các dấu hiệu giảm tưới
máu ngoại vi như kéo dài thời gian đỗ đầy mao
mạch (>2 giây), chi mát và có DTHC tăng 20%
trị số căn bản.
Tái sốc: tình trạng huyết động không ổn
định sau khi xử trí chống sốc ban đầu, DTHC
tăng cao, có nhu cầu phải chống sốc bằng dịch
truyền lại
Xuất huyết nặng: xuất huyết nặng là những
xuất huyết da niêm nặng như xuất huyết tiêu
hóa hoặc xuất huyết âm đạo ồ ạt trên lâm sàng,
chảy máu mũi, chảy máu nướu răng, khối máu
tụ lớn đòi hỏi phải can thiệp cầm máu hoặc xuất
huyết bên trong cơ thể như xuất huyết não,
màng não, xuất huyết ổ bụng, xuất huyết màng
phổi. Tất cả các trường hợp nghi ngờ xuất
huyết bên trong: khi huyết động không ổn định,
mặc dù đã hồi sức dịch tích cực và DTHC có xu
hướng giảm nhanh.
Toan chuyển hóa mất bù khi có pH máu
7,35; HCO3- 15mEq/L.
Tăng lactate máu nặng khi lactate/máu động
mạch 5mEq/L.
Phân tích số liệu
Bằng phần mềm SPSS 20.0. So sánh các biến
định lượng có phân phối chuẩn bằng phép kiểm
t student, các biến định lượng không có phân
phối chuẩn bằng Mann Whitney U, các biến
định tính bằng phép kiểm 2, tính OR khi so
sánh các biến định tính, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p 0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Từ 1/2010 đến 1/2012, khoa Cấp cứu hồi
sức tích cực chống độc người lớn
(CCHSTCCĐNL)-BVBNĐ tiếp nhận và điều
trị 197 bệnh nhân SXH-D nặng, xác định bằng
IgM ELISA hoặc NS1 dương tính. Có 77/197
(39%) trường hợp SXH-D nặng có biểu hiện
tổn thương tạng. Sau khi loại trừ những
trường hợp tổn thương tạng nhưng không tổn
thương gan nặng (3 ca tổn thương não, 2 ca
viêm cơ tim, 3 ca tiểu huyết sắc tố do thiếu
men G6PD, 1 ca suy thận) chúng tôi có 68
trường hợp SXH-D có tăng men gan ≥ 1000
U/L, chiếm tỷ lệ 34,5% các trường hợp. Kết
quả điều trị có 20/68 (29,4%) bệnh nhân tử
vong (18 ca chết ở nhóm sốc, 02 ca chết ở
nhóm không sốc).
So sánh đặc điểm dịch tễ của nhóm tổn
thương gan nặng với nhóm chứng
Giới tính
Có 44/100 (44%) bệnh nhân nữ bị tổn thương
gan nặng cao hơn giới nam 24/97 (24,7%), so
sánh 2 tỷ lệ với phép kiểm 2 OR = 2,4 (KTC
95%: 1,3 – 4,4); p = 0,005.
Nơi chống sốc ban đầu
Bệnh viện tuyến trước 27/53 (50,3%) so với
BVBNĐ 18/109 (16,5%) với OR = 5,2 (KTC 95%:
2,5 – 11); p < 0,0005.
Có bệnh mạn tính trước đó
11/21 (52,4%) so với nhóm bệnh nhân không
có bệnh mạn tính 57/119 (32,4%) OR= 2,3 (KTC
95%: 0,9 – 5,7); p = 0,074
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 153
Cơ địa thừa cân (BMI > 25kg/m2) 7/28 (25%)
so với nhóm không thừa cân 61/169 (36,1%) OR =
0,6 (KTC 95%: 0,2 – 1,5); p = 0,265
So sánh đặc điểm lâm sàng của nhóm tổn
thương gan nặng với nhóm chứng
Đánh giá về các biểu hiện lâm sàng liên quan
với bệnh cảnh suy gan, chúng tôi nhận thấy có
18/68 (26,5%) trường hợp có biểu hiện rối loạn tri
giác, so với nhóm chứng 3/129 (1,9%), OR = 18,1
(KTC 95%: 5,1-64) với p = 0,001. Chỉ có 8/68
(11,8%) có biểu hiện vàng da ghi nhận trên lâm
sàng. Ngoài ra, nhóm tổn thương gan nặng có
biểu hiện xuất huyết nặng 34/68 (50%) khi so với
nhóm chứng 8/121 (6,2%), OR = 15,1 (KTC 95%:
6,4-35,7) với p < 0,0005. Trong đó biểu hiện xuất
huyết tiêu hóa nổi bật 28/68 (41,2%)
Đánh giá độ nặng của hiện tượng thoát
huyết tương dựa vào bệnh cảnh sốc do thoát
huyết tương, chúng tôi nhận thấy nhóm tổn
thương gan nặng có tỷ lệ bệnh nhân bị sốc 45/68
(66,2%) thấp hơn nhóm chứng 117/129 (90,7%).
Tuy nhiên tỷ lệ tái sốc ở nhóm tổn thương gan
nặng cao hơn có ý nghĩa thống kê 23/45(51,1%)
so với 36/117 (30,8%) OR = 2,3 (KTC 95%: 1,1-4,7)
với p = 0,017.
So sánh đặc điểm xét nghiệm cận lâm sàng
Bảng 1: Mối tương quan giữa tổn thương gan nặng
với biến đổi protein, albumin máu và tỷ lệ
albumin/creatinin niệu
Nhóm tổn
thương gan
nặng
n = 55*
Nhóm
chứng
n = 116**
p
Protein TP máu (g/dl)
Trung bình ± SD
53,8 10 63,5
9,5
0,001
Albumin máu (g/dl)
Trung bình ± SD
27,6 6,3 33,4
5,4
0,001
Tỷ lệ albumin/creatinin niệu
trung bình ± SD
95,4 110,8 26,3
43,5
0,002
*Trong nhóm bệnh nhân có tổn thương
gan nặng: trong quá trình thu thập số liệu
chúng tôi bỏ sót 13 ca
**Trong nhóm người bệnh có trị số men
gan < 1000 U/L thu thập số liệu chúng tôi bỏ
sót 13 ca
Bảng 2: Mối tương quan giữa tổn thương gan nặng với xét nghiệm đông máu huyết tương
Nhóm tổn thương gan nặng n = 68 Nhóm chứng n = 129 Giá trị p
Prothombin time (giây)
Trung vị (tối thiểu-tối đa)
19,5
(11-91)
12,8
(11-8,3)
0,001
INR Trung vị (tối thiểu-tối đa) 1,6 (1-11,2) 1 (0,8-1,8) 0,001
APTT (giây) Trung vị (tối thiểu-tối đa) 49,2 (21,8-140) 44,6 (1,6-95) 0,001
Fibrinogen (g/L) Trung vị (tối thiểu-tối đa) 1,3 (0,1-2,9) 1,7 (0,9-4,4) 0,001
Nhận xét: xét nghiệm đông máu huyết
tương bị rối loạn toàn bộ trong nhóm tổn
thương gan nặng.
Bảng 3: Mối tương quan giữa tổn thương gan nặng
với trị số prothombin time 20 giây
Tổn thương
gan nặng
Nhóm
chứng
Tổng số
Prothombin time
20 giây; n (%)
32 (47) 0 (0) 32
Prothombin time <
20 giây; n (%)
36 (53) 129 (100) 165
Tổng số; n (%) 68 (100) 129 (100) 197
p < 0,0005
Bảng 4: Mối tương quan giữa tổn thương gan nặng
với các xét nghiệm liên quan với chức năng các cơ
quan khác
Tổn thương
gan nặng
n = 68
Nhóm
chứng
n = 129
p
OR
(KTC 95%)
Creatinin/máu
2,5mg%
(221mmol/L); n
(%)
11 (16,2) 1 (0,77) 0,001
24,7
(3,1-196)
Toan chuyển hóa
mất bù; n (%)
19 (27,9) 1 (0,77) <0,005
36 (4,9-263,5)
Tăng lactate máu
nặng; n (%)
30 (44,1)
2 (1,5) <0,0005
50,1 (11,4-219,5)
Tăng bilirubin
máu 3mg%
(54mmol/L); n (%)
20 (29,4) 3 (2,3) 0,001
12,5 (3,8-40,7)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 154
Nhận xét về đặc điểm cận lâm sàng: tổn
thương gan nặng có mối tương quan rõ rệt và làm
tăng nguy cơ tổn thương thận, toan máu tăng acid
lactic, tăng bilirubin/máu, rối loạn đông máu,
giảm protein, albumin máu, tiểu đạm.
So sánh đặc điểm điều trị
Bảng 5: Đặc điểm điều trị
Nhóm tổn thương gan
nặng n=68
Nhóm chứng
n=129
P
OR (KTC 95%)
Điều trị chống hôn mê gan
#
; (%) 18 (26,4) 0 (0) _
Lọc máu; n (%) 9 (13,2) 0 (0) _
Thở máy; n (%) 27 (39,7) 2 (1,6) <0,0005
25,6 (6,3-104,5)
Tổng lượng dịch truyền (mL/24 giờ) trung
vị (nhỏ nhất-lớn nhất)
+
2450
(0-11420)
4070
(0-13000)
0,001
Truyền hồng cầu lắng; n (%) 35 (51,5) 9 (6,9) 0,0001
17 (7,4-38,9)
Truyền huyết tương đông lạnh; n (%) 30 (44,1) 3 (2,3) 0,0001
39,7 (11,5-137,1)
Truyền kết tủa lạnh; n (%) 26 (38,2) 1 (0,7) 0,0001
94,7 (12,4-718,4)
Truyền tiểu cầu n (%) 27 (39,7) 11 (8,5) 0,0001
8,5 (3,9-18,7)
*Tỷ lệ tái sốc được tính = số BN tái sốc/số BN sốc
+Tổng lượng dịch truyền sử dụng trong 1 ngày bao gồm dung dịch tinh thể + cao phân tử
#Điều trị chống hôn mê gan cho những bệnh nhân tổn thương gan nặng có rối loạn tri giác
$Lọc máu chỉ định cho các BN có biểu hiện suy thận kèm toan chuyển hóa mất bù, tăng Kali máu hoặc phù phổi cấp
không đáp ứng với điều trị nội khoa, hoặc bệnh nhân có biểu hiện thiểu hoặc vô niệu kéo dài 24 giờ.
Nhận xét về điều trị: nhóm bệnh nhân tổn
thương gan nặng có xu hướng dùng nhiều máu
và các chế phẩm máu, được lọc máu, thở máy
nhiều hơn
Đánh giá tỷ lệ tử vong
Hình 2: Áp dụng đường cong ROC để tiên đoán tử vong AST-Diện tích dưới đường cong = 0,845. ALT – Diện tích
dưới đường cong = 0,906
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 155
Bảng 6. Giá trị cutoff của trị số men gan để tiên
đoán tử vong
Giá trị cutoff Độ nhạy Độ đặc hiệu
AST = 1000 U/L 86% 72%
ALT = 1000 U/L 90% 86%
Bảng 7. So sánh tỷ lệ tử vong
Tổn thương
gan nặng
Nhóm
chứng
Tổng số
Tử vong; n (%) 20 (29,4) 1 (0,7) 21
Sống; n (%) 48 (70,6) 128 (99,3) 176
Tổng số; n (%) 68 (100) 129 (100) 197
OR = 53,3; KTC 95%: 6,9-408,4 (p < 0,0005)
Nhận xét về tử vong: tổn thương gan nặng
gây gia tăng nguy cơ tử vong 53 lần. Khi phân
tích đường cong ROC, với AUC 0,845, với
ngưỡng men AST 1000 U/L có ý nghĩa tiên
đoán tử vong với độ nhạy 87%, độ đặc hiệu
72%; ngưỡng men ALT 1000U/L có độ nhạy
90%, độ đặc hiệu 86%.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ tổn thương gan nặng – Đặc điểm dịch
tễ
Qua nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận
được 68/197 (34,5%) trường hợp SXH-D ở
người lớn có tổn thương gan nặng với biểu
hiện tăng men gan AST và/hoặc ALT
1000U/L. Có 27/53 (50,3%) trường hợp được
chống sốc ban đầu tại bệnh viện tuyến trước,
khi so với quần thể bệnh nhân được chống sốc
ban đầu tại BVBNĐ tỷ lệ bệnh nhân có tổn
thương gan nặng là 18/109 (16,5%) với OR =
5,2 (KTC 95%: 2,5-11) p < 0,0005. Tỷ lệ này
tương đối cao do đặc điểm của khoa hồi sức
cấp cứu người lớn tại bệnh viện chúng tôi là
nơi tiếp nhận bệnh nhân SXH-D nặng từ bệnh
viện ở các tỉnh phía nam chuyển tới.
Chúng tôi còn tìm thấy bệnh nhân nữ dễ bị
tổn thương gan hơn nam giới. Điều này có thể
liên quan với các yếu tố về nội tiết, cơ địa nhạy
cảm với tình trạng xuất huyết ở giới nữ
Khi so sánh các yếu tố dịch tễ khác như bệnh
mạn tính trước đó và cơ địa thừa cân giữa 2
nhóm bệnh nhân tổn thương gan nặng và nhóm
chứng, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê.
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy tỷ
lệ sốc thoát huyết tương trong nhóm bệnh nhân
tổn thương gan nặng thấp hơn nhóm chứng, tuy
nhiên khi bệnh nhân tổn thương gan nặng kèm
với bệnh cảnh sốc thoát huyết tương thì dễ bị tái
sốc (OR = 2,3 với p = 0,017). Ngoài ra, những biến
đổi protein, albumin máu trong nhóm tổn
thương gan nặng nổi bật hơn nhóm chứng với
đặc điểm giảm protein, albumin máu và tăng tỷ
lệ albumin/creatinin niệu (bảng 1). Như vậy tổn
thương gan nặng là yếu tố góp phần gây thoát
huyết tương nghiêm trọng hơn. Dựa vào bảng 2
chúng tôi nhận thấy tổn thương gan nặng góp
phần gây rối loạn đông máu huyết tương
nghiêm trọng hơn nhóm chứng, đặc biệt xét
nghiệm prothombin time kéo dài với p < 0,0005
(bảng 3). Điều này cũng phù hợp với đặc điểm
lâm sàng bệnh nhân tổn thương gan nặng có
nguy cơ bị xuất huyết nặng gấp 15 lần so với
nhóm chứng với giá trị p < 0,0005; 41,2% trường
hợp tổn thương gan nặng có biểu hiện xuất
huyết ở đường tiêu hóa. Tóm lại, giống như kết
quả của các nghiên cứu trước đây, chúng tôi
nhận thấy có mối tương quan của tổn thương
gan nặng với độ nặng của thoát huyết tương và
tình trạng xuất huyết nặng(1,2,3,9,11,22).
Theo định nghĩa suy gan cấp của AASLD
(17), chúng tôi ghi nhận được 18/68 trường hợp
rối loạn tri giác kèm với prothombin time kéo
dài >20 giây, đặc điểm rối loạn tri giác diễn biến
từ từ, người bệnh không có biểu hiện tổn thương
choáng chỗ nội sọ trên lâm sàng và CT scan não,
và khi bệnh nhân hồi phục tri giác thường hoàn
toàn, không có di chứng, điều này phù hợp với
bệnh cảnh suy gan cấp (hôn mê gan). Ngoài ra,
chúng tôi ghi nhận có 8/68 (11,8%) trường hợp có
biểu hiện vàng da. Tuy nhiên khi phân tích trị số
bilirubin TP máu, có 20/68 (29,4%) trường hợp
tăng bilirubinTP 3mg%. Khi phân tích đơn
biến chúng tôi nhận thấy tổn thương gan nặng
gây tăng nguy cơ tăng bilirubin máu > 3mg% với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 156
OR = 12,5 (bảng 4). Theo tác giả Đinh Thế Trung,
vàng da chỉ gặp trong 11/644 (< 2%) bệnh nhân
SXH-D(5).
Theo kết quả bảng 4, chúng tôi nhận thấy khi
bệnh nhân có tổn thương gan nặng thì khả năng
xuất hiện tổn thương thận tăng gấp 25 lần so với
bệnh nhân không có tổn thương gan nặng (p =
0,001). Trong quá trình theo dõi lâm sàng, tổn
thương thận thường xảy ra sau tổn thương gan.
Dựa trên những quan sát này, chúng tôi cho
rằng tổn thương gan nặng là một trong những
yếu tố nguy cơ gây tổn thương thận ở bệnh nhân
SXH-D người lớn. Ngoài ra, chúng tôi còn nhận
thấy có mối tương quan rõ rệt giữa tình trạng
toan máu mất bù do tăng acid lactic máu và tổn
thương gan nặng. Tổn thương gan nặng gây
tăng nguy cơ toan chuyển hóa mất bù 36 lần, và
có nguy cơ gây tăng acid lactic máu gấp 50 lần so
với nhóm không tổn thương gan nặng. Tổn
thương gan tối cấp (diễn biến rất nhanh trong 1-
2 ngày) có thể gây tăng lactate máu do giảm đột
ngột khả năng chuyển hóa lactate của gan, hậu
quả dẫn tới toan máu mất bù. Không loại trừ khả
năng tổn thương