Một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng liên quan đến nhạy cảm ngà răng

Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng đối với tình trạng nhạy cảm ngà răng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả khảo sát trên 871 người trưởng thành tại nội thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Khảo sát một số đặc điểm về dinh dưỡng và thói quen ăn uống bằng bảng câu hỏi và khám lâm sàng đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà bằng kích thích cọ xát và kích thích thổi hơi. Kết quả: Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm sử dụng thường xuyên thực phẩm nhiều a-xít cao hơn so với nhóm đối tượng không sử dụng thường xuyên, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở các nhóm sử dụng thường xuyên sữa và sản phẩm từ sữa thấp hơn so với nhóm không sử dụng thường xuyên khi xét ở ngoại thành (p<0,05) và trên toàn bộ mẫu nghiên cứu. Không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nhạy cảm ngà giữa nhóm có và không bổ sung can-xi, có và không hút thuốc lá. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm nữ chưa sinh con thấp hơn so với nhóm đã sinh 1 đến 2 con, và sinh 3 đến 5 con, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Thói quen ăn uống và dinh dưỡng có ảnh hưởng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng. Người thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 3,4 lần so với người không thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít [KTC95%: 1,8-6,5]. Mức nguy cơ nhạy cảm ngà của đối tượng nữ có sinh con cao gấp 2,6 lần so với đối tượng nữ chưa sinh con [KTC95%: 1,8-5,8]

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng liên quan đến nhạy cảm ngà răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 150 MỘT SỐ YẾU TỐ VỀ THÓI QUEN ĂN UỐNG VÀ DINH DƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN NHẠY CẢM NGÀ RĂNG Nguyễn Thị Thư *, Bùi Tuấn Anh **, Hoàng Đạo Bảo Trâm* TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng đối với tình trạng nhạy cảm ngà răng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả khảo sát trên 871 người trưởng thành tại nội thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Khảo sát một số đặc điểm về dinh dưỡng và thói quen ăn uống bằng bảng câu hỏi và khám lâm sàng đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà bằng kích thích cọ xát và kích thích thổi hơi. Kết quả: Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm sử dụng thường xuyên thực phẩm nhiều a-xít cao hơn so với nhóm đối tượng không sử dụng thường xuyên, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở các nhóm sử dụng thường xuyên sữa và sản phẩm từ sữa thấp hơn so với nhóm không sử dụng thường xuyên khi xét ở ngoại thành (p<0,05) và trên toàn bộ mẫu nghiên cứu. Không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nhạy cảm ngà giữa nhóm có và không bổ sung can-xi, có và không hút thuốc lá. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm nữ chưa sinh con thấp hơn so với nhóm đã sinh 1 đến 2 con, và sinh 3 đến 5 con, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Thói quen ăn uống và dinh dưỡng có ảnh hưởng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng. Người thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 3,4 lần so với người không thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít [KTC95%: 1,8-6,5]. Mức nguy cơ nhạy cảm ngà của đối tượng nữ có sinh con cao gấp 2,6 lần so với đối tượng nữ chưa sinh con [KTC95%: 1,8-5,8]. Từ khóa: nhạy cảm ngà, thói quen ăn uống, dinh dưỡng. ABSTRACT NUTRITION AND ALIMENTATION HABITS RELATED TO DENTINE HYPERSENSITIVITY Nguyen Thi Thu, Bui Tuan Anh, Hoang Dao Bao Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 150 - 156 Objectives: The study was perfomed to determine the relationship between nutrition factors and alimention habits and dentine hypersensitivity. Methods: This cross-sectional study was realized on 871 adults living in the urbal/rural of HCM city. Subjects were clinically examined the dentine hypersensitivity by applying tactile and evaporative stimuli. Some nutrition factors and alimention habits were recorded by a questionnaire. Results: The dentine hypersensitivity was significantly higher in the groups with high-frequency of acidic alimentation (p<0.001). The dentine hypersensitivity was lower in the groups with high-frequency of milk products consuming at rural area (p<0.05) and in the whole samples. There was no significant difference between groups in related to consumption of calcium supplementaion and smoking. The dentine hypersensitivity was significantly lower in women who has not passed a delivery than women with 1-2, and 3-5 children. Conclusions: Nutrition and alimention habits had impacts on the dentine hypersensitivity. The risk of dentine * Bộ môn NKCS - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM ** Học viên Cao học Khóa 2008-2010, Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: Nguyễn Thị Thư ĐT: 0907982880 Email: nththu81@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 151 hypersensitivity was 3.4 times higher in acidic alimentation consumers than ordinary subjects [CI 95%: 1.8-6.5], and 2.6 times higher in women who has given births than whom not passed a delivery [CI 95%: 1.8-5.8]. Key words: dentine hypersensitivity, alimentation habits, nutrition. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhạy cảm ngà răng là một tình trạng phổ biến. Cảm giác đau nhói đặc trưng của nhạy cảm ngà chân răng xảy ra khi có kích thích cơ học, nhiệt độ, hóa chất hoặc áp lực thẩm thấu tác động lên vùng ngà răng bị lộ. Tình trạng này thường là kết quả của quá trình men răng bị mòn do tác động ăn mòn hóa học, mài mòn do tiếp xúc khớp cắn, và cọ mòn do ma xát với các yếu tố ngoại lai, hoặc bề mặt chân răng bị lộ do tụt nướu hoặc sau điều trị nha chu. Nhiều yếu tố có thể có liên quan đến nhạy cảm ngà, trong đó có các yếu tố về tình trạng của răng và nha chu, chế độ ăn uống, thói quen vệ sinh và chăm sóc răng miệng Cân bằng thành phần khoáng của răng ở bề mặt tiếp xúc với môi trường miệng có thể bị tác động, khi có sự tiếp xúc tái diễn với các chất có tính a-xít vượt quá ngưỡng sửa chữa và/hoặc đệm của hệ thống bảo vệ. Mỗi cá thể có một ngưỡng ở đó hiện tượng mòn răng khởi phát, phụ thuộc mức độ hoạt động của các yếu tố điều hòa, bảo vệ hay yếu tố nguy cơ. Nhiều bằng chứng thực nghiệm và dịch tễ cho thấy thức ăn và đồ uống có tính a-xít là những yếu tố dẫn đến ăn mòn răng. Y văn ghi nhận tỷ lệ mòn răng tăng lên liên quan đến những thay đổi về chế độ thức ăn, đặc biệt ở người trẻ và trẻ em, với mức tăng số lượng và tần suất sử dụng nước trái cây, đồ uống có ga (có đường hoặc không đường), đồ uống bồi phụ nước sử dụng trong thể thao. Trong khi đó, các loại thực phẩm khác có tính truyền thống hơn như trái cây, chanh (sử dụng trực tiếp), đồ hộp có dấm, rau trộn được xác định là những yếu tố nguy cơ làm tăng mức độ mòn răng. Rượu vang cũng là một yếu tố có tính a-xít; các trường hợp ăn mòn răng quan sát được ở người sử dụng rượu vang thường xuyên. Một số thuốc, đặc biệt khi tự ý sử dụng trong thời gian dài, có tiềm năng gây ra sự tấn công của a-xít, đặc biệt là a-xít ascorbic (vitamin C) dạng viên, và một số dung dịch súc miệng. Sử dụng thuốc an thần (3,4 methylendioxy-methamphetamine) làm giảm tiết nước bọt; sử dụng phối hợp các đồ uống có tính a-xít với một khối lượng lớn nhằm đạt cân bằng nước có thể là yếu tố liên quan đến hiện tượng ăn mòn răng. Bên cạnh nguồn a-xít ngoại sinh, nguồn a-xít nội sinh đáng kể duy nhất là dịch trào ngược từ dạ dày lên khoang miệng, tuy nhiên nguyên nhân khá đa dạng. Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về tình trạng nhạy cảm ngà đã được thực hiện, trong đó có nghiên cứu của Tống Minh Sơn khảo sát tình trạng nhạy cảm ngà răng và một số yếu tố liên quan ở nhân viên công ty Bảo hiểm Nhân thọ tại Hà Nội(5). Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng đối với tình trạng nhạy cảm ngà răng. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện từ 6/2013 đến 6/2014, khảo sát trên 871 người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên sinh sống tại nội thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Tiêu chí chọn mẫu Từ 18 tuổi trở lên. Đang cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh liên tục từ 24 tháng trở lên. Sức khỏe toàn thân và tâm thần ổn định. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Có từ 20 răng trở lên không thuộc tiêu chí răng bị loại khỏi mẫu. Tiêu chí loại ra Đối với đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 152 Không có khả năng tự trả lời câu hỏi hoặc đang điều trị tâm lý. Đang có thai hoặc cho con bú. Đang điều trị nhạy cảm ngà trong vòng 2 tuần. Đang dùng thuốc kháng viêm, giảm đau trong vòng 2 tuần. Trám răng, phẫu thuật nha chu, chỉnh nha trong vòng 3 tháng. Đối với răng nghiên cứu Răng sâu, bể/vỡ, có phục hồi lớn hơn 1/4 thân răng. Răng có phục hồi ở mặt ngoài hay vùng cổ răng. Răng chết tủy hoặc đã điều trị nội nha. Răng bọc mão hoặc mang các phần tựa của phục hình. Phương tiện nghiên cứu Bảng câu hỏi. Phiếu khám. Bộ đồ khám: khay, gương, kẹp gắp, thám trâm. Đầu xịt hơi và máy nén hơi nha khoa. Các phương tiện và hóa chất khử trùng. Phương pháp thu thập số liệu Hỏi bằng bảng câu hỏi soạn sẵn Khảo sát một số đặc điểm về tiền sử toàn thân, dinh dưỡng và thói quen ăn uống liên quan đến hiện tượng mòn răng và nhạy cảm ngà. Khám lâm sàng Bệnh nhân được hướng dẫn chải sạch răng bằng bàn chải lông mềm và kem đánh răng thông thường, không có chất chống nhạy cảm ngà. Khám đánh giá tình trạng răng miệng tổng quát của bệnh nhân. Số liệu thu thập cho nghiên cứu được ghi nhận trên tất cả 28 răng trên hai cung hàm (trừ các răng khôn và các răng không đạt tiêu chuẩn đánh giá, bị loại khỏi mẫu). Nhạy cảm ngà được đánh giá bằng hai phương pháp là kích thích cọ xát và kích thích thổi hơi, ghi nhận mức độ nhạy cảm ngà theo thang điểm từ 0-3. Phương pháp xử lý số liệu Bảng câu hỏi sau khi được thu thập sẽ được nhập và làm sạch bằng phần mềm Epi Data 3.2. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 10. Thống kê mô tả: Các biến định tính được mô tả bằng tần số và tỷ lệ phần trăm. Các biến định lượng được mô tả bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Thống kê phân tích Dùng phép kiểm χ² để so sánh tỷ lệ phần trăm của các biến định tính. Dùng kiểm định t, phép kiểm Anova để so sánh giá trị trung bình. Sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố và nhạy cảm ngà. KẾT QUẢ Nghiên cứu khảo sát tình trạng nhạy cảm ngà răng và một số yếu tố liên quan, thực hiện từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. Mẫu nghiên cứu gồm 871 người trưởng thành, tuổi từ 18 đến 79 (35,92 ± 12,43), trong đó có 625 người ở nội thành (71,8%) và 246 (28,2%) người ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh. Một số thói quen ăn uống, dinh dưỡng và tình trạng toàn thân liên quan Bảng 1 mô tả tỷ lệ các đối tượng sử dụng thường xuyên hay không thường xuyên một số loại thực phẩm có tính a-xít bao gồm nước có ga, nước trái cây, trái cây, các loại thực phẩm là nguồn bổ sung can-xi theo đường toàn thân là sữa và các sản phẩm từ sữa, và uống bổ sung can-xi. Bảng 1. Một số thói quen ăn uống và dinh dưỡng của người trưởng thành tại TpHCM (n;%) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 153 Sử dụng thực phẩm nhiều a-xít Nội thành 625 (71,8%) Ngoại thành 246 (28,2%) TpHCM 871 (100%) Nước có ga/ nước trái cây / trái cây Thường xuyên 580 (92,8) 227 (92,3) 807 (92,6) Không th/xuyên 45 (7,2) 19 (7,7) 64 (7,4) Sữa /sản phẩm sữa Thường xuyên 356 (57) 66 (26,8) 422 (48,5) Không th/xuyên 269 (43) 180 (73,2) 449 (51,5) Bổ sung can-xi Thường xuyên 80 (12,8) 7 (2,9) 57 (6,5) Không th/xuyên 545 (87,2) 239 (97,1) 814 (93,5) Hút thuốc lá Có 182 (29,1) 57 (23,2) 239 (27,4) Không 443 (70,9) 189 (76,8) 632 (72,6) Phân tích tình trạng nhạy cảm ngà răng ở các nhóm đối tượng có thói quen sử dụng thực phẩm khác nhau, kết quả ghi nhận tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm sử dụng thường xuyên thực phẩm nhiều a-xít (nước có ga và/hoặc nước trái cây và/hoặc trái cây) cao hơn so với nhóm đối tượng không sử dụng thường xuyên, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở cả nội thành, ngoại thành và ở toàn bộ mẫu nghiên cứu (p<0,001) (Bảng 2). Đối với việc sử dụng sữa và sản phẩm từ sữa, tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở các nhóm sử dụng thường xuyên thấp hơn so với nhóm không sử dụng thường xuyên khi xét ở các đối tượng ngoại thành và khi xét trên toàn bộ mẫu nghiên cứu, trong đó khác biệt có ý nghĩa thống kê ghi nhận được ở vùng ngoại thành (p<0,05). Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê khi xét ở nội thành (Bảng 3). Bảng 2. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo tần suất sử dụng thực phẩm a-xít Nước có ga/ Nước trái cây/ Trái cây Thường xuyên Không thường xuyên p Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nội thành 86% 14% 64,4% 35,6% <0,001 Ngoại thành 90,8% 9,2% 68,4% 31,6% <0,005 Tp HCM 87,4% 12,6% 65,6% 34,4% <0,001 Bảng 3. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo tần suất sử dụng sữa / sản phẩm sữa Sữa / Sản phẩm từ sữa Thường xuyên Không thường xuyên p Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nội thành 86,2% 13,8% 82,2% 17,8% >0,05 Ngoại thành 81,8% 18,2% 91,7% 8,3% <0,05 Tp HCM 85,6% 14,4% 86% 14% >0,05 Về chế độ bổ sung can-xi, không thấy khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm có và không bổ sung can-xi, khi xét ở mỗi vùng nội thành và ngoại thành (p>0,05). Khi xét trên toàn bộ mẫu nghiên cứu, tỷ lệ nhạy cảm ngà ở nhóm có bổ sung can-xi cao hơn so với nhóm không bổ sung can-xi, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) (Bảng 4). Bảng 4. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm đối tượng có và không bổ sung can-xi thường xuyên Bổ sung can-xi Thường xuyên Không thường xuyên p Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nội thành 91,3% 8,7% 83,5% 16,5% >0,05 Ngoại thành 85,7% 14,3% 89,1% 10,9% >0,05 Tp HCM 94,7% 5,3% 85,1% 14.9% <0,05 Khi đánh giá tỷ lệ nhạy cảm ngà trên các nhóm đối tượng có và không hút thuốc lá, không ghi nhận được khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng này (Bảng 5). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 154 Bảng 5. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở đối tượng có và không hút thuốc lá Hút thuốc lá Không hút thuốc lá p Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm ngà Nội thành 86,3% 13,7% 83,7% 16,3 >0,05 Ngoại thành 86% 14% 90% 10% >0,05 Tp HCM 86,2 13,8% 85,6 14,4% >0,05 Khi xét theo tần suất sinh con trên đối tượng nữ, tỷ lệ nhạy cảm ngà răng ở nhóm nữ chưa sinh con thấp hơn so với nhóm đã sinh 1 đến 2 con, và sinh 3 đến 5 con, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001) (Bảng 6). Bảng 6. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo tần suất sinh con ở nữ. Tần suất sinh con 0 1 - 2 lần > 2 lần (3-5) p Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm Nhạy cảm ngà Không nhạy cảm Nội thành 76,7% 23,3 93,2% 6,8% 91,3% 8,7% <0,001 Ngoại thành 69,9% 30,1% 95,8% 4,2% 100% 0% <0,001 Tp HCM 75% 25% 94,1% 5,9% 95,1% 4,9% <0,001 Phân tích hồi quy logistic cho thấy tuổi là yếu tố gây nhiễu trong mối liên quan giữa biến số tần suất sinh con và tình trạng nhạy cảm ngà ở nữ. Mức nguy cơ nhạy cảm ngà của đối tượng nữ có sinh con, sau khi đã hiệu chỉnh khi xét yếu tố tuổi, cao gấp 2,6 lần so với đối tượng nữ chưa sinh con [KTC 95%: 1,8-5,8]. Mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy yếu tố có liên quan có ý nghĩa với tình trạng nhạy cảm ngà răng là sử dụng thực phẩm nhiều a-xít thường xuyên. Người thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 3,4 lần so với người không thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít [KTC 95%: 1,8-6,5]. BÀN LUẬN Các tổn thương mòn cổ răng thường là kết quả của một quá trình tích lũy nhiều yếu tố tác động phối hợp. Cơ chế mòn răng do cọ xát liên quan đến chế độ ăn và thói quan vệ sinh răng miệng. Tuy nhiên mòn răng không chỉ là kết quả của quá trình mài mòn do tiếp xúc mà còn phụ thuộc cường độ ăn mòn hóa học. Yếu tố này liên quan đến chế độ ăn, chức năng nước bọt và sự hiện diện của dịch có tính a-xít. Tốc độ của quá trình mòn răng chịu ảnh hưởng của các yếu tố làm trầm trọng và các yếu tố bảo vệ. Khác với mặt nhai, mức độ mòn mặt ngoài và mặt trong, đặc biệt ở một phần ba cổ răng, không chịu ảnh hưởng của một yếu tố chủ yếu. Mỗi cá thể có một ngưỡng ở đó hiện tượng mòn răng khởi phát, phụ thuộc mức độ hoạt động của các yếu tố điều hòa, bảo vệ hay yếu tố nguy cơ. Khi khảo sát một số thói quen và chế độ ăn uống có thể liên quan đến tình trạng nhạy cảm ngà răng, kết quả cho thấy tỷ lệ người có nhạy cảm ngà răng cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê ở nhóm thường xuyên sử dụng nước có ga và/hoặc nước trái cây và/hoặc trái cây. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Tống Minh Sơn và nhiều tác giả trên thế giới(1,5). Có thể thấy các yếu tố tại chỗ tác động đến môi trường miệng có ảnh hưởng rõ ràng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng. Môi trường miệng có ảnh hưởng thường xuyên và lâu dài đối với sức khỏe răng miệng. Cân bằng thành phần khoáng của răng ở bề mặt tiếp xúc với môi trường miệng có thể bị tác động khi có sự tiếp xúc tái diễn với các chất có tính a-xít vượt quá Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 155 khả năng đệm của nước bọt và ngưỡng hồi phục hoàn nguyên của mô răng. Nhiều tác giả dự đoán rằng trong tương lai, tỷ lệ nhạy cảm ngà sẽ tăng lên ở nhóm đối tượng trẻ tuổi hơn do việc tăng sử dụng thực phẩm có nhiều a-xít, và tăng ý thức và các biện pháp vệ sinh răng miệng(2,3). Ngoài nguồn a-xít từ thực phẩm, một số nguồn khác cũng có thể có tác động đến môi trường miệng như sử dụng thuốc, nước, không khí. Tuy nhiên, các yếu tố này thường thể hiện trong những điều kiện đặc thù như đối tượng có bệnh toàn thân, mãn tính, phơi nhiễm nghề nghiệp, và do đó không nằm trong mục tiêu và đối tượng được khảo sát trong nghiên cứu. Sử dụng sữa và bổ sung can-xi thường xuyên cũng có thể là một yếu tố tác động có ý nghĩa với vai trò cung cấp nguồn chất khoáng theo đường toàn thân ở người trưởng thành đã qua giai đoạn hình thành răng. Trong nghiên cứu này, khi xét chế độ sử dụng sữa / sản phẩm từ sữa và bổ sung can-xi theo đường toàn thân, kết quả cho thấy tỷ lệ nhạy cảm ngà răng thấp hơn ở nhóm sử dụng thương xuyên sữa và sản phẩm từ sữa (khác biệt có ý nghĩa ở ngoại thành), và nhóm bổ sung can-xi thường xuyên (khác biệt có ý nghĩa khi xét toàn bộ mẫu nghiên cứu). Khi xét theo yếu tố có và không hút thuốc lá, trong nghiên cứu này, không ghi nhận được khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm nhóm đối tượng có và không hút thuốc lá. Kết quả nghiên cứu của Rees và cộng sự cũng ghi nhận không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ nhạy cảm ngà giữa nhóm đối tượng không hút thuốc, có hút thuốc và đã từng hút thuốc(4). Trong một khảo sát lâm sàng kết hợp phỏng vấn 104 đối tượng nghiên cứu, Yoshikazu cũng không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa khi xét yếu tố hút thuốc lá(6). Khi xét ở đối tượng phụ nữ, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhạy cảm ngà răng thấp nhất ở phụ nữ chưa sinh con, và tăng dần theo tần suất sinh con, cao nhất ở nhóm đối tượng phụ nữ sinh 3 - 5 con; khác biệt có ý nghĩa thống kê. Phân tích hồi quy logistic cho thấy mức nguy cơ nhạy cảm ngà của đối tượng nữ có sinh con trong nghiên cứu này, sau khi đã hiệu chỉnh khi xét yếu tố tuổi, cao gấp 2,6 lần so với đối tượng nữ chưa sinh con. Trong giai đoạn thai nghén và sau khi sinh con, sinh hoạt và thể trạng của người phụ nữ có nhiều thay đổi, như các yếu tố về dinh dưỡng, vệ sinh răng miệng, tình trạng răng và nha chu. Một trong các yếu tố có thể kể đến là biểu hiện buồn nôn và nôn. Nôn tự phát hoặc có nguyên nhân, như tình trạng thai nghén, có thể tác động đến quá trình ăn mòn răng. Trong đó, cường độ, tần suất, và nhất là thời gian tích lũy tiếp xúc với a-xít là những yếu tố ảnh hưởng đến tiến triển mòn răng. Bên cạnh đó, tuổi cũng có thể là một yếu tố liên quan đến tỷ lệ nhạy cảm ngà răng cao ở phụ nữ sinh nhiều con. KẾT LUẬN Nghiên cứu khảo sát trên 871 người trưởng thành tại nội thành và ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. Trong khuôn khổ của đề tài, kết quả nghiên cứu ghi nhận được một số yếu tố về thói quen ăn uống và dinh dưỡng có ảnh hưởng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng. Người thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 3,4 lần so với người không thường xuyên sử dụng thực phẩm nhiều a-xít [KTC95%: 1,8-6,5]. Mức nguy cơ nhạy cảm ngà của đối tượng nữ có sinh con cao gấp 2,6 lần so với đối tượng nữ chưa sinh con [KTC95%: 1,8- 5,8]. Không thấy khác biệt về tỷ lệ nhạy cảm ngà giữa các nhóm đối tượng có và không sử dụng thường xuyên sữa / sản phẩm từ sữa, bổ sung can-xi, hút thuốc lá. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản