Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là bệnh lý thường gặp trong hồi sức. Bên cạnh chẩn đoán sớm và
điều trị tích cực theo đúng phác đồ thì việc đánh giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp ứng điều trị
cũng rất quan trọng. Các chất chỉ điểm sinh học (biomarker), đặc biệt là cytokine được kỳ vọng sẽ gia tăng
độ chính xác của các tiêu chuẩn lâm sàng trong các vấn đề này. Tuy đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng, cận
lâm sàng về NKH nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa nồng độ cytokine và
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với độ nặng và tiên lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế, chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine
với tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng”.
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán NKH dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống
nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001 và có bằng chứng vi sinh, nhập khoa HSCC‐ BVCR từ tháng 12/2008
đến tháng 12/ 2010.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiền cứu, cắt ngang. Bệnh nhân vào nghiên cứu, trong thời gian 24 giờ,
được lấy máu định lượng nồng độ TNF‐α, IL‐6 và IL‐10.
Kết quả: Có 123 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận bệnh tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình 58,2 ± 18,8
tuổi, điểm trung bình APACHE II là 23,3 ± 8,3 và SOFA là 10,6 ± 3,6, tỷ lệ tử vong chung là 61%. Tỷ lệ sốc
nhiễm khuẩn là 88,6%, RLCN đa cơ quan chiếm tỷ lệ 82,1%. Thang điểm APACHE II và SOFA có giá trị tiên
lượng tử vong khá tốt ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích dưới đường cong ROC lần lượt là
0,812 (95%CI 0,731‐ 0,877) và 0,703 (95%CI 0,613‐ 0,782). Điểm APACHE II với điểm cắt >25 có độ nhạy là
57,3%, độ đặc hiệu là 97,9%. Điểm SOFA với điểm cắt >10 có độ nhạy là 64,9%, độ đặc hiệu là 69,1%. Nồng độ
CRP và Procalcitonin ở bệnh nhân NKH trung bình là 122,7 ± 55,2 (mg/l) và 49,8 ± 98,4 (ng/dl) và có giá trị
tiên lượng tử vong kém với diện tích dưới đường cong của lần lượt là 0,528 và 0,604. Nồng độ IL‐6 ở thời điểm
T24tăngtrên97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích
dưới đường cong 0,721. Nồng độ IL‐10 ở thời điểm T24 tăng trên 7,1 pg/ml có khả năng tiện lượng tử vong với
diện tích dưới đường cong là 0,766. Tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24 > 0,73 có khả năng tiên lượng tử vong
với diện tích dưới đường cong 0,719. Nồng độ IL‐6 huyết thanh thời điểm T24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0
có khả năng tiên lượng tử vong, diện tích dưới đường cong 0,775. Có liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ
IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐
10 thời điểm 24 giờ với tình trạng RLCN cơ quan. Kết hợp điểm APACHE II và tỉ lệ sự thay đổi nồng độ IL6
thời điểm T24 giờ so với T0 có khả năng tiên đoán tử vong với độ chính xác là 83,1%, diện tích dưới đường cong
ROC là 0,857 (95%CI, 0,753 – 0,929).
6 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 551 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine với tiên lượng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 1
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ CYTOKINE VỚI TIÊN LƯỢNG
CỦA BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN HUYẾT NẶNG
Phạm Thị Ngọc Thảo*
TÓM TẮT
Mở đầu: Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là bệnh lý thường gặp trong hồi sức. Bên cạnh chẩn đoán sớm và
điều trị tích cực theo đúng phác đồ thì việc đánh giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp ứng điều trị
cũng rất quan trọng. Các chất chỉ điểm sinh học (biomarker), đặc biệt là cytokine được kỳ vọng sẽ gia tăng
độ chính xác của các tiêu chuẩn lâm sàng trong các vấn đề này. Tuy đã có nhiều nghiên cứu lâm sàng, cận
lâm sàng về NKH nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến mối liên quan giữa nồng độ cytokine và
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với độ nặng và tiên lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế, chúng
tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine
với tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng”.
Đối tượng nghiên cứu: bệnh nhân ≥18 tuổi, được chẩn đoán NKH dựa theo tiêu chuẩn của Hội nghị thống
nhất các Hội hồi sức thế giới năm 2001 và có bằng chứng vi sinh, nhập khoa HSCC‐ BVCR từ tháng 12/2008
đến tháng 12/ 2010.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả, tiền cứu, cắt ngang. Bệnh nhân vào nghiên cứu, trong thời gian 24 giờ,
được lấy máu định lượng nồng độ TNF‐α, IL‐6 và IL‐10.
Kết quả: Có 123 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nhận bệnh tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình 58,2 ± 18,8
tuổi, điểm trung bình APACHE II là 23,3 ± 8,3 và SOFA là 10,6 ± 3,6, tỷ lệ tử vong chung là 61%. Tỷ lệ sốc
nhiễm khuẩn là 88,6%, RLCN đa cơ quan chiếm tỷ lệ 82,1%. Thang điểm APACHE II và SOFA có giá trị tiên
lượng tử vong khá tốt ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích dưới đường cong ROC lần lượt là
0,812 (95%CI 0,731‐ 0,877) và 0,703 (95%CI 0,613‐ 0,782). Điểm APACHE II với điểm cắt >25 có độ nhạy là
57,3%, độ đặc hiệu là 97,9%. Điểm SOFA với điểm cắt >10 có độ nhạy là 64,9%, độ đặc hiệu là 69,1%. Nồng độ
CRP và Procalcitonin ở bệnh nhân NKH trung bình là 122,7 ± 55,2 (mg/l) và 49,8 ± 98,4 (ng/dl) và có giá trị
tiên lượng tử vong kém với diện tích dưới đường cong của lần lượt là 0,528 và 0,604. Nồng độ IL‐6 ở thời điểm
T24 tăng trên 97,6 pg/ml có khả năng tiên lượng tử vong trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng với diện tích
dưới đường cong 0,721. Nồng độ IL‐10 ở thời điểm T24 tăng trên 7,1 pg/ml có khả năng tiện lượng tử vong với
diện tích dưới đường cong là 0,766. Tỷ lệ IL‐10/TNF‐α tại thời điểm T24 > 0,73 có khả năng tiên lượng tử vong
với diện tích dưới đường cong 0,719. Nồng độ IL‐6 huyết thanh thời điểm T24 giảm 0,81 lần so với thời điểm T0
có khả năng tiên lượng tử vong, diện tích dưới đường cong 0,775. Có liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ
IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐
10 thời điểm 24 giờ với tình trạng RLCN cơ quan. Kết hợp điểm APACHE II và tỉ lệ sự thay đổi nồng độ IL6
thời điểm T24 giờ so với T0 có khả năng tiên đoán tử vong với độ chính xác là 83,1%, diện tích dưới đường cong
ROC là 0,857 (95%CI, 0,753 – 0,929).
Kết luận: Có sự liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ nặng
của bệnh đánh giá theo thang điểm APACHE II, và nồng độ IL‐10 thời điểm 24 giờ với tình trạng suy cơ quan.
Vì vậy, có thể kết hợp sử dụng các thang điểm SOFA, APACHE II và nồng độ IL‐ 6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α
để theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng.
* Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BSCKII. Phạm Thị Ngọc Thảo ĐT: 0903628016 Email: thaocrh10@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 2
Từ khóa: Nhiễm khuẩn huyết nặng, cytokine, tiên lượng tử vong.
ABSTRACT
CLINICAL MANIFESTATIONS AND RELATIONSHIP OF CYTOKINES SERUM CONCENTRATIONS
AND MORTALITY PROGNOSIS IN PATIENT WITH SEVERE SEPSIS
Pham Thi Ngoc Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 1 ‐ 6
Introduction: Sepsis (NKH) is common in ICU departments. In addition to early diagnosis and aggressive
treatment, assessment of severity, prognosis and monitoring response to treatment is also important. The
biomarkers, especially cytokines is expected to increase the accuracy of the clinical standards in this matter. There
is still lack of studies on the relationship between cytokine concentrations and clinical manifestations with the
severity and prognosis of severe sepsis. Therefore, we carried out this study.
Patient and Method: ‐ Patients: over 18‐year‐old patients diagnosed with severe sepsis based on ACCP‐
CCM 2001 criteria and microbiological documented, admission HSCC‐BVCR from 12/2008 to 12/2010. ‐
Methods: descriptive, prospective, cross‐section.
Results: There are 123 patients eligible for the study. Mean age 58.2 ± 18.8 years, mean APACHE II was
23.3 ± 8.3 and SOFA, 10.6 ± 3.6, the overall mortality rate was 61%. Septic shock was 88.6%, multiple organ
dysfunction accounted for 82.1%. APACHE II and SOFA scores fairly good predictor of mortality in patients
with severe sepsis with an area under the curve ROC was 0.812 (95% CI 0.731 to 0.877) and 0.703 (95% CI
0.613 to 0.782 ). APACHE II score cut‐off point> 25 had a sensitivity of 57.3%, specificity of 97.9%. SOFA score
cutoff point> 10 had a sensitivity of 64.9%, specificity of 69.1%. CRP and procalcitonin concentrations
were122.7 ± 55.2 (mg / l) and 49.8 ± 98.4 (ng / dl) and AUC ROC mortality predict were 0.528 and 0.604,
respectively. The concentration of IL‐6 at T24 increased as high as 97.6 pg / ml have the ability to predict
mortality in severe sepsis patients with ROC 0.721. The concentration of IL‐10 at T24 was 7.1 pg / ml and ROC
0.766. Ratio IL‐10/TNF‐α at T24 > 0.73 with ROC 0.719. Serum levels of IL‐6 at T24 time reduced 0.81 times
compared with T0 be able to predict mortality, with ROC 0.775. There was the relationship between the
concentration of IL‐6, IL‐10, and IL‐10/TNF‐α at T24 with the severity of sepsis, eg. APACHE II score, and IL‐
10 concentrations at T24 and MODS. Combination of APACHE II and IL‐6 T24_0 be able to predict mortality
with an accuracy of 83.1%, and ROC was 0.857 (95% CI, 0.753 to 0.929).
Conclusion: There is an association between concentrations of IL‐6, IL‐10 and the IL‐10/TNF‐α ratio at
T24 with the severity of sepsis, e.g APACHE II, and IL‐10 at T24 with MODS. Combination of SOFA,
APACHE II scores and the concentration of IL‐6, IL‐10 and ratio IL‐10/TNF‐α at 24‐hour time‐point for
monitoring disease progression and prognosis of patients with severe sepsis.
Keywords: severe sepsis, cytokines, mortality predict.
MỞ ĐẦU
Nhiễm khuẩn huyết (NKH) là một bệnh lý
thường gặp trong hồi sức, bên cạnh chẩn đoán
sớm và điều trị theo đúng phác đồ thì việc đánh
giá mức độ nặng, tiên lượng và theo dõi đáp
ứng điều trị cũng rất quan trọng. Đã có nhiều
nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng về NKH
nặng nhưng chưa có các nghiên cứu đề cập đến
mối liên quan giữa nồng độ cytokine và đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng, độ nặng và tiên
lượng tử vong bệnh nhân NKH nặng. Vì thế,
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu lâm sàng,
cận lâm sàng và mối liên quan giữa nồng độ cytokine
và độ nặng của bệnh nhân NKH nặng”.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
‐ Bệnh nhân nặng nhập khoa HSCC‐ BVCR,
≥18 tuổi, từ tháng 12/2008 đến tháng 12/2010.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 3
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Theo định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán
NKH 2001.
Phương pháp nghiên cứu
‐ Phương pháp tiến cứu, cắt ngang, phân
tích.
‐ BN NKH nặng được thu thập dữ liệu lâm
sàng, cận lâm sàng theo mẫu lấy mẫu bệnh án
nghiên cứu. TNF‐α, IL‐1a, IL‐1b, IL‐6, IL‐8, IL‐10
ngay sau nhập khoa HSCC, sau 2 giờ, sau 4 giờ
và sau 24 giờ, định lượng với công nghệ Biochip
array, máy Evidence.
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê
y học Stata 16.0.
KẾT QUẢ
Từ tháng 12/2008 đến tháng 12/ 2010, có 123
bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết
theo tiêu chuẩn của ACCP/SCCM‐2001 và có
bằng chứng vi sinh.
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng trong nghiên cứu
Số bệnh nhân 123
Tuổi (năm) 58,2 ± 18,8
Nam / nữ 62 / 61
Số ngày khởi phát bệnh trước nhập
viện (ngày) 3 (1 ; 7)
Thời gian điều trị trước khi vào HSCC
(ngày) 2 (1 ; 3)
Thời gian điều trị tại khoa HSCC (ngày) 6 (3 ; 12)
Thời gian nằm viện (ngày) 11 (5 ; 20)
Tỉ lệ bệnh nhân thở máy 98/123 (79,7%)
Điểm APACHE II trung bình 23,3 ± 8,3
Điểm SOFA trung bình 10,6 ± 3,6
Tỷ lệ tử vong 75/123 (61%)
4.1%
13.8%
27.6% 25.2% 24.4%
4.9%
0.0%
47.1%
58.8%
64.5%
80.0% 83.3%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Biểu đồ 1: Tỷ lệ mắc (%) và tỷ lệ tử vong (%) của NKH nặng, phân tầng theo số lượng cơ quan bị RLCN
56
21
07 07
02
07
67
62
44
25
50
67
0%
20%
40%
60%
80%
Tiêu hóa Hô hấp Niệu dục Da Cơ xương Không rõ
Tỉ lệ mắc Tỉ lệ tử vong
Biểu đồ 2: Tỷ lệ mắc (%) và tỷ lệ tử vong (%) của NKH nặng, phân tầng theo Ngõ vào của nhiễm khuẩn
Bảng 2: Các yếu tố lâm sàng liên quan đến tử vong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 4
Thông số Tử vong Còn sống Giá trị p
Thời gian nằm viện (ngày) 12,7 ± 15,4 21,5 ± 13,8 0,002
Điểm APACHE II (trung bình ± SD) 26, 6 ± 7,9 18,0 ± 5,8 <0,001
Điểm SOFA (trung bình ± SD) 11,6 ± 3,6 9,1 ± 2,9 <0,001
Số cơ quan RLCN 4 ± 1 3 ± 1 <0,001
Bảng 3: Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng
Xét nghiệm Đơn vị Giá trị bình thường Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ - Lớn (min-max)
BC K/ mm3 4-11 19,1 1,36 0,18 - 71,2
BCĐNTT % 45-75 84,5 14,1 12,8 - 99,2
CRP mg/l <6 122,7 55,2 10 – 286
Procalcitonin ng/dl <0,5 49,8 98,4 0,2 – 635
Lactate máu mmol/l 4,5-20 43,6 34,4 0,5 – 186
Bảng 4: Các yếu tố cận lâm sàng liên quan đến tử vong ở bệnh nhân NKH nặng
Xét nghiệm TỬ VONG CÒN SỐNG Giá trị P
BUN (mg/dl) 45,9 ± 25,1 35,7 ± 21,6 0,019
aPTT (giây) 42,9 ± 20,8 35,9 ± 9,4 0,018
pH 7,28 ± 0,14 7,33 ± 0,11 0,037
HCO3 (mmol/L) 16,4 ± 5,8 19,0 ± 4,4 0,008
Bảng 5. Giá trị tiên lượng của các thông số thang điểm (APACHE II, SOFA) và số cơ quan bị RLCN ở bệnh
nhân NKH nặng
AUC 95% CI Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu PPV NPV
APACHE II 0,810 0,728 – 0,875 >25 57,3% 97,9% 97,7% 59%
SOFA 0,703 0,613 – 0,782 >10 64,9% 68,1% 76,2% 55,2%
Số cơ quan RLCN 0,668 0,577 – 0,751 >3 65,3% 62,5% 73,1% 53,6%
Bảng 6: So sánh nồng độ cytokine tại các thời điểm, giữa 2 nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử
vong
SỐNG TỬ VONG Giá trị p
(Mann-Whitney test) N Trung vị N Trung vị
IL-6 giờ thứ 24 32 65,395 46 286,860 0,002
IL-10 giờ thứ 24 32 5,700 46 18,385 < 0,001
IL-6 thời điểm T24 so với T0 27 -5,550 44 -0,220 0,028
IL-10/TNF giờ thứ 24 32 16,805 46 9,495 < 0,001
Bảng 7: Giá trị tiên lượng của nồng độ cytokine ở bệnh nhân NKH nặng
AUC 95% CI Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu PPV NPV
IL-6_T24 0,721 0,602 - 0,821 > 97,6 84,8% 59,4% 75,0% 73,1%
IL-10_T24 0,766 0,651 - 0,859 > 7,1 89,1% 59,4% 75,9% 79,2%
IL-10 /TNF (T24) 0,719 0,606 - 0,815 > 0,73 82.6% 53% 71,7% 68,0%
IL-6_T24 so với T0 0,775 0,661 - 0,866 > -0,81 86,4% 62,9% 79,2% 73,9%
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng
Điểm APACHE II tại thời điểm nhập khoa
HSCC khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm bệnh
nhân tử vong và nhóm bệnh nhân còn sống, với
p < 0,001 (Bảng 2). Khi vẽ đường cong ROC liên
quan tử vong và điểm APACHE II, chúng tôi
tính được diện tích dưới đường cong ROC là
0,81, chứng tỏ điểm APACHE II có khả năng
phân biệt tốt bệnh nhân sống và tử vong. Với
điểm cắt là >25, độ nhạy và độ đặc hiệu trong
tiên đoán tử vong lần lượt là 57,3% và 97,9%. Kết
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 5
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự các
tác giả khác như Peres Bota, Ho, Gursel với diện
tích dưới đường cong ROC lần lượt là 0,880;
0,858 và 0,810(5,8,11). Điểm SOFA ngày nhập viện
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm
bệnh nhân còn sống và tử vong. Số cơ quan bị
RLCN giữa hai nhóm bệnh nhân tử vong và còn
sống cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng
2). Khả năng tiên lượng tử vong của điểm
APACHE II và SOFA tại thời điểm nhập viện là
khá tốt, với AUC lần lượt là 0,81 và 0,703, tương
tự nhiều nghiên cứu của các tác giả TN Hải,
Ferreira, Peres Bota, Timsit(2,11).
Theo nghiên cứu của chúng tôi, 82,1% bệnh
nhân có biểu hiện RLCN chức năng từ 3 cơ quan
trở lên (biểu đồ 1), trung bình số cơ quan bị rối
loạn chức năng là 3,53 ± 0,12 cơ quan. Theo LTD
Tuyết và cộng sự nghiên cứu tại khoa HSCC ‐
bệnh viện Bạch Mai, ở bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng, trung bình số cơ quan bị RLCN là
3,80 ± 1,06 cơ quan.
Về ngõ vào của nhiễm khuẩn huyết, biểu đồ
2 cho thấy nhiễm khuẩn từ đường tiêu hóa và từ
đường hô hấp dưới là thường gặp nhất, với tỷ lệ
tử vong lần lượt là 66,7% và 61,5%, có liên quan
đến đặc thù của khoa HSCC ‐ Bệnh viện Chợ
Rẫy, đây là khoa hồi sức nội và ngoại khoa,
trong đó bệnh nhân hồi sức sau phẫu thuật tiêu
hóa gan mật chiếm số lượng nhiều và thường có
bệnh lý nội khoa đi kèm từ các tuyến chuyển về.
Nồng độ CRP, Procalcitonin trong huyết
tương bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết nặng vào
nghiên cứu tăng cao, với nồng độ CRP trung
bình là 122,7 mg/l và nồng độ procalcitonin
trung bình là 49,8 ng/ml. Tuy nhiên, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm bệnh
nhân sống và tử vong với p lần lượt là 0,931 và
0,159. Nồng độ CRP và procalcitonin có khả
năng tiên lượng kém với AUC lần lượt là 0,528
và 0,604. Theo nghiên cứu của Nguyễn Nghiêm
Tuấn về giá trị của CRP và procalcitonin máu
trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết nặng cũng cho kết quả tương tự,
với AUC của CRP, PCT lần lượt là 0,533 và
0,657(10). Hà Tấn Đức nghiên cứu về giá trị của
CRP và procalcitonin trên bệnh nhân viêm phổi
cũng cho thấy có giá trị chẩn đoán tốt tình trạng
nhiễm khuẩn, tuy nhiên, giá trị tiên đoán tử
vong thấp(6).
Nghiên cứu chúng tôi đã xác định được các
yếu tố liên quan tử vong, bao gồm: Về lâm sàng,
đó là các yếu tố: Điểm APACHE II, điểm SOFA,
số cơ quan bị RLCN. Về cận lâm sàng, đó là các
yếu tố: BUN, pH, HCO3 máu động mạch và thời
gian đông máu nội sinh aPTT.
Mối liên quan giữa nồng độ cytokin va
tiên lượng của bệnh nhân NKH nặng
Trong nhiễm khuẩn huyết, nồng độ các
cytokin TNF‐α, IL‐1, IL‐6, IL‐8, IL‐10 tăng cao.
Ghi nhận này phù hợp với các báo cáo của các
tác giả khác(1,3,4,7,12)
Tại tất cả thời điểm nghiên cứu, ở bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết nặng, trung vị nồng độ của
các cytokin TNF‐α, IL‐6, và IL‐10 tăng cao hơn
giá trị trung bình ở người bình thường. Có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh trung
vị nồng độ một số cytokin của hai nhóm bệnh
nhân nhiễm khuẩn huyết nặng sống và tử vong
tại các thời điểm: IL‐6 ở thời điểm T24; IL‐10 ở
thời điểm T24 (Bảng 6). Đánh giá sự thay đổi của
nồng độ cytokin vào thời điểm 24 giờ sau vào
nghiên cứu so với ngay lúc vào nghiên cứu bằng
lấy tỷ số trung vị cytokin (thời điểm T24 ‐ thời
điểm T0)/(thời điểm T0). Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ thay đổi của nồng độ
cytokin IL‐6 và IL‐10 tại thời điểm T24 so với T0
giữa hai nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết
nặng sống và tử vong. Ngoài ra, tỷ lệ IL‐10/TNF‐
α tại thời điểm T24 cũng có khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng sống và tử vong.
KẾT LUẬN
Có sự liên quan giữa nồng độ IL‐6, IL‐10 và
tỷ lệ IL‐10/TNF‐α thời điểm 24 giờ với mức độ
nặng của bệnh đánh giá theo thang điểm
APACHE II, và nồng độ IL‐10 thời điểm 24 giờ
với tình trạng suy cơ quan. Vì vậy, có thể kết
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 6
hợp sử dụng các thang điểm SOFA, APACHE II
và nồng độ IL‐ 6, IL‐10 và tỷ lệ IL‐10/TNF‐α để
theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh của bệnh
nhân nhiễm khuẩn huyết nặng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Damas P, Ledoux D, Nys M, Vrindts Y, De Groote D,
Franchimont P, et al. (1992), ʺCytokine serum level during
severe sepsis in human IL‐6 as a marker of severityʺ. Ann
Surg, 215(4), 356‐362.
2. Ferreira FL, Bota D P, Bross A, Melot C, Vincent JL (2001),
ʺSerial evaluation of the SOFA score to predict outcome in
critically ill patientsʺ. JAMA, 286(14), 1754‐1758.
3. Gardlund B, Sjolin J, Nilsson A, Roll M, Wickerts CJ, Wretlind
B (1995), ʺPlasma levels of cytokines in primary septic shock
in humans: correlation with disease severityʺ. J Infect Dis,
172(1), 296‐301.
4. Gogos CA, Drosou E, Bassaris HP, Skoutelis A (2000), ʺPro‐
versus anti‐inflammatory cytokine profile in patients with
severe sepsis: a marker for prognosis and future therapeutic
optionsʺ. J Infect Dis, 181(1), 176‐180.
5. Gursel G, Demirtas S (2006), ʺValue of APACHE II, SOFA and
CPIS scores in predicting prognosis in patients with
ventilator‐associated pneumoniaʺ. Respiration, 73(4), 503‐508.
6. Hà Tấn Đức (2006), Giá trị tiên lượng của nồng độ procalcitonin
máu trong 72 giờ đầu nhập viện trên bệnh nhân viêm phổi nặng,
Luận văn thạc sĩ y học, ĐHYD TP.HCM, 50‐80.
7. Harbarth S, Holeckova K, Froidevaux C, Pittet D, Ricou B,
Grau GE, et al. (2001), ʺDiagnostic value of procalcitonin,
interleukin‐6, and interleukin‐8 in critically ill patients
admitted with suspected sepsisʺ. Am J Respir Crit Care Med,
164(3), 396‐402.
8. Ho KM, Lee KY, Williams T, Finn J, Knuiman M, Webb SA
(2007), ʺComparison of Acute Physiology and Chronic Health
Evaluation (APACHE) II score with organ failure scores to
predict hospital mortalityʺ. Anaesthesia, 62(5), 466‐473.
9. Lê Thị Diễm Tuyết, Trần Minh Tuấn (2009), ʺĐánh giá tác
dụng của lọc máu liên tục trong điều trị suy đa tạng tại khoa
điều trị tích cực bệnh viện Bạch Maiʺ. Y Học Thực Hành,
668(7), tr. 84‐87.
10. Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008), Vai trò của procalcitonin trong
chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn huyết, Luận văn thạc sĩ y học,
ĐHYD TP.HCM, 67‐82.
11. Peres BD, Melot C, Lopes FF, Nguyen Ba V, Vincent JL (2002),
ʺThe Multiple Organ Dysfunction Score (MODS) versus the
Sequential Organ Failure Assessment (SOFA) score in
outcome predictionʺ. Intensive Care Med, 28(11), 1619‐1624.
12. Pinsky MR, Vincent JL, Deviere J, Alegre M, Kahn RJ, Dupont
E (1993), ʺSerum cytokine levels in human septic shock.
Relation to multiple‐system organ failure and mortalityʺ.
Chest, 103(2), 565‐575.
13. Timsit JF, Fosse JP, Troche G, De Lassence A, Alberti C,
Garrouste‐Orgeas M, et al. (2002), ʺCalibration and
discrimination by daily Logistic Organ Dysfunction scoring
comparatively with daily Sequential Organ Failure
Assess