Mở đầu: Ức chế hạ đồi-tuyến yên-thượng thận là một biến chứng thường gặp do dùng glucocorticoid dài
hạn. Nghiệm pháp Synacthen (ACTH tổng hợp) có thể dùng đánh giá trục hạ đồi tuyến yên thượng thận ở
những người có suy thượng thận thứ phát dài hạn.
Mục tiêu: Đánh giá nghiệm pháp synacthen ngắn 250µg dùng trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát
trên bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn, so sánh với nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang, thực hiện tại khoa Nội tiết, bệnh viện Nhân
dân 115 từ 2/2009 tới 4/2011. Chọn bệnh nhân từ 16 tới 70 tuổi, đang dùng glucocorticoid dài hạn đang trong
giai đoạn liều thấp duy trì, có chỉ định đánh giá chức năng vỏ thượng thận. Bệnh nhân được làm nghiệm pháp
Synacthen tác dụng ngắn 250µg (đo cortisol huyết tương 0 phút trước, 30 phút và 60 phút sau tiêm Synacthen),
sau đó ít nhất 3 ngày thực hiện nghiệm pháp hạ dường huyết bằng insulin. Chẩn đoán suy thượng thận dựa vào
cortisol huyết tương tối đa <= 18mcg/dL trong nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin.
Kết quả: Có 70 bệnh nhân, tuổi trung bình 36 ± 12 năm, 64% (45/70) là nữ. Tỉ lệ bệnh nhân suy thượng
thận là 68,6% (48/70 bệnh nhân). Trong nghiệm pháp synacthen, cortisol huyết tương trung bình lúc 0 phút là
8,0±4,4µg/dL, lúc 30 phút là 18,2±7,9µg/dL, lúc 60 phút là 20,4±9,0µg/dL. Cortisol huyết tương tối đa sau tiêm
Synacthen là 20,6±8,9µg/dL cao hơn có ý nghĩa so với cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường
huyết là 15,3±6,5µg/dL (p=0,0001). Sự tương quan giữa nồng độ cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
Synacthen và nồng độ cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết có ý nghĩa với r=0,78 (95%
KTC 0,66–0,85), p < 0,001). Diện tích dưới đường cong ROC (receiver operating characteristic) của cortisol
huyết tương tối đa trong nghiệm pháp Synacthen là 0,89 (95% KTC: 0,79-0,95; p=0,0001). Chúng tôi chọn
ngưỡng cortisol 23,9µg/dL để chẩn đoán suy thượng thận thứ phát với độ nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 72,7%.
Kết luận: Nghiệm pháp Synacthen ngắn 250µg với ngưỡng cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
23,9µg/dL có giá trị để đánh giá chức năng của hạ đồi–tuyến yên–thượng thận ở những người dùng
glucocorticoid dài hạn trước khi ngưng thuốc.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiệm pháp Synacthen 250µg đánh giá dự trữ hạ đồi tuyến yên - thượng thận ở bệnh nhân dùng Corticoid dài hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 369
NGHIỆM PHÁP SYNACTHEN 250µg ĐÁNH GIÁ DỰ TRỮ HẠ ĐỒI-
TUYẾN YÊN-THƯỢNG THẬN Ở BỆNH NHÂN DÙNG CORTICOID DÀI HẠN
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thy Khuê*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ức chế hạ đồi-tuyến yên-thượng thận là một biến chứng thường gặp do dùng glucocorticoid dài
hạn. Nghiệm pháp Synacthen (ACTH tổng hợp) có thể dùng đánh giá trục hạ đồi tuyến yên thượng thận ở
những người có suy thượng thận thứ phát dài hạn.
Mục tiêu: Đánh giá nghiệm pháp synacthen ngắn 250µg dùng trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát
trên bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn, so sánh với nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang, thực hiện tại khoa Nội tiết, bệnh viện Nhân
dân 115 từ 2/2009 tới 4/2011. Chọn bệnh nhân từ 16 tới 70 tuổi, đang dùng glucocorticoid dài hạn đang trong
giai đoạn liều thấp duy trì, có chỉ định đánh giá chức năng vỏ thượng thận. Bệnh nhân được làm nghiệm pháp
Synacthen tác dụng ngắn 250µg (đo cortisol huyết tương 0 phút trước, 30 phút và 60 phút sau tiêm Synacthen),
sau đó ít nhất 3 ngày thực hiện nghiệm pháp hạ dường huyết bằng insulin. Chẩn đoán suy thượng thận dựa vào
cortisol huyết tương tối đa <= 18mcg/dL trong nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin.
Kết quả: Có 70 bệnh nhân, tuổi trung bình 36 ± 12 năm, 64% (45/70) là nữ. Tỉ lệ bệnh nhân suy thượng
thận là 68,6% (48/70 bệnh nhân). Trong nghiệm pháp synacthen, cortisol huyết tương trung bình lúc 0 phút là
8,0±4,4µg/dL, lúc 30 phút là 18,2±7,9µg/dL, lúc 60 phút là 20,4±9,0µg/dL. Cortisol huyết tương tối đa sau tiêm
Synacthen là 20,6±8,9µg/dL cao hơn có ý nghĩa so với cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường
huyết là 15,3±6,5µg/dL (p=0,0001). Sự tương quan giữa nồng độ cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
Synacthen và nồng độ cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết có ý nghĩa với r=0,78 (95%
KTC 0,66–0,85), p < 0,001). Diện tích dưới đường cong ROC (receiver operating characteristic) của cortisol
huyết tương tối đa trong nghiệm pháp Synacthen là 0,89 (95% KTC: 0,79-0,95; p=0,0001). Chúng tôi chọn
ngưỡng cortisol 23,9µg/dL để chẩn đoán suy thượng thận thứ phát với độ nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 72,7%.
Kết luận: Nghiệm pháp Synacthen ngắn 250µg với ngưỡng cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
23,9µg/dL có giá trị để đánh giá chức năng của hạ đồi–tuyến yên–thượng thận ở những người dùng
glucocorticoid dài hạn trước khi ngưng thuốc.
Từ khóa: Cortisol huyết tương, suy thượng thận, nghiệm pháp synacthen ngắn , nghiệm pháp hạ đường
huyết bằng insulin.
ABSTRACT
SHORT SYNACTHEN TEST 250µg FOR EVALUATION OF HYPOTHALAMIC PITUITARY ADRENAL
AXIS IN LONG-TERM GLUCOCORTICOID USERS
Tran Quang Nam, Nguyen Thy Khue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 369 - 375
Background: Long-term glucocorticoid therapy can result in suppression of hypothalamic-pituitary-adrenal
(HPA) axis. Before glucocorticoid is stopped, secondary adrenal insufficiency should be assessed by provocative
Bộ Môn Nội Tiết - Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc ThS.BS Trần Quang Nam ĐT: 0908386382 Email: tranqnam@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 370
test.
Objective: To assess the usefulness of short synacthen (STT) 250µg in diagnosis of secondary adrenal
insufficiency in long-term glucocorticoid users before withdrawal of glucocorticoid, compared with insulin
hypoglycemia test (IHT) as reference test.
Method: Cross sectional study was performed at People Hospital 115, Ho Chi Minh City from 2/2009 to
4/2011. Long-term glucocorticoid users on low dose of glucocorticoid had STT 250µg and IHT performed on 2
separate days. Hypothalamic pituitary adrenal axis suppression was defined as maximal plasma cortisol in IHT
equal or less than 18µg/dL. The IHT was used as the 'gold standard' in assessing the HPA axis.
Results: 70 patients (64% female) had mean age of 36±12 years. Adrenal insufficiency was confirmed in
68.6% (48/70 patients). During STT, mean plasma cortisol at 0 min, 30 min and 60 min was 8.0±4.4µg/dL,
18.2±7.9µg/dL, 20.4±9.0µg/dL, respectively. Maximal plasma cortisol was significantly higher in STT than in
IHT (20.6±8.9µg/dL vs 15.3±6.5µg/dL, p=0.0001). There was significant correlation between maximal plasma
cortisols in STT and in IHT r=0.78 (95% CI 0.66–0.85), p<0.001). Synacthen test was used for diagnosis of HPA
supression with area under ROC curve of 0.89 (95% CI: 0.79-0.95; p=0.0001). For diagnosis of secondary
adrenal insufficiency, maximal plasma cortisol cut off at 23.9µg/dL had sensitivity of 89.6% and specificity of
72.7%.
Conclusion: Maximal plasma cortisol value of 23.9µg/dL as cut-off in short synacthen test (250µg) is valid
test for assessing HPA axis function in long-term glucocorticoid users.
Keywords: Basal plasma cortisol, adrenal insufficiency, short synacthen test, insulin hypoglycemia test.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ức chế hạ đồi-tuyến yên-thượng thận (HĐ-
TY-TT) là một biến chứng thường gặp do dùng
glucocorticoid dài hạn. Đây là tình trạng suy
thượng thận chức năng thứ phát, tần suất có thể
thay đổi tùy theo nghiên cứu từ 56%-77%(1,5,7).
Trước khi muốn ngưng thuốc cần đánh giá sự
hoạt động của vỏ thượng thận, tránh ngưng đột
ngột có thể nguy cơ suy thượng thận cấp.
Mặc dù nghiệm pháp hạ đường huyết được
xem là tiêu chuẩn vàng để khảo sát dự trữ trục
HĐ-TY-TT, nhưng thực hiện phải mất nhiều
thời gian, công sức và có chống chỉ định trong
bệnh tim thiếu máu cục bộ, tiền căn động kinh.
Do đó thường bệnh nhân được dùng các xét
nghiệm thay thế. Xét nghiệm cortisol huyết
tương nền buổi sáng ít có giá trị trong tiên đoán
khả năng đáp ứng của thượng thận với kích
thích. Nghiệm pháp kích thích bằng Synacthen
(ACTH) được nhiều nghiên cứu cho thấy có thể
gián tiếp đánh giá trục HĐ-TY-TT ở những
người có suy thượng thận thứ phát dài hạn.
Nghiệm pháp này dựa trên cơ sở cho rằng giảm
ACTH (adrenocorticotropic hormone) kéo dài
dẫn tới teo thượng thận, do đó sẽ không đáp
ứng với ACTH ngoại sinh. Về lý thuyết, nghiệm
pháp ACTH 250µg liều cao có thể gây âm tính
giả, bỏ sót những trường hợp suy thượng thận
thứ phát nhẹ, trong khi đó dùng liều thấp
ACTH 1µg sẽ nhạy hơn trong xác định bệnh
nhân bị ức chế nhẹ trục HĐ-TY-TT. Tuy nhiên,
chưa rõ nghiệm pháp ACTH liều thấp hay liều
cao ưu điểm hơn(6,8). Ngưỡng cortisol đáp ứng
bình thường với ACTH trong nghiệm pháp
synacthen cũng thay đổi tùy nghiên cứu từ 500
tới 600nmol/L (từ 18,1–21,7µg/dL). Nghiệm
pháp synacthen đánh giá chức năng HĐ-TY-TT
ở bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn nên
dùng ngưỡng cortisol huyết tương đáp ứng với
ACTH như nào là hợp lý vẫn còn chưa rõ. Ở
Việt Nam cũng chưa có nhiều nghiên cứu về
vấn đề này được công bố.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá nghiệm pháp synacthen ngắn
250µg dùng trong chẩn đoán suy thượng thận
thứ phát trên bệnh nhân dùng glucocorticoid
dài hạn, trong đó dùng nghiệm pháp hạ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 371
đường huyết bằng insulin làm tiêu chẩn vàng
để so sánh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, được tiến hành tại
khoa nội tiết Bệnh Viện Nhân Dân 115 từ tháng
2 năm 2009 tới tháng 4 năm 2011.
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân tuổi từ 16 tới 70, đang dùng
glucocorticoid dài hạn hoặc có tiền căn dùng
glucocorticoid.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Dùng glucocorticoid kéo dài (>=2 tuần)
Đang dùng liều glucocorticoid duy trì chuẩn
bị ngưng thuốc.
Tiền căn dùng thuốc nguồn gốc không rõ
loại (khả năng chứa glucocorticoid) có biểu hiện
Cushing (da mỏng, dễ bầm máu, vẻ mặt
Cushing tròn đỏ....) và cortisol huyết thanh buổi
sáng thấp.
Tiêu chuẩn loại trừ
Dùng glucocorticoid dưới 2 tuần
Đang dùng liều glucocorticoid tấn công
kiểm soát bệnh lý theo chỉ định
Có chống chỉ định của nghiệm pháp hạ
đường huyết bằng insulin (bệnh tim thiếu máu
cục bộ, tiền căn động kinh)
Dùng thuốc chứa estrogen
Phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Phương pháp thu thập số liệu
Các bệnh nhân được thu thập các đặc tính về
lâm sàng và cận lâm sàng
Tuổi, giới tính.
Bệnh lý chính có chỉ định glucocorticoid.
Mạch, huyết áp, cân nặng, chiều cao,
vòng eo.
Biểu hình cushing: mặt tròn đỏ, da mỏng, dễ
bầm máu, mập vùng trung tâm, rạn da,
teo cơ.
Đường huyết đói.
Đánh giá chức năng thượng thận
Đối với các bệnh nhân đang dùng liều thấp
glucocorticoid điều trị các bệnh lý như viêm
khớp dạng thấp, hội chứng thận hư nguyên
phát, lupus ban đỏ, bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính, được bác sĩ điều trị chỉ định có thể chuẩn
bị ngưng glucocorticoid. Những bệnh nhân này
đang dùng liều prednisone dưới 10mg (hoặc các
chế phẩm glucocorticoid khác với liều tương
đương về hoạt tính glucocorticoid). Trước khi
đánh giá chức năng thượng thận, prednisone sẽ
được ngưng 48 giờ.
Mỗi bệnh nhân được làm nghiệm pháp
Synacthen tác dụng ngắn 250µg, sau đó ít nhất 3
ngày bệnh nhân được làm nghiệm pháp hạ
đường huyết. Sau mỗi nghiệm pháp, bệnh nhân
sẽ được dùng lại liều glucocorticoid như trước
làm nghiệm pháp. Cả hai nghiệm pháp đều bắt
đầu làm vào buổi sáng trong khoảng từ 8 giờ tới
10 giờ sau khi nhịn đói qua đêm.
Nghiệm pháp Synacthen (ACTH tổng hợp) tác
dụng ngắn 250µg
Được thực hiện như sau: tiêm mạch 1 ống
Synacthen 250µg tác dụng ngắn. Đo cortisol
huyết tương nền vào trước khi tiêm thuốc (0
phút), sau khi tiêm 30 phút và 60 phút. Căn cứ
vào đáp ứng cortisol huyết tương tối đa trong
nghiệm pháp Synacthen để đánh giá khả năng
đáp ứng của vỏ thượng thận suy chức năng
hay không.
Nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin
Bắt đầu tiến hành vào buổi sáng sau khi
nhịn đói qua đêm. Bệnh nhân nằm trong thời
gian nghiệm pháp, được bác sĩ và điều dưỡng
theo dõi sát. Kim luồn được đặt vào tĩnh mạch ở
hố phía trước khuỷu tay, sau đó được tiêm
mạch insulin người tác dụng nhanh Actrapid 0,1
IU/kg. Các biểu hiện lâm sàng của hạ đường
huyết được theo dõi sát và đo đường huyết mao
mạch bằng máy đo tại giường. Mẫu máu được
lấy đo cortisol vào các thời điểm 0, 30, 60, 90, 120
phút sau khi tiêm insulin. Nghiệm pháp được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 372
xem là đạt khi ghi nhận mức hạ đường huyết
dưới 45mg/dL(2). Khi bệnh nhân có triệu chứng
hạ đường huyết sẽ để kéo dài 5-10 phút và sau
đó tiêm mạch glucose 30% 40ml để bệnh nhân
hết triệu chứng. Đánh giá đáp ứng bình thường
với hạ đường huyết nếu cortisol huyết tương tối
đa > 18µg/dL, có suy thượng thận nếu cortisol
huyết tương tối đa <=18µg/dL.
Phương pháp đo cortisol huyết tương
Nồng độ cortisol huyết tương được bằng
phương pháp miễn dịch vi hạt hóa phát quang
(Chemiluminescent microparticle immunoassay)
với hệ thống máy Architect, công ty Abbott, của
Mỹ. Chỉ số biến động (coefficient of variation) ở
từng mức đo cortisol là 4% (ở mức cortisol là
2,9µg/dL), 2,5% (ở mức cortisol là 39,8µg/dL), và
là 3,3% (ở mức cortisol là 53,3µg/dL. Hệ số
chuyển đổi từ đơn vịµg/dL x 27,59 = nmol/L
Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm MedCalc
10.2. Cortisol huyết tương được trình bày dưới
dạng trung bình (TB) ± độ lệch chuẩn (ĐLC). So
sánh giữa 2 trung bình của 2 nhóm bằng phép
kiểm t. Hệ số tương quan Pearson dùng đánh
giá sự tương quan giữa 2 biến số liên tục. Xác
định đường cong Roc (the receiver operaring
characteristic) cho giá trị cortisol huyết tương tối
đa trong nghiệm pháp Synacthen tác dụng ngắn
250µg trong đánh giá chức năng thượng thận,
dùng nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin làm tham chiếu. Phân tích được xem là
có ý nghĩa thống kê khi p< 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm nền của dân số nghiên cứu
Chúng tôi thu thập được 70 bệnh nhân đủ
tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu, tuổi trung bình
36 ± 12 năm. Nữ chiếm đa số 64% (45/70). Đặc
điểm cơ bản của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
được trình bày trong bảng 1. Đa số bệnh nhân
đang dùng glucocorticoid do có chỉ định điều trị
bệnh lý hội chứng thận hư nguyên phát (49%),
lupus đỏ (21%) và viêm khớp dạng thấp (13%).
Có một số bệnh nhân có tiền căn sử dụng thuốc
không rõ loại (13%) và xuất hiện các biểu hiện
lâm sàng gợi ý suy thượng thận do
glucocorticoid ngoại sinh, do đó được chỉ định
đánh giá chức năng vỏ thượng thận tiết cortisol.
Còn lại là 3% bị hen phế quản/bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính và 1% là giảm tiểu cầu vô căn.
Trong nghiên cứu này, biểu hiện lâm sàng
hội chứng Cushing ngoại sinh thường gặp là
biểu hình Cushing 17% (12/70 bệnh nhân), da dễ
bầm 23% (16/70 bệnh nhân), yếu gốc chi 20%
(14/70 bệnh nhân), rạn da 6% (4/70 bệnh nhân).
Căn cứ vào nghiệm pháp hạ đường huyết thì tỉ
lệ suy thượng thận do glucocorticoid trong
nghiên cứu này là 68,6% (48/70 bệnh nhân).
Bảng 1: Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Đặc điểm Kết quả
Số bệnh nhân 70
Tuổi (năm, TB+/- ĐLC) 36 ± 12
Giới: Nam
Nữ
25 (36%)
45 (64%)
BMI (kg/m
2
) 21,3 ± 3,1
Vòng eo (cm) 73,8 ± 8,6
Huyết áp tâm thu (mmHg) 118,7 ± 12,6
Huyết áp tâm trương (mmHg) 73,9 ± 8,3
Đường huyết đói (mg/dL) 80,0 ± 11,4
Bệnh lý có chỉ định glucocorticoid
Hội chứng thận hư
Lupus đỏ
Viêm khớp dạng thấp
Dùng thuốc không rõ loại
COPD/Hen phế quản
Giảm tiểu cầu vô căn
34 (49%)
15 (21%)
9 (13%)
9 (13%)
2 (3%)
1 (1%)
COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn; BMI: chỉ số khối cơ thể
=cân nặng (kg)/chiều cao (m)2; TB: trung bình; ĐLC: độ
lệch chuẩn
Kết quả nghiệm pháp Synacthen tác dụng
ngắn 250µg
Cortisol huyết tương trung bình lúc 0 phút
là 8,0±4,4µg/dL, lúc 30 phút là 18,2±7,9µg/dL,
lúc 60 phút là 20,4±9,0µg/dL. Thời điểm đạt
cortisol huyết tương tối đa tại 30 phút trên
18,6% (13/70) bệnh nhân và tại 60 phút trên
81,4% (57/70) bệnh nhân. Cortisol huyết tương
tối đa đáp ứng sau khi tiêm Synacthen là
20,6±8,9µg/dL cao hơn so với cortisol huyết
tương tối đa đáp ứng sau nghiệm pháp hạ
đường huyết là 15,3 ± 6,5µg/dL (p=0,0001).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 373
Hình 1: Tương quan giữa cortisol tối đa trong
nghiệm pháp Synacthen và nghiệm pháp hạ đường
huyết, r = 0,78 (95% KTC 0,66 – 0,85), p < 0,001).
Sự tương quan giữa nồng độ cortisol huyết
tương tối đa trong nghiệm pháp Synacthen và
nồng độ cortisol huyết tương tối đa trong
nghiệm pháp hạ đường huyết có ý nghĩa với
r=0,78 (95% KTC 0,66–0,85), p < 0,001) (hình 1).
Không ghi nhận tác dụng phụ của Synacthen
trong các người bệnh tham gia nghiên cứu.
Phân tích đường cong Roc của cortisol tối đa
trong nghiệm pháp Synacthen
Hình 2.Giá trị chẩn đoán suy thượng thận thứ phát
của nghiệm pháp Synacthen 250µg (AUC: diện tích
dưới đường cong, ĐN: độ nhạy, ĐĐH: độ đặc hiệu)
Dùng nghiệm pháp Synacthen ngắn 250µg
với nồng độ cortisol tối đa để chẩn đoán suy
thượng thận thứ phát có diện tích dưới đường
cong là 0,89 (95% KTC: 0,79-0,95; p = 0,0001)
(Hình 2). Từ kết quả phân tích đường cong Roc
cho thấy điểm cắt của cortisol huyết tương là
18,5µg cho độ nhạy là 62,5% và độ đặc hiệu là
95,5%, tỉ số khả dĩ dương (LR +) là 13,7 và tỉ số
khả dĩ âm (LR -) là 0,39. Ở ngưỡng cortisol là
23,9µg/dL sẽ cho độ nhạy là 89,6% và độ đặc
hiệu là 72,7%, tỉ số khả dĩ dương (LR +) là 3,3 và
tỉ số khả dĩ âm (LR -) là 0,14 (bảng 3).
Bảng 3: Kết quả của phân tích đường cong ROC của
cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
synacthen ngắn 250µg
Cortisol huyết
tương tối đa sau
Synacthen (µg/dL)
Độ nhạy
(%)
Độ đặc
hiệu (%)
LR
(+)
LR (-)
16,9 54,1 100 0,46
18,5 62,5 95,4 13,7 0,39
19,1 68,7 95,4 15,1 0,33
20,4 72,9 90,9 8,0 0,30
21,5 75,0 81,8 4,1 0,31
23,9 89,6 72,7 3,3 0,14
26,5 91,7 50,0 1,8 0,17
28,1 95,8 45,4 1,8 0,09
33,0 100 27,2 1,4
GTTĐ: giá trị tiên đoán, LR: tỉ số khả dĩ
BÀN LUẬN
Dùng glucocorticoid dài hạn gây ra ức chế
chức năng hạ đồi–tuyến yên–thượng thận.
Trước khi muốn ngưng điều trị, bệnh nhân cần
được đánh giá chức năng của trục hạ đồi–tuyến
yên–vỏ thượng thận để tránh ngưng đột ngột
gây ra nguy cơ suy thượng thận cấp(8). Các
nghiên cứu trước đây đã cho thấy đo cortisol
huyết tương nền buổi sáng không đủ tin cậy để
đánh giá chức năng của thượng thận trong
nhiều trường hợp(2). Do đó cần phải làm các
nghiệm pháp động kích thích để xác định chẩn
đoán bệnh nhân có suy thượng thận thứ phát do
dùng glucocorticoid ngoại sinh hay không.
Những bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn
đường uống thường có mức độ ức chế mạnh hạ
đồi–tuyến yên-thượng thận, do đó chúng tôi
chọn nghiệm pháp Synacthen 250µg để đánh
giá. Nghiệm pháp này được khuyến cáo có thể
dùng thay thế nghiệm pháp hạ đường huyết
bằng insulin để đánh giá trục hạ đồi-tuyến yên-
thượng thận ở bệnh nhân có bệnh lý tuyến
yên(8).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa II 374
Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối
tương quan có ý nghĩa giữa cortisol huyết tương
tối đa trong nghiệm pháp synacthen và trong
nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin, với
với r = 0,78 (95% KTC 0,66 – 0,85), p < 0,001).
Điều này phù hợp với nghiên cứu của Kane và
cộng sự cho kết quả mối tương quan chặt chẽ
giữa nồng độ cortisol tối đa trong 2 nghiệm
pháp(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân tích
đường biểu diễn ROC dựa trên tính độ nhạy và
độ đặc hiệu của từng ngưỡng cortisol huyết
tương tối đa sau tiêm Synacthen 250µg cho thấy
diện tích dưới đường cong ROC là 0,89 (95%
KTC: 0,79-0,95; p = 0,0001), do đó xét nghiệm
này có giá trị dùng đánh giá dự trữ trục HĐ-TY-
TTT. Cũng tương tự các nghiên cứu trước đây
cho thấy nghiệm pháp kích thích bằng ACTH
liều cao trong chẩn đoán suy thượng thận thứ
phát có diện tích dưới đường cong ROC từ 0,79–
0,9(6,8).
Theo nghiên cứu phân tích tổng hợp
nhiều nghiên cứu của Dorin và cộng sự đánh
giá về giá trị của nghiệm pháp kích thích bằng
cosyntropin, đề nghị ngưỡng cortisol huyết
tương đáp ứng với cosyntropin từ 18,1-
21,7µg/dL (500–600nmol/L) dùng để đánh giá
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát, cho độ
đặc hiệu 95% và độ nhạy là 57%. Nếu dùng
ngưỡng cortisol 21,7µg/dL sẽ tăng độ nhạy và
kết quả dương tính giả (bình thường nhưng bị
chẩn đoán là suy thượng thận) cũng tăng, do
đó có một số người chức năng thượng thận
bình thường phải uống glucocorticoid kéo
dài. Ở giá trị ngưỡng cortisol 18,1µg/dL sẽ
tăng độ đặc hiệu và tăng kết quả âm tính giả.
Do đó, có một số bệnh nhân sẽ bị bỏ sót chẩn
đoán suy thượng thận và có nguy cơ suy
thượng thận cấp nếu có bị stress cấp tính(8).
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên
những bệnh nhân dùng glucocorticoid dài
hạn, khả năng cao bị ức chế trục hạ đồi–tuyến
yên–thượng thận, do đó có thể chấp nhận
dùng ngưỡng cortisol cao và chẩn đoán
dương tính giả để không bỏ sót và ngưng quá
sớm glucocorticoid ở bệnh nhân chưa phục
hồi chức năng thượng thận. Nếu bệnh nhân bị
chẩn đoán là suy thượng thận thứ phát nhưng
thực sự đã phục hồi bình thường (dương tính
giả) có thể tiếp tục giảm liều glucocorticoid và
bệnh nhân sẽ được đánh giá lại thượng thận
sau đó.
Nếu sử dụng ngưỡng đáp ứng cortisol tối đa
sau Synacthen từ 18,5 tới 21,5µg/dL giống
nghiên cứu của Dorin, kết quả tương ứng của
chúng tôi cho độ nhạy hơi thấp 62,5% và 75%,
độ đặc hiệu là 95,4% và 81,8%. Với mục tiêu lâm
sàng để phát hiện hầu hết trường hợp suy
thượng thận, chúng tôi chọn ngưỡng cortisol
23,9µg/dL để chẩn đoán suy thượng thận thứ
phát với độ nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 72,7%