Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 312 
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ GÂY MÊ HỒI SỨC 
TRONG PHẪU THUẬT BỆNH LÝ U NÃO 
Nguyễn Văn Chừng*, Trần Thị Hồng Nhi** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Gây mê trong phẫu thuật mổ u não là một phần khó trong gây mê phẫu thuật thần kinh, chỉ cần 
một sai sót nhỏ của bác sĩ phẫu thuật hay bác sĩ gây mê đều có thể dẫn đến những hậu quả lớn. 
Mục tiêu:Khảo sát đặc điểm lâm sàng, đặc điểm về gây mê hồi sức chu phẫu của bệnh nhân được mổ u não. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tiền cứu, mô tả trên 39 bệnh 
nhân được chẩn đoán u não dựa trên lâm sàng và hình ảnh học có chỉ định phẫu thuật tại khoa Gây mê hồi sức 
bệnh viện nhân dân 115 thành phố Hồ Chí Minh được phẫu thuật trong thời gian từ 01/11/2009 đến 31/3/2010. 
Kết quả: Số bệnh nhân có kết quả tốt, chuyển về khoa trong vòng 48 giờ hậu phẫu là 34/39, chiếm tỷ lệ 
87,18%. Số bệnh nhân có biến chứng sau mổ là 5/39, chiếm tỷ lệ 12,82%. Hai bệnh nhân tử vong, chiếm tỷ lệ 
5,13%, nguyên nhân tử vong chủ yếu là do phù não. 
Kết luận: Việc điều chỉnh thông khí, điều chỉnh huyết động và phòng ngừa, điều trị phù não trong mổ một 
cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc mổ, giúp bệnh nhân thức tỉnh sớm sau mổ, hồi phục tri giác 
và vận động sớm. PaO2 trong mổ tăng quá cao so với bình thường có thể gây giảm lưu lượng máu não; do đó 
không nên để FiO2 quá cao trong gây mê, nhất là đối với những cuộc mổ dài, cũng nhằm tránh tai biến xẹp phổi. 
Từ khóa: u não, phù não, gây mê hồi sức. 
ABSTRACT 
STUDYING CLINICAL AND ANESTHESIA CHARACTERISTICS IN BRAIN TUMOR SURGERY 
Nguyen Van Chung, Tran Thi Hong Nhi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 312 - 318 
Background: Anaesthesia in brain tumor surgery is a difficult part of neurosurgery anaesthesia. A small 
error of anaesthesist or surgeon can cause hazardous consequences. 
Objectives: To examinate the clinical and anesthesia characteristics in brain tumor surgery. 
Methods: We do the respective study with 39 patients, diagnosed brain tumor and having the surgical 
indications at anesthesia department of 115 People’s hospital, Ho Chi Minh city, from 01/11/2009 to 31/03/2010. 
Results: 34/39 patients (87.18%) had good outcomes, recovery time was under 48 hours; 5/39 patients 
(12.82%) had post – operation complications including 2 patients passed away caused by brain edema. 
Conclusions:Adjustment of ventilation, hemodynamic and management of brain edema reasonably will 
contribute to raise patients’ outcome, shorter recovery time, help the patients move earlier. PaO2 of the patients in 
the operation period is too high that may decrease cerebral blood flow and the high FiO2 can cause pneumolysis. 
So, FiO2 should not be high, especially in long operations. 
Keywords: brain tumor, brain edema, anesthesia. 
∗ Phân môn Gây mê Hồi sức - Bộ môn Ngoại - ĐHYD TP.HCM 
** Bệnh viện đa khoa tỉnh Long An 
Tác giả liên lạc: Th.S Trần Thị Hồng Nhi, ĐT:0914710747, email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 313
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gây mê - phẫu thuật bệnh u não là một phần 
khó trong gây mê phẫu thuật thần kinh, chỉ cần 
một sai sót nhỏ của bác sĩ phẫu thuật hay bác sĩ 
gây mê đều có thể dẫn đến những hậu quả lớn. 
Đã có nhiều nghiên cứu về gây mê hồi sức thần 
kinh trên thế giới cũng như trong nước nhưng 
gây mê phẫu thuật bệnh u não vẫn còn nhiều 
điều cần quan tâm. Vì vậy, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng và gây mê hồi sức trong phẫu thuật bệnh lý 
u não”. 
Mục tiêu đề tài 
Khảo sát đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân 
được mổ u não: tri giác, triệu chứng thần kinh 
khu trú, đặc điểm khối u não 
Khảo sát đặc điểm về gây mê hồi sức 
trong giai đoạn chu phẫu cắt bỏ u não: thay 
đổi hô hấp, huyết động, tri giác của bệnh 
nhân sau mổ 
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Những bệnh nhân được chẩn đoán u não 
dựa trên lâm sàng và hình ảnh học có chỉ định 
phẫu thuật tại khoa Gây mê hồi sức bệnh viện 
nhân dân 115 thành phố Hồ Chí Minh, được 
phẫu thuật trong thời gian từ 01/11/2009 đến 
31/3/2010. 
Thiết kế nghiên cứu 
Tiền cứu, mô tả. 
Phương pháp nghiên cứu 
Đánh giá trước mổ: Tình trạng sức khỏe của 
bệnh nhân theo tiêu chuẩn ASA, tình trạng tăng 
ALNS. 
Phương pháp gây mê: Gây mê toàn thân với 
đặt nội khí quản, thông khí kiểm soát. Điều 
chỉnh thông khí ban đầu: Vt = 8-10 ml/kg, tần số 
thở = 12 lần/phút, FiO2 = 60 – 100%. Sau đó, điều 
chỉnh thông khí sau cho EtCO2 trong khoảng 30 -
35 mmHg. 
Phòng ngừa và điều trị phù não, tăng ALNS 
trong mổ: Đánh giá phù não dựa vào phim trước 
mổ, nhìn phẫu trường hay dựa vào sự đánh giá 
của bác sĩ phẫu thuật. Thuốc được dùng là Solu-
Medrol, dùng thêm Mannitol nếu cần. 
Đánh giá và bồi hoàn máu mất. 
Sau mổ, tùy theo tình trạng bệnh nhân, có thể 
cho bệnh nhân tỉnh sớm hay thở máy. 
Theo dõi các chỉ số sinh tồn trong mổ, gồm 
mạch, huyết áp, SpO2, EtCO2, FiO2 mỗi 15 phút, 
khí máu động mạch (lúc rạch da và lúc đóng 
da). 
Xử lý số liệu 
Tất cả các số liệu thu được trong quá trình 
theo dõi được xử lý bằng chương trình SPSS 
11.5. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 11 năm 2009 đến tháng 3 năm 
2010, chúng tôi thu thập được 39 trường hợp mổ 
u não tại khoa Gây mê hồi sức bệnh viện Nhân 
dân 115. 
Đặc điểm bệnh nhân trước mổ 
-Tuổi trung bình: 46,9 ± 14,92; thấp nhất là 
16; cao nhất là 82. Nam chiếm 53,85%, nữ chiếm 
46,15%. 
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo ASA. 
ASA I II III IV 
Số BN 13 18 7 1 
Tỷ lệ 33,33% 46,15% 17,94% 2,56% 
Bảng 2: Bệnh lý kèm theo. 
Bệnh kèm theo Số lượng Tỷ lệ % 
Thiếu máu cơ tim 1 2,56% 
Tiểu đường 3 7,69% 
TBMMN 1 2,56% 
Cao HA, tiểu đường 2 5,12% 
Cao HA 1 2,56% 
Tổng 8 20,49% 
Bảng 3: Chẩn đoán sau mổ. 
Chẩn đoán sau mổ Số lượng Tỷ lệ % 
U màng não 9 23,08% 
U não bán cầu 19 48,72% 
U tuyến yên 4 10,26% 
U góc cầu tiểu não 4 10,26% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 314 
Chẩn đoán sau mổ Số lượng Tỷ lệ % 
U não bán cầu / K vú 1 2,56% 
U não hố sau 1 2,56% 
U xương sọ 1 2,56% 
Tổng số 39 100,00% 
Bảng 4: Dùng thuốc chống phù não trước mổ. 
 Số lượng Tỷ lệ 
Không 11 28,21% 
Mannitol 0 0,00% 
Corticoids 23 58,97% 
Mannitol+Corticoids 5 12,82% 
Bảng 5: Lượng dịch truyền trung bình trong mổ. 
Dịch 
truyền 
trong mổ 
Trung 
bình (ml) 
Ít 
nhất (ml) 
Nhiều 
nhất (ml) 
NaCl 2020 700 4700 
Haes- 
Steril 6% 
323 0 1100 
Bảng 6: Thuốc mê dùng trong mổ. 
Thuốc gây mê Số trường hợp Tỷ lệ % 
Thuốc ngủ dẫn đầu 
Thiopental 23 58,97% 
Propofol 16 41,03% 
Thuốc giảm đau 
Fentanyl 2 5,12% 
Sufentanil 37 94,88% 
Thuốc mê bốc hơi duy trì 
Isoflurane 22 56,41% 
Sevoflurane 17 43,59% 
Trung bình ước lượng máu mất của bệnh 
nhân là: 630 ± 115 ml. 
Bảng 7: Truyền máu trong mổ. 
Số đơn vị máu Tần suất Tỷ lệ % 
0 25 64,1 
2 10 25,6 
4 3 7,7 
6 1 2,6 
Tổng 39 100,0 
Bảng 8: Thời gian lưu hậu phẫu. 
Thời gian Tần suất Tỷ lệ % 
< 24 giờ 27 69,2 
24 - 48 giờ 9 23,1 
> 48 h 3 7,7 
Tổng số 39 100,0 
Bảng 9: Biến chứng sau mổ. 
Biến chứng sau mổ Tần suất Tỷ lệ % 
Đái tháo nhạt 1 2,6% 
Mê sâu, xin về 1 2,6% 
Phù não- tử vong 2 5,1% 
Tỉnh chậm 1 2,6% 
Tổng số 5 12,8% 
Bảng 10: Sự thay đổi các khí trong máu lúc rạch da 
và lúc đóng da. 
Xét nghiệm Lúc rạch da Lúc đóng da Trị số bình thường 
pH 7,46 ± 0,07 7,39 ± 0,07 7,40 ± 0,05 
PaCO2 (mmHg) 37,30 ± 8,05 38,40 ± 7,81 40,00 ± 5,00 
PaO2 (mmHg)
347,90 ± 
102,46 
297,20 ± 
98,05 80,00 ± 5,00 
HCO-3 (mEq/L) 26,50 ± 3,83 23,10 ± 3,67 24,00 ± 2,00 
BÀN LUẬN 
Phân bố bệnh nhân theo tuổi 
Tuổi trung bình của bệnh nhân là: 46,90 ± 
14,92. Số BN phân bố nhiều nhất là ở nhóm 
tuổi 45 - 55 tuổi. Theo tác giả Nguyễn Phong 
và cộng sự, tuổi trung bình là 37,1; nhóm tuổi 
gặp nhiều nhất là 31 - 50 tuổi(3). 
Phân bố bệnh nhân theo giới tính 
Nam chiếm 53,85%, nữ chiếm 46,15%. Tỷ lệ 
nam nhiều hơn nữ cũng phù hợp với các tài liệu 
đã được công bố. Theo Nguyễn Phong và cộng 
sự, bệnh nhân nam chiếm 54%, nữ 46%(3). 
Phân loại bệnh nhân theo ASA 
Đa số BN trong nghiên cứu của chúng tôi có 
ASA I và II (78,48%), 7 BN có ASA III (17,95%) 
và 1 BN có ASA IV (2,56%). Việc đánh giá ASA 
giúp xác định tình trạng bệnh của BN trước mổ. 
Từ đó có thể dự kiến thực hiện các bước gây mê 
và theo dõi cho mỗi bệnh nhân. 
Triệu chứng thần kinh khu trú 
Triệu chứng thần kinh khu trú rất đa 
dạng, tùy theo vị trí của u, BN có thể có triệu 
chứng yếu liệt, động kinh, giảm thị lực, giảm 
thính lực, tiêu tiểu không tự chủ, rối loạn tâm 
thần 28,2% BN không có triệu chứng thần 
kinh khu trú. 
Việc khám kỹ lưỡng các tổn thương thần 
kinh trước mổ cũng cần thiết để đánh giá sau 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 315
mổ xem bệnh nhân có bị tổn thương thêm hay 
không cũng như việc hồi phục tốt do phẫu thuật 
đem lại. 
Bệnh lý kèm theo 
Đa số BN không có bệnh lý kèm theo. Bệnh 
kèm theo chiếm 23,2%, thường gặp nhất là tiểu 
đường (5 bệnh nhân) và cao huyết áp (2 bệnh 
nhân). Việc nắm rõ bệnh lý đi kèm của bệnh 
nhân cũng rất quan trọng. Điều này giúp cho 
người gây mê tìm hiểu thêm mức độ tổn thương 
của các cơ quan để chủ động xử trí những biến 
chứng trong gây mê; đồng thời tìm hiểu các 
thuốc bệnh nhân đang dùng để tránh tình trạng 
tương tác thuốc. 
Corticoids 
Phù não trong u não là kết quả của sự di 
chuyển huyết tương vào nhu mô não qua màng 
tế bào não bị mất chức năng. Ngoài ra, sự rối 
loạn chức năng của các protein liên kết của tế 
bào nội mạc mạch máu cũng đóng vai trò quan 
trọng trong việc gây ra phù não do u. Dùng 
Corticoids đã được chứng minh là có lợi cho 
những BN u não có phù não(12).Có 71,8% BN 
được ghi nhận có dùng Corticoids trước mổ. Ở 
đây, BN được dùng chủ yếu là Solu - Medrol 
(Methyl Prednisolone). 
Mannitol 
Có 12,8% trường hợp sử dụng Mannitol 
trước mổ. Hiệu quả của Mannitol tùy thuộc vào 
sự nguyên vẹn của hàng rào máu não. Nếu hàng 
rào máu não bị tổn thương toàn bộ, sẽ không có 
sự chênh lệch áp suất thẩm thấu và nước sẽ tích 
tụ gây phù não. Ở vùng hàng rào máu não tổn 
thương ở mức độ rất ít, chênh lệch thẩm thấu có 
thể hiệu quả. Ở vùng hàng rào máu não bình 
thường, dung dịch ưu trương sẽ lấy nước ở mô 
não bình thường, dẫn đến giảm thể tích máu 
não, giảm áp lực nội sọ(16). 
Ngày nay, những nghiên cứu mới về điều trị 
chống phù não đã nêu bật vai trò của dung dịch 
muối ưu trương và đang được áp dụng rộng rãi. 
Wu CT nghiên cứu trên những bệnh nhân mổ u 
não trên lều cho thấy dung dịch muối ưu trương 
làm giảm căng não tốt hơn Mannitol mà không 
gây tác dụng phụ sau mổ và ảnh hưởng đến số 
ngày nằm viện(18). Da Silva JC và cộng sự đã gây 
tăng áp lực nội sọ thực nghiệm trên thỏ cho thấy 
rằng dung dịch NaCl 10% có hiệu quả hơn 
Mannitol trong điều trị tăng áp lực nội sọ(15). 
Đặc điểm gây mê hồi sức trong mổ 
Thời gian mổ 
Thời gian mổ trung bình là 225 phút. Mổ bóc 
u não thường kéo dài. Điều này có nhiều khó 
khăn cho người gây mê, như mất máu, tỳ đè, 
kéo căng dây thần kinh do đặt tư thế thuận lợi 
cho phẫu trường trong thời gian dài. 
Thay đổi mạch và huyết áp trong mổ 
Mạch trung bình trong mổ thay đổi từ 60,3 - 
95,49 lần /phút. Huyết áp tâm thu trung bình lúc 
mở màng cứng là 94,8 mmHg, huyết áp tâm 
trương trung bình lúc mở màng cứng là 56,36 
mmHg. Như vậy, huyết áp của đa số bệnh nhân 
không tụt khi mở màng cứng, điều đó hạn chế 
được những tai biến xảy ra ngay sau đó. Tụt 
huyết áp đột ngột thường xảy ra lúc mở màng 
cứng vì khi đó nhu mô não được giải áp. Cơ chế 
duy trì áp lực tưới máu não giảm đột ngột kết 
hợp với ảnh hưởng của thuốc mê sẽ gây tụt 
huyết áp trầm trọng. Tai biến tụt huyết áp đáng 
lo ngại nhất ở những bệnh nhân có tăng ALNS 
trước đó. 
Thay đổi EtCO2 trong mổ 
EtCO2 trung bình của bệnh nhân trong mổ 
dao động từ 27,69 – 31,38 mmHg. Chúng tôi chủ 
động tăng thông khí vừa phải (4), nhằm mục 
tiêu EtCO2 khoảng 30-35 mmHg, EtCO2 trung 
bình lúc lấy u là 30 ± 3,97. EtCO2 trung bình của 
bệnh nhân lúc rạch da là 30,36 mmHg. EtCO2 
trung bình của bệnh nhân trong mổ dao động từ 
27,69 – 31,38 mmHg. 
Dịch truyền trong mổ 
Lượng dịch truyền được dùng trong mổ là 
NaCl 0,9%, trung bình 2020 ml. Ở đây chúng tôi 
dùng dung dịch NaCl 0,9%, dù dung dịch này 
có áp lực thẩm thấu không giống hoàn toàn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 316 
huyết tương, nhưng đây là dung dịch hợp lý 
nhất so với các dung dịch thường dùng khác. 
Dung dịch NaCl 0,9% hơi ưu trương 
(308mOsm/L), khi dùng với lượng lớn dẫn đến 
toan chuyển hóa tăng Clor. Do đó, nhiều nhà 
lâm sàng thích dùng Lactate Ringer hơn. Tuy 
nhiên, Lactate Ringer với áp lực thẩm thấu 273 
mOsm/L có thể gây phù não khi dùng lượng 
lớn. Vì vậy, khi truyền lượng dịch lớn, do mất 
máu nhiều hay đa thương, chúng ta dùng xen kẻ 
từng chút giữa Lactate Ringer và dung dịch 
NaCl 0,9%. 
Lượng dung dịch keo (Haes-Steril 6%) dùng 
trong mổ trung bình là 323ml. 42,6% bệnh nhân 
không cần phải dùng dung dịch keo trong mổ 
do cuộc mổ ngắn, ít mất máu như mổ u tuyến 
yên qua ngã xương bướm. 
Truyền máu trong mổ 
Tỷ lệ bệnh nhân phải truyền máu trong mổ 
là 35,9%. Trong đó, có 1 bệnh nhân phải truyền 6 
đơn vị máu toàn phần, 4 đơn vị hồng cầu lắng, 4 
đơn vị huyết tương tươi đông lạnh. Bệnh nhân 
này dự hậu rất xấu, tử vong vào ngày thứ 2 hậu 
phẫu. Đây là trường hợp bệnh nhân được chẩn 
đoán u màng não cánh bé xương bướm (P). Trên 
phim MRI, u có kích thước 79 x 70 x 65 mm, 
ranh giới rõ, ở vị trán thái dương (P), chèn ép 
não thất bên (P), đẩy lệch đường giữa 19 mm. 
Ước lượng máu mất 
Ước lượng máu mất trung bình là: 630 ± 
115 ml. Bệnh nhân có số lượng máu mất ước 
lượng nhiều nhất là 4000ml. Đây là trường hợp 
bệnh nhân trước mổ Glasgow 15 điểm, nhưng vì 
tính chất u được mô tả ở phần truyền máu nên 
chảy máu trong mổ rất nhiều. 
Chọn lựa thuốc mê 
Thuốc giảm đau nhóm á phiện 
Hai loại thuốc giảm đau được dùng là 
Sufentanil và Fentanyl. Trong đó, Sufentanil 
chiếm đa số. Hai nghiên cứu của Bilotta F (và 
cộng sự) cũng như của Martorano PP (và cộng 
sự) đã chứng minh rằng Remifentanil và 
Sufentanil đều kết hợp tốt với Propofol trong 
gây mê tĩnh mạch toàn bộ, tuy nhiên BN dùng 
Sufentanil ít nhu cầu giảm đau hơn và tỉnh tốt 
hơn Remifentanil(6,13). Guy J và cộng sự đã 
nghiên cứu so sánh giữa Remifentanil và 
Fentanyl trong mở sọ trên lều cho thấy 
Remifentanil ổn định huyết động tốt hơn nhưng 
đòi hỏi thuốc giảm đau sau mổ nhiều hơn so với 
Fentanyl(10). Balakrishnan và cộng sự cũng so 
sánh giữa hai thuốc này kết luận rằng BN được 
dùng Remifentanil trong gây mê cho mở sọ có 
thời gian tỉnh nhanh hơn so với Fentanyl(5). Del 
Gaudio và cộng sự cũng nghiên cứu những 
bệnh nhân mở sọ trên lều nhận thấy 
Remifentanil tỉnh nhanh hơn và giảm được liều 
dùng của thuốc mê tĩnh mạch(7). 
Như vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi, 
hơn 90% bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau 
là Sufentanil là yếu tố góp phần thành công cho 
cuộc gây mê phẫu thuật. 
Thuốc mê dẫn đầu 
Hai loại thuốc ngủ dẫn đầu được dùng cho 
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 
Thiopental (59%) và Propofol (41%).Thuốc mê 
tĩnh mạch khởi mê nhanh, tác động tối thiểu 
lên các cơ quan khác như tim mạch, hô hấp, 
thận, gan; có tác dụng giảm đau, tác động 
thuận lợi trên huyết động học của não như 
giảm mức chuyển hóa não đi đôi với lưu 
lượng máu não, không làm tăng thể tích máu 
não, duy trì sự tự điều hòa mạch máu não(9). 
Hernández-Palazón J đã chứng minh rằng gây 
mê tĩnh mạch với Propofol trong phẫu thuật 
nội sọ (u não trên lều) có thể duy trì tình trạng 
huyết động ổn định và làm giảm ALNS trừ lúc 
soi thanh quản; hơn nữa còn giúp bệnh nhân 
tỉnh nhanh sau mổ(11). 
Petersen và cộng sự nghiên cứu trên 117 
bệnh nhân mổ u não cho thấy trước cũng như 
trong thời gian tăng thông khí, ALNS và độ 
chênh Oxy động và tĩnh mạch thấp hơn và áp 
lực tưới máu não cao hơn khi gây mê với 
Propofol so với Isoflurane hoặc Sevoflurane(14). 
Wong AY đã phân tích trên 145 bệnh nhân cho 
thấy rằng dù những thuận lợi của thuốc mê tĩnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 317
mạch như khởi phát nhanh, tỉnh nhanh, giảm 
biến chứng hô hấp, nhưng tỷ lệ biến chứng như 
run, nôn và buồn nôn, cao huyết áp sau mổ vẫn 
còn cao(17). 
Thuốc mê duy trì 
Trong nghiên cứu, thuốc mê duy trì được 
dùng là Isoflurane (56,4%) và Sevoflurane 
(43,6%). Tất cả thuốc mê bốc hơi đều ức chế 
chuyển hóa não có liên quan đến liều lượng. 
Thuốc mê bốc hơi cũng có hoạt động dãn mạch 
não do ảnh hưởng trực tiếp trên cơ trơn mạch 
máu. Vì thế, tác dụng của thuốc mê bốc hơi trên 
lưu lượng máu não là sự cân bằng giữa giảm lưu 
lượng máu não do ức chế mức chuyển hóa não 
và sự tăng lưu lượng máu não do dãn mạch não 
trực tiếp. Khi dùng liều 0,5 MAC, sự giảm lưu 
lượng máu não do ức chế mức chuyển hóa não 
chiếm ưu thế và lưu lượng máu não thực sự 
giảm so với tình trạng thức tỉnh. Ở 1,0 MAC, lưu 
lượng máu não không đổi, sự ức chế mức 
chuyển hóa não và tác dụng dãn mạch cân bằng. 
Quá 1,0 MAC, hiện tượng dãn mạch chiếm ưu 
thế, hậu quả là tăng lưu lượng máu não và thể 
tích máu não dẫn đến tăng áp lực nội sọ. Thứ tự 
khả năng dãn mạch của các thuốc mê bốc hơi 
thường dùng như sau: Halothane = enflurane > 
desflurane ≈ isoflurane > sevoflurane. 
PaO2 
PaO2 trung bình lúc rạch da và đóng da là 
347,9 ± 102,46mmHg và 297,2 ± 98,05mmHg. 
Những trị số này quá cao so với trị số bình 
thường. FiO2 cao sẽ gây hại cho BN vì khi đó, 
trong khí thở vào không có hoặc rất ít khí Nitơ. 
Khí Nitơ là khí trơ, có tác dụng làm nở phế 
nang. FiO2 càng cao sẽ tăng nguy cơ xẹp phế 
nang dẫn đến xẹp phổi (1). 
Theo dõi trong mổ và biến chứng 
Có 27/39 bệnh nhân tỉnh và được chuyển về 
khoa ngoại thần kinh trong vòng 24 giờ sau mổ 
chiếm tỷ lệ 69,2%. Ba bệnh nhân (7,7%) thở máy 
hơn 48 giờ sau mổ. Có 5 bệnh nhân có biến 
chứng chiếm tỷ lệ 12,82%. Trong đó có 2 bệnh 
nhân có biến chứng là phù não, sau đó tử vong. 
Một BN có biến chứng đái tháo nhạt được điều 
trị bằng Minirin (Desmopressin) và lượng nước 
tiểu trở về bình thường vào ngày thứ 2 của hậu 
phẫu. Một bệnh nhân trước mổ có Glasgow 13 
điểm, sau mổ bệnh nhân này hồi phục tri giác 
chậm và được chuyển về khoa ngoại thần kinh 
vào ngày thứ 5 của hậu phẫu. Một bệnh nhân 82 
tuổi sau mổ mê sâu, xin về vào ngày thứ 3 của 
hậu phẫu. Hai bệnh nhân tử vong, chiếm tỷ lệ 
5,12%, trong đó một bệnh nhân trong mổ mất 
rất nhiều máu và truyền nhiều máu trong và sau 
mổ; một bệnh nhân mổ với khối u lớn, sau mổ 
tỉnh sớm, tuy nhiên sau đó vài giờ bệnh nhân 
hôn mê sâu, phù não nặng. 
KẾT LUẬN 
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 
46,90 ± 14,92, nam chiếm 53,85%. Có 78,48% 
bệnh nhân có ASA I và II. Số bệnh nhân cần điều 
trị chống phù não trước mổ là 28/39 (chiếm 
71,8%). Số lượng bệnh nhân tỉnh sớm, chuyển 
trại trong vòng 24 giờ hậu phẫu là 27/39, chiếm 
tỷ lệ 69,2%. Số bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng 
không tốt sau mổ là 5/39, chiếm tỷ lệ 12,82%. Hai 
bệnh nhân tử vong, chiếm tỷ lệ 5,13%, nguyên 
nhân tử vong chủ yếu là do phù não. 
Việc điều chỉnh thông khí, điều chỉnh huyết 
động và phòng ngừa, điều trị phù não trong mổ 
một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả 
của cuộc mổ, giúp bệnh nhân thức tỉnh sớm sau 
mổ, hồi phục tri giác và vận động sớm. Theo dõi 
thật sát bệnh nhân ở giai đoạn hậu phẫu rất 
quan trọng để có thể phát hiện kịp thời những 
tai biến và biến chứng. Để tránh tai biến xẹp 
phổi, không nên để FiO2 quá cao trong gây mê, 
nhất là đối với những cuộc