Mục đích: Đánh giá kết quả ứng dụng vi phẫu thuật vi phẫu giải ép thần kinh trong điều trị đau dây thần
kinh số V (phẫu thuật Jannetta).
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu trong thời gian 15 tháng (tháng 01-2011 đến hết tháng 03-2012) với
26 bệnh nhân được mổ điều trị đau dây V, đảm bảo bệnh nhân theo dõi ít nhất trong vòng 06 tháng, nhiều nhất
được 01 năm. Đánh giá chủ yếu dựa vào lâm sàng, cảm nhận đau của bệnh nhân theo thang điểm VAS và kết
quả dựa vào thang điểm VAS và thang điểm BNI.
Kết quả: 26 bệnh nhân được mổ theo phương pháp này: 16 nữ (62%) và 10 nam (38%). Tuổi thấp nhất 30
cao nhất 77. Đau dây V bên phải 17 trường hợp (65%), bên trái 9 trường hợp (35%). Thời gian từ khi khởi bệnh
đến lúc mổ sau 5 năm là 50% số bệnh nhân. Trong mổ tìm thấy động mạch chèn ép dây V ở 19 trường hợp
(73%); tĩnh mạch có 6 trường hợp (23%); không thấy nguyên nhân có 1 trường hợp (4%). Kết quả mổ theo VAS
rất tốt ngay sau mổ sau mổ là 85%, sau mổ 03 tháng 81%, sau 06 tháng là 77%, sau 01 năm là 75%.
Kết luận: Phẫu thuật điều trị đau dây V là một trong những phương pháp điều trị được lựa chọn có hiệu
quả với đau dây V đã thất bại với các phương pháp điều trị khác.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả vi phẫu thuật giải ép thần kinh trong điều trị đau dây V tại Bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 104
MỘT SỐ KẾT QUẢ VI PHẪU THUẬT GIẢI ÉP THẦN KINH
TRONG ĐIỀU TRỊ ĐAU DÂY V TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Bùi Huy Mạnh*, Đồng Văn Hệ*
TÓM TẮT
Mục đích: Đánh giá kết quả ứng dụng vi phẫu thuật vi phẫu giải ép thần kinh trong điều trị đau dây thần
kinh số V (phẫu thuật Jannetta).
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu trong thời gian 15 tháng (tháng 01-2011 đến hết tháng 03-2012) với
26 bệnh nhân được mổ điều trị đau dây V, đảm bảo bệnh nhân theo dõi ít nhất trong vòng 06 tháng, nhiều nhất
được 01 năm. Đánh giá chủ yếu dựa vào lâm sàng, cảm nhận đau của bệnh nhân theo thang điểm VAS và kết
quả dựa vào thang điểm VAS và thang điểm BNI.
Kết quả: 26 bệnh nhân được mổ theo phương pháp này: 16 nữ (62%) và 10 nam (38%). Tuổi thấp nhất 30
cao nhất 77. Đau dây V bên phải 17 trường hợp (65%), bên trái 9 trường hợp (35%). Thời gian từ khi khởi bệnh
đến lúc mổ sau 5 năm là 50% số bệnh nhân. Trong mổ tìm thấy động mạch chèn ép dây V ở 19 trường hợp
(73%); tĩnh mạch có 6 trường hợp (23%); không thấy nguyên nhân có 1 trường hợp (4%). Kết quả mổ theo VAS
rất tốt ngay sau mổ sau mổ là 85%, sau mổ 03 tháng 81%, sau 06 tháng là 77%, sau 01 năm là 75%.
Kết luận: Phẫu thuật điều trị đau dây V là một trong những phương pháp điều trị được lựa chọn có hiệu
quả với đau dây V đã thất bại với các phương pháp điều trị khác.
Từ khóa: đau dây V, giải ép vi mạch
ABSTRACT
RESULTS OF SURGERY-MICROVASCULAR DECOMPRESSION OF TRIGEMINAL NEURALGIA AT
VIET DUC HOSPITAL
Bui Huy Manh, Dong Van He.* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 104 -
108
Objective: Evaluated the result of treatment of trigeminal neuralgia by Microvascular Decompression
Surgery.
Methods: The study was conducted on the 26 patients who were performed MVD in VietDuc Teaching
Hospital from 01/2011 to 03/2012. The result was evaluated on V.A.S Scale, BNI Scale and 03 months or more
after surgery.
Results: Twenty-six patients: 16 females (62%) and 10 males (38%). Age range from 30 to 77 years
olds. The right 5th nerve was found in 17 cases (65%) and left 5th nerve in 9 (35%). All the patients have
had severe trigeminal neuralgia (9 or 10 point of V.A.S). 50% of patients had pain more than 5 years. In
our series, the compression between artery and fifth nerve was identified in 20 cases (77%) and between
vein and fifth nerve in 5 cases; and no compression with vascular in one case. With an average follow up
period was one month with excellent result (VAS I, BNI) 85%; after 03 months was 81%; after 06 months
was 77%; and after one year was 75%.
Conclusion: MVD was effective and safe treatment for Trigeminal Neuralgia.
Key words: trigeminal neuralgia, microvascular decompression surgery
*Bệnh viện Việt Đức- Hà Nội
Tác giả liên lạc: BS Bùi Huy Mạnh Email: bhmanh0779@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 105
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau dây V là đau ở khu vực chi phối của
một hoặc nhiều nhánh của dây thần kinh số V.
Kinh điển là cơn đau đột ngột, ngắn, dữ dội,
đau nhói, dao đâm.. tái phát từng đợt và thường
một bên(9). Đau dây V đã được mô tả lần đầu tiên
năm 1671 bởi một thầy thuốc đồng thời là bệnh
nhân người Đức Johannes Laurentis Bausch(3).
Sau đó nhiều bác sĩ tiếp tục phát triển nghiên
cứu đau dây V, điển hình là năm 1756, Nicolaus
André đặt tên ‘Tic douloureux"(1). Qua nhiều
thập kỷ, các nguyên nhân đau dây V nguyên
phát còn chưa được rõ ràng, vì thế cho đến ngày
nay còn tồn tại nhiều phương pháp chữa trị: nội
khoa, ngoại khoa, tia xạ Điều trị phẫu thuật
dựa trên giả thiết cho rằng: mạch máu, thường
là động mạch chèn ép vào dây V nên gây triệu
chứng đau. Ngày nay, vẫn còn nhiều ý kiến về
nguyên nhân gây đau dây V nhưng giả thiết về
sự chèn ép của mạch máu não ngày càng được
nhiều người chấp nhận. Phương pháp phẫu
thuật giải ép thần kinh với mạch máu vào dây V
là phương pháp được đánh giá hiệu quả nhất
trong các can thiệp điều trị bệnh. Tại Bệnh viện
Việt Đức, chúng tôi đã áp dụng thành công
phẫu thuật này từ năm 2000. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi đánh giá một số kết quả sớm
điều trị vi phẫu thuật giải phóng chèn ép dây V
tại Bệnh viện HN Việt Đức.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu trên 26 bệnh nhân
đau dây V được chẩn đoán và điều trị bằng vi
phẫu thuật giải phóng chèn ép tại Bệnh viện
HN Việt Đức trong thời gian 15 tháng (từ 01-
01-2011 đến 31-03-2012). Tiêu chuẩn chọn
bệnh nhân: Các bệnh nhân được điều trị nội
khoa (Tegretol) hay các phương pháp khác
trước đó bị thất bại: không hoặc ít tác dụng,
các tác dụng phụ của thuốc làm ảnh hưởng
đến lao động, sinh hoạt và khả năng không
chịu nổi đau. Tất cả bệnh nhân được đánh giá
mức độ đau, những dấu hiệu lâm sàng dựa
trên mẫu bệnh án nghiên cứu. Nội dung
nghiên cứu là thời gian đau, mức độ đau, tiền
sử điều trị trước đó (điều trị nội, điều trị phẫu
thuật, điều trị tia xạ). Chỉ định mổ dựa trên
mức độ đau. Mô tả cách thức phẫu thuật: tư
thế mổ, vị trí mổ, sự chèn ép giữa động mạch,
tĩnh mạch với dây V hoặc màng nhện, hay bất
thường ở vùng góc cầu bên đau. Biến chứng
sau mổ được ghi nhận là: tử vong, liệt, chảy
máu, nhiễm trùng, đụng dập tiểu não, thiếu
máu não, rò nước não tuỷ, chóng mặt, ù tai,
nghe kém Khi bệnh nhân có tai biến hoặc
biến chứng, mô tả các nguyên nhân gây biến
chứng. Khám lại bằng cách khám trực tiếp
bệnh nhân tại Bệnh viện HN Việt Đức. Tiêu
chuẩn khám lại đánh giá bằng khám lâm sàng
dựa trên mức độ đau của bệnh nhân. Bệnh
nhân khám lâm sàng quan trọng nhất là thang
điểm chịu đau VAS và thang điểm BNI. Theo
bảng điểm đau VAS có 10 bậc chia ra bậc 0:
không đau; bậc 1-3:đau nhẹ; bậc 3-4:đau vừa;
bậc 5-6 đau nặng; bậc 7-8 đau rất nặng; bậc 9-
10: đau ghê gớm không chịu nổi(9).
Sau mổ bệnh nhân được khám lại ngay sau
mổ, sau 03 tháng, sau 06 tháng và sau 01 năm,
thăm khám trực tiếp. Kết quả khám lại quan
trọng nhất là còn đau hay không, có phải dùng
thuốc hỗ trợ, các tai biến, di chứng, mức độ ảnh
hưởng đến lao động và sinh hoạt của bệnh nhân
theo thang điểm VAS và BNI.
KẾT QUẢ
Trong thời gian 15 tháng, chúng tôi lựa chọn
được 26 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu
(Bảng 1). Phần lớn bệnh nhân có thời gian đau
dài hơn 3 năm và tất cả đã được điều trị nội
khoa những không khỏi bệnh (Bảng 2).
Bảng 1: Liên quan giữa tuổi và giới
Tuổi
Giới
30-40 41-50 51-60 61-70 Trên 71
Nam 0 3 3 2 2
Nữ 5 3 4 2 2
Tỷ lệ nữ gặp nhiều hơn nam, trong nghiên
cứu chúng tôi là nữ/nam = 1,6/1.
Trẻ tuổi nhất là 30 tuổi, cao nhất là 77 tuổi.
Bảng 3- Kiểu đau:
Điển hình Không điển hình Hỗn hợp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 106
Số BN 20 3 3
Tỷ lệ 77% 11,5% 11,5%
Kiểu đau điển hình gặp ở 77% số bệnh nhân
mổ, đau không điển hình và đau hỗn hợp có
11,5% mỗi trường hợp.
Bảng 4-Vị trí đau:
- Phải 17 (65%)
- Trái 9 (35%)
Bên đau
- 2 bên 0
V10
V2 4 (15,4%)
V310 (38,4%)
V1vàV2 4 (15,4%)
V2 và V3 6 (23,1%)
Vùng đau
V1+V2+V3 2 (7,7%)
Bên đau ưu thế hay gặp bên phải với 65%,
cũng có nhiều báo cáo nhưng không cho thấy
ưu thế bên đau có sự khác biệt giữa phải và trái.
Có một bệnh nhân đã có tiền sử mổ đau dây V
bên trái cách một năm kết quả tốt và lần này mổ
bên đối diện, bên phải. Chúng tôi không gặp
trường hợp nào đau hai bên trong số 26 bệnh
nhân.
Bảng 4: Xác định chèn ép trong mổ
Mạch máu tiếp cận dây V Trường hợp Tỷ lệ
1 Động mạch 20 77%
2 Tĩnh mạch 5 19,23%
3 Xơ dính, dày màng
nhện
1 3,77%
Đa số gặp nguyên nhân do động mạch chèn
ép 20/26 chiếm 77%. Do tĩnh mạch là 5/26
trường hợp, chiếm 19,23%. Một trường hợp
không có nguyên nhân chèn ép, do xơ dày dính
màng nhện, được giải phóng gỡ dính, tuy nhiên
mổ xong bệnh nhân kết quả rất tốt sau 06 tháng
theo dõi sau mổ. Có một bệnh nhân có hai động
mạch tiếp xúc ở vị trí góc cầu và vị trí gần thân
não; một bệnh nhân có 3 động mạch nhỏ tiếp
xúc vị trí góc cầu phía sau; có một bệnh nhân có
hai tĩnh mạch tiếp xúc.
Chúng tôi khám lại tại 26 bệnh nhân, đánh
giá kết quả bằng dựa theo phân loại VAS và BNI
(Barrow Neurological Institude Scoring System).
Kết quả khám lại được phân bố theo bảng 5.
Bảng 5: Đánh giá sau mổ theo thang điểm VAS và
BNI (Barrow Neurological Institude Scoring
system)(6)
Ngay sau
mổ
Sau mổ
03 tháng
Sau mổ 06
năm
Sau mổ
01 năm
Độ I (Rất tốt) 22 (85%) 21 (81%) 20 (77%) 9 (75%)
Độ II (Tốt) 3 (11,2%) 4 (15,2%) 4 (15,4%) 2 (17%)
Độ III (Kém) 1 (3,8%) 1 (3,8%) 2 (7,6%) 1 (8%)
Tổng 26 26 26 12
Phân loại theo BNI Ngay
sau
mổ
Sau mổ
03 tháng
Sau mổ
06 tháng
Sau mổ
01 năm
Độ I: Không
đau,không dùng thuốc
22
(85%)
21 (81%) 20 (77%) 9 (75%)
Độ II: Thỉnh thoảng
đau nhẹ, không dùng
thuốc
Độ III:
Độ IIIa: Không đau,
tiếp tục dùng thuốc
cần thiết
1
(3,8%)
1 (3,8%)
1 (8,3%)
Độ IIIb: Thỉnh thoảng
đau, kiểm soát đầy đủ
bằng thuốc
1
(3,8%)
2 (7,6%) 3
(11,6%)
1 (8,3%)
Độ IV: đau được cải
thiện, nhưng không
kiểm soát được bằng
thuốc
2
(7,4%)
2 (7,6%) 2 (7,6%) 1 (8,4%)
Độ V: Không giảm
chút nào
1 (3,8%)
Tổng 26 26 26 12
Tỷ lệ hết đau ngay sau mổ là 85%, sau 03
tháng là 81%, sau 06 tháng là 77%. Sau mổ 01
năm tỷ lệ hết đau là 75% (theo dõi được 12
bệnh nhân).
Biến chứng sau mổ
Không có bệnh nhân tử vong, không có
bệnh nhân bị di chứng nặng. Có một bệnh nhân
liệt mặt độ I bên mổ, một bệnh nhân chảy dịch
não tủy qua vết mổ, môt bệnh nhân đau tái lại
như cũ sau 06 tháng.
BÀN LUẬN
Trong tổng số 26 bệnh nhân có một chút
ưu thế phái nữ: 16 nữ và 10 nam. Tuổi thấp
nhất là 30 tuổi và cao nhất là 77 tuổi. Số bệnh
nhân già trên 71 tuổi chỉ có 4 bệnh nhân. Cả 4
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 107
bệnh nhân giảm đau hoàn toàn sau mổ, sau 6
tháng hai trong số đó giảm đau không hoàn
toàn, phải dùng thuốc khống chế cơn đau.
Phần lớn bệnh nhân trên 70 tuổi được chỉ
định điều trị nội, hoặc tiêm huyết thanh nóng,
diệt hạch bằng phương pháp
termocoagulation. Bệnh nhân trên 70 tuổi ít
chỉ định phẫu thuật do nguy cơ biến chứng
của phẫu thuật vì thể trạng chung và các bệnh
mắc phải: tim mạch, huyết áp, tiểu đường....
Những bệnh nhân trên 70 tuổi được chỉ định
mổ do bệnh nhân đã điều trị tất cả các
phương pháp khác như điều trị nội không
khỏi, tiêm huyết thanh nóng không hiệu quả.
Hay bệnh nhân dị ứng với Tergretol. Tại Việt
Nam, bệnh nhân cao tuổi nhất được ghi nhận
khi mổ là 82 tuổi(4). Một nghiên cứu của
Raymond F.Sekula và cộng sự nghiên cứu
nhóm 36 bệnh nhân cao tuổi (trung bình
72,0±5,9) và 53 bệnh nhân nhóm trẻ hơn
(52,9±8,8) mổ giải ép dây V cho kết quả tốt
như nhau(8). Tuy nhiên, nên thận trọng khi chỉ
định mổ những bệnh nhân trên 70 tuổi.
Thời gian đau trước khi đến mổ: 50% bệnh
nhân đau trên 5 năm. Trong thời gian này, bệnh
nhân đau nhiều nhưng giảm đau khi dụng
thuốc Tergretol. Thời gian đau dài hay ngắn
trước mổ không ảnh hưởng nhiều tới kết quả
phẫu thuật. Nhưng kiểu đau trước khi mổ là
dấu hiệu tiên lượng kết quả phẫu thuật: đau
điển hình theo cơn, đau như điện giật, có điểm
Trigger zone kết quả thường tốt. Chúng tôi có
77% bệnh nhân đau điển hình (20/26) thì 18
trong số đó giảm đau hoàn toàn chiếm 90%; có
11,5% (03 bệnh nhân) bệnh nhân đau không
điển hình và 11,5% đau hỗn hợp thì trong số đó
giảm đau hoàn toàn là 01 bệnh nhân chiếm 33%.
Nhiều tác giả cho rằng: đau liên tục ít khi khỏi
sau phẫu thuật giải phóng chèn ép. Trong
nghiên cứu của Võ Văn Nho và Hitotsumatsu(6)
cũng đã lưu ý đến tình huống này.
Vị trí bên đau ưu thế bên phải chiếm 65%,
bên trái 35%. Ưu thế này gặp ở nhiều báo cáo,
nhưng không ảnh hưởng đến kết quả sau mổ.
Vùng đau ưu thế là V3 chiếm 38,4%, Võ Văn
Nho cũng là V3 chiếm 36,5% (72/197 bệnh nhân),
nghiên cứu của Jannetta ở 1.204 bệnh nhân thì
vùng ưu thế là V2+V3 với 35%(8).
Tỷ lệ chèn ép xác định được trong mổ là
96,23% (do động mạch 77%, tĩnh mạch là
19,23%), kết quả của của Đồng Văn Hệ là
94,3%(4) và Võ Văn Nho là 78,6%. Trên nghiên
cứu của P. Jannetta có tỷ lệ mạch chèn ép là
85%(7). Chúng tôi gặp 1 trường hợp dày dính
màng nhện, không có tiếp xúc mạch máu- thần
kinh. Tuy nhiên mổ giải phóng màng nhện đơn
thuần, kết quả tốt sau mổ thời gian theo dõi 06
tháng. Có 2 bệnh nhân có trên hai nguyên nhân
chèn ép: một bệnh nhân có 2 tĩnh mạch chèn ép
và một bệnh nhân có 3 động mạch chèn ép, cả
hai đều hết đau sau mổ. Nhiều tác giả cho kết
quả có nhiều bệnh nhân có hơn một nguyên
nhân chèn ép, có khi ở các vị trí góc khuất của
kính vi phẫu (thân não, hố Meckel), do đó xu
hướng ngày nay người ta đưa nội soi vào hỗ trợ
trong mổ tìm thêm nguyên nhân.
Đa số bệnh nhân hết đau không dùng thuốc:
ngay sau mổ là 85%, sau 03 tháng là 81%, sau 06
tháng là 77%. Tác giả Đồng Văn Hệ trên 89 bệnh
nhân có tỷ lệ hết đau ngay sau mổ là 80,9%(4); Võ
Văn Nho cho kết quả rất tốt 85,7%. Cũng chung
kết quả khỏi bệnh khả quan như vậy, Jannetta là
83,5%(7) và Apfelbaum là trên 90%(2). Sau 01 năm
theo dõi được 12 bệnh nhân tỷ lệ hết đau còn
9/12 chiếm 75%, tỷ lệ này P.Jannetta là 80%.
Chúng tôi sử dụng phân loại VAS dễ hiểu
và đánh giá khái quát kết quả sau mổ, Thang
điểm BNI chi tiết hơn để biết tình trạng bệnh
nhân đau lại một phần sau mổ sử dụng thuốc,
đáp ứng của thuốc, có liên quan đến chất
lượng cuộc sống.
Không có bệnh nhân tử vong hay di chứng
nặng trong lô nghiên cứu. Có một bệnh nhân
liệt mặt độ I, một bệnh nhân chảy dịch não tủy
qua vết mổ sau 1 tuần, chụp CT Scanner không
giãn não thất, được khâu lại sau đó ổn định.
Một bệnh nhân đau lại như cũ sau 6 tháng
Nghiên cứu trên của chúng tôi còn hạn chế
về số lượng bệnh nhân cũng như thời gian
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 108
nghiên cứu. Hơn nữa phẫu thuật Jannetta đưa
vào áp dụng ở nước ta chưa nhiều thời gian, có
nhiều khó khăn trong việc lựa chọn bệnh nhân
và sự đồng thuận về chuyên môn. Cần có sự
phối hợp giữa các trung tâm đánh giá tổng
quan, theo dõi lâu dài kết quả từ đó đưa ra các
chi tiết về chỉ định, kỹ thuật áp dụng cho phù
hợp với nước ta.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật giải áp vi mạch cho đau dây V là
sự lựa chọn đáng tin cậy trong một số trường
hợp bệnh nhân đau dây V điển hình nguyên
phát, điều trị nội khoa hay các phương pháp
khác thất bại, trên phim cộng hưởng từ xác định
được có chèn ép mạch máu thần kinh. Mặc dù
còn tồn tại nhiều phương pháp điều trị, nhưng
với sự lựa chọn bệnh nhân chặt chẽ dường như
mổ giải áp dây V là phương pháp an toàn và có
hiệu quả rất cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. André M (1756). Practical observations on urethral diseases, and
factual information on convulsive facial contortions with
principles for cure of associated gangrenous and cancerous
conditions by use of various solvents and caustics. College of the
Royal Academy (in French).Paris, De Chir.rue S. Jacq. A
l’Olivier.
2. Apfelbaum RI (2002). Comparison of the long-term result of
microvascular decompression trigerminal neurolysis for the
treatment of trigerminal neuralgia. In: Watanabe K.
Development in Neuroscience. Elsevier Science B.V, 629-643.
3. Cole CD, Liu JK, Appelbaum RI (2005). Historical perspectives
on the diagnosis and treatment of trigerminal neuralgia.
Neurosurg Focus 18:E4.
4. Đồng Văn Hệ (2009). Điều trị đau dây V bằng phẫu thuật giải
phóng chèn ép mạch máu. Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, Hà
Nội, Y học thực hành.
5. Eboli P, James L, Konstantin V (2009). Historical
Characterization Of trigerminal neuralgia. Neurosurgery
64:1183-1187.
6. Hitotsumatsu T, Matsushima T, Inoue T (2003). Microvascular
decompression for treatment of trigerminal neuralgia, hemifacial
spasmand glossopharyngeal neuralgia: Three surgical approach
variations: Technical note. Neurosurg 53:1436-1443.
7. Jannetta PJ (1996). Microvascular Decompression of the
Trigerminal nerve for Tic douloureux. In Youmans Neurological
Surgery, 4th edition, volume 5, pp 3404-15. Saunders Company.
8. Raymond F, Sekula JR (2011). Microvascular decompression for
elderly patients with trigerminal neuralgia: a prospective study
and systematic review with meta-analysis, J Neurosurg 114:172-
179.
9. Report of the Quality Standards Subcommmitte of the American
Academy of Neurology and the European Federation of
Neurological Societies (2008). Neurology (PubMed)
10. Salama H (2009). Outcome of medical and surgical management
in intractable idiopathic trigeminal neuralgia. Annals of Indian
Academy Neurol (PubMed) Jul-Sep, 12(3):173-178.