Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả vô cảm, giảm đau sau mổ, tác dụng phụ của phương pháp gây tê
tủy sống với 10 mg Bupivacaine 0,5% phối hợp 100 µg Morphine trong phẫu thuật nội soi khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên có nhóm chứng trên 90
bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối với gây tê tủy sống. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm:
nhóm 1 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg, nhóm 2 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg phối hợp Fentanyl 20 µg, nhóm
3 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg phối hợp Morphine 100 µg. Hiệu quả vô cảm, thời gian giảm đau sau mổ, tổng
lượng thuốc giảm đau cần sử dụng, tác dụng phụ của từng bệnh nhân được đánh giá trong mổ và 24 giờ đầu
sau mổ.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân đều đạt vô cảm tốt trong mổ. Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi, giới tính,
cân nặng, chiều cao, ASA giữa 3 nhóm. Thời gian giảm đau khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm, nhóm
3: 812,03 ± 134,01phút, nhóm 2: 284,43 ± 38,34 phút, nhóm 1: 229,13 ± 49,96 phút. Điểm đau khi nghỉ và khi
vận động tại các thời điểm 2, 4, 6, 12 giờ sau mổ ở nhóm 3 thấp hơn đáng kể so với nhóm 1. Điểm đau ở thời
điểm 18 và 24 giờ sau mổ tương tự nhau giữa 3 nhóm. Tổng lượng thuốc giảm đau 24 giờ sau mổ nhóm 3 giảm
đáng kể so với nhóm 1 và nhóm 2. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tác dụng phụ giữa 3 nhóm.
Kết luận: So với gây tê tủy sống sử dụng Bupivacaine 0,5% đơn thuần hay với Fentanyl, sự phối hợp
Bupivacaine 0,5% 10 mg và Morphine 100 µg trong phẫu thuật nội soi khớp gối là an toàn và kéo dài thời gian
giảm đau sau mổ, giảm tổng lượng thuốc giảm đau trong 24 giờ đầu sau mổ mà không tăng tác dụng phụ.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả gây tê tủy sống với Bupivacaine phối hợp Morphine trong phẫu thuật nội soi khớp gối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 354
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ GÂY TÊ TỦY SỐNG VỚI BUPIVACAINE
PHỐI HỢP MORPHINE TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI KHỚP GỐI
Nguyễn Văn Chừng*, Nguyễn Hữu Cầu**, Nguyễn Phục Nguyên*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả vô cảm, giảm đau sau mổ, tác dụng phụ của phương pháp gây tê
tủy sống với 10 mg Bupivacaine 0,5% phối hợp 100 µg Morphine trong phẫu thuật nội soi khớp gối.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên có nhóm chứng trên 90
bệnh nhân phẫu thuật nội soi khớp gối với gây tê tủy sống. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm:
nhóm 1 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg, nhóm 2 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg phối hợp Fentanyl 20 µg, nhóm
3 dùng Bupivacaine 0,5% 10 mg phối hợp Morphine 100 µg. Hiệu quả vô cảm, thời gian giảm đau sau mổ, tổng
lượng thuốc giảm đau cần sử dụng, tác dụng phụ của từng bệnh nhân được đánh giá trong mổ và 24 giờ đầu
sau mổ.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân đều đạt vô cảm tốt trong mổ. Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi, giới tính,
cân nặng, chiều cao, ASA giữa 3 nhóm. Thời gian giảm đau khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm, nhóm
3: 812,03 ± 134,01phút, nhóm 2: 284,43 ± 38,34 phút, nhóm 1: 229,13 ± 49,96 phút. Điểm đau khi nghỉ và khi
vận động tại các thời điểm 2, 4, 6, 12 giờ sau mổ ở nhóm 3 thấp hơn đáng kể so với nhóm 1. Điểm đau ở thời
điểm 18 và 24 giờ sau mổ tương tự nhau giữa 3 nhóm. Tổng lượng thuốc giảm đau 24 giờ sau mổ nhóm 3 giảm
đáng kể so với nhóm 1 và nhóm 2. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tác dụng phụ giữa 3 nhóm.
Kết luận: So với gây tê tủy sống sử dụng Bupivacaine 0,5% đơn thuần hay với Fentanyl, sự phối hợp
Bupivacaine 0,5% 10 mg và Morphine 100 µg trong phẫu thuật nội soi khớp gối là an toàn và kéo dài thời gian
giảm đau sau mổ, giảm tổng lượng thuốc giảm đau trong 24 giờ đầu sau mổ mà không tăng tác dụng phụ.
Từ khóa: Morphine, Fentanyl, gây tê tủy sống, Morphine tê tủy sống, giảm đau sau mổ, phẫu thuật nội soi
khớp gối.
ABSTRACT
STUDYING EFFICACY OF SPINAL ANESTHESIA USING BUPIVACAINE AND MORPHINE IN
ARTHROSCOPIC KNEE JOINT SURGERY
Nguyen Van Chung, Nguyen Huu Cau, Nguyen Phuc Nguyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 354 - 361
Purpose: To evaluate the efficacy of spinal anesthesia, postoperative analgesia, side effects of the spinal
anesthesia using 10 mg Bupivacaine 0.5% and 100 µg Morphine in arthroscopic knee joint surgery.
Methods: We performed a prospective, randomized, controlled study in 90 patients undergoing arthroscopic
knee joint surgeries under spinal anesthesia. Patients were randomly allocated to three groups: group 1: received
Bupivacaine 0.5% 10 mg, group 2: received Bupivacaine 0.5% 10 mg combined Fentanyl 20 µg , group 3:
received Bupivacaine 0.5% 10 mg combined Morphine 100 µg. The efficacy of spinal anesthesia, duration of
postoperative analgesia, total analgesic requirements, side effects of each patients were recorded during operation
and within the first 24 hours postoperation.
Results: All of patients got adequate anesthesia for surgery. There were no significant differences in age, sex,
weight, height, ASA between three groups. The duration of completed analgesia was statistically different
* Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, ** Bệnh Viện quận Thủ Đức TP HCM
Địa chỉ liên hệ : BS Nguyễn Phục Nguyên ĐT: 0935138183 Email: nguyencd1983@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 355
between 3 groups: Group 3 : 812.03 ± 134.01 minutes, Group 2: 284.43 ± 38.34 minutes, Group 1: 229.13 ±
49.96 minutes. Pain scores at rest and at movement at 2, 4, 6, 12h postoperation in group 3 were significantly
lower than that in group 1. Pain scores at 18, 24h postoperation were similar between 3 groups. Total analgesic
requirements in the first 24 hours postoperation in group 3 were significantly lower than that in group 1 and
group 2. There were no statistically significant differences in side effects betweeen 3 groups.
Conclusion: Comparing with spinal anesthesia using Bupivacaine 0.5% alone or with Fentanyl, the
combination of Bupivacaine 0.5% 10 mg and Morphine 100 µg for arthroscopic knee joint surgery was safe,
prolonged duration of postoperative analgesia and reduced the total analgesic requirements in the first 24 hours
postoperation without increasing side effects.
Key words: Morphine, Fentanyl, spinal anesthesia, intrathecal Morphine, postoperative analgesia,
arthroscopic knee joint surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự ra đời của lĩnh vực nội soi được ghi nhận
từ giữa thế kỷ XIX và ngày càng phát triển mạnh
ở tất cả các chuyên ngành ngoại khoa. Trong
ngành chấn thương chỉnh hình, kể từ khi Tagaki
và Watanabe lần đầu tiên quan sát khớp gối
bằng dụng cụ soi bàng quang năm 1918 – 1920,
đến nay phẫu thuật nội soi khớp gối đã tiến bộ
rất nhanh và phát triển lớn mạnh. Kết quả cuối
cùng việc điều trị bệnh không chỉ dừng lại ở
thành công của cuộc mổ mà còn là cả một quá
trình nổ lực tập phục hồi chức năng sau mổ.
Đau là một vấn đề làm bệnh nhân (BN) lo
lắng. Đau gây ra nhiều ảnh hưởng lên các cơ
quan, lên sự hồi phục sức khỏe và tâm lý BN. Do
vậy, kiểm soát đau sau mổ được các bác sỹ gây
mê hồi sức và bác sỹ phẫu thuật quan tâm. Việc
giảm đau tốt giúp BN được nâng đỡ về thể chất
lẫn tinh thần, lấy lại cân bằng tâm sinh lý, tham
gia tập vật lý trị liệu sớm sau mổ, giảm thời gian
nằm viện
Gây tê tủy sống là phương pháp vô cảm
được áp dụng phổ biến trong phẫu thuật nội soi
khớp gối vì kỹ thuật tiến hành tương đối dễ
dàng, đảm bảo vô cảm tốt cho thao tác phẫu
thuật, đồng thời BN còn tỉnh táo để trao đổi hợp
tác với bác sỹ. Tuy nhiên, thời gian giảm đau sau
mổ của thuốc tê tủy sống ngắn, nên phải dùng
thêm một lượng lớn thuốc giảm đau toàn thân
sau mổ.
Sự kết hợp thuốc tê và opioid làm tăng tác
dụng giảm đau, kéo dài thời gian giảm đau sau
mổ và giảm được liều, giảm tác dụng phụ của
mỗi thuốc.
Morphine là thuốc ít tan trong mỡ, ít gắn
protein, nên khi tiêm vào tủy sống sẽ chậm thải
trừ và có tác dụng giảm đau kéo dài.
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về
kết hợp một liều nhỏ Morphine và Bupivacaine
khi gây tê tủy sống để có thể kéo dài thời gian
giảm đau sau mổ. Ở Việt Nam, các nghiên cứu
về sử dụng Morphine tiêm tủy sống để giảm
đau sau mổ là chưa nhiều, và chưa có nghiên
cứu nào trong phẫu thuật nội soi khớp gối.
Đồng thời, hiện nay với sự có mặt của
Morphine không có chất bảo quản (Opiphin),
thuốc có thể dùng được qua đường tủy sống,
điều này đảm bảo an toàn cho chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với các mục tiêu đánh giá hiệu
quả của gây tê tủy sống với Bupivacaine phối
hợp Morphine trong phẫu thuật nội soi khớp
gối về các vấn đề sau:
Hiệu quả vô cảm trong mổ.
Thời gian giảm đau và mức độ giảm đau sau
mổ khi nghỉ, khi vận động.
Tác dụng phụ và biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có nhóm chứng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 356
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 90 bệnh
nhân nhập viện để phẫu thuật nội soi khớp gối
tại bệnh viện Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Gây tê tủy sống với Bupivacaine
0,5% 10 mg.
Nhóm 2: Gây tê tủy sống với Bupivacaine
0,5% 10 mg phối hợp Fentanyl 20 μg.
Nhóm 3: Gây tê tủy sống với Bupivacaine
0,5% 10 mg phối hợp Morphine 100 μg.
Kỹ thuật chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
ASA I, II
Tuổi 18-60
Phẫu thuật chương trình nội soi khớp gối.
Tiêu chuẩn loại trừ
Không giao tiếp được.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Bệnh nhân có chống chỉ định gây tê tủy
sống.
Phương Pháp tiến hành
Thăm khám tiền mê, kiểm tra các xét nghiệm
tiền thường qui trước mổ.
Chọn bệnh nhân theo tiêu chuẩn nghiên
cứu.
Giải thích cho BN về các phương pháp tê tủy
sống
Áp dụng kỹ thuật chọn ngẫu nhiên theo
kiểu bốc thăm.
Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên
bằng kim 18G hay 20G, truyền dung dịch
Lactate Ringer hay Natri Cloride 0,9% 10 ml/kg
trước khi vào phòng mổ.
Đặt các điện cực theo dõi ECG, đo huyết áp,
SpO2 trước khi gây tê.
Thở oxy qua cannula mũi 2-3 l/phút.
Đặt BN tư thế nằm nghiêng bên chân cần
mổ, mốc chọc dò là khoảng liên đốt L3-4.
Chọc dò tủy sống với kim tê tủy sống 27G.
Thuốc bơm vào tủy sống theo kết quả bóc
thăm trên phiếu.
Theo dõi BN
Theo dõi trong mổ
Theo dõi dấu hiệu sinh tồn: mạch, huyết áp,
nhịp thở, SpO2 trước gây tê và sau gây tê ở phút
thứ 1, 3, 5, 7, 10, 15, 20, 30, 60 và khi kết thúc
phẫu thuật.
Ghi nhận thời gian từ khi bơm thuốc tê đến
khi BN có cảm giác tê, thời gian từ khi bơm
thuốc tê đến khi ức chế được cảm giác đến
khoanh tủy D10.
Đánh giá mức độ liệt vận động theo thang
điểm Bromage Scale.
Đánh giá kết quả gây tê.
Đánh giá các tác dụng phụ như: lạnh run, bí
tiểu, nhức đầu, đau lưng, buồn nôn, ngứa.
Theo dõi sau mổ
Ghi nhận thời gian tê
Ghi nhận thời điểm BN bắt đầu có nhu cầu
dùng thuốc giảm đau, tổng lượng thuốc
paracetamol, non steroid, morphine đã dùng
trong 24 giờ sau mổ.
Ghi nhận thời gian phục hồi vận động.
Theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO2,
mức độ an thần, đánh giá mức độ đau khi nghỉ
và khi vận động, các tác dụng phụ như: buồn
nôn, nôn, ngứa, bí tiểu, lạnh run, nhức đầu, đau
lưng tại các thời điểm 0 – 1 – 2 – 4 – 6 – 12 – 18 –
24 giờ sau phẫu thuật. Ngoài các thời điểm trên,
bất kỳ khi nào BN có diễn tiến bất thường đều
được ghi nhận và xử trí.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 357
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
ĐẶC ĐIỂM NHÓM 1 NHÓM 2 NHÓM 3 TỔNG CỘNG
Nữ 18(60,0) 14(46,7) 10(33,3) 42(46,7) Giới (%)
Nam 12(40,0) 16(53,3) 20(20,0) 48(53,3)
< 150 cm 6(20,0) 5(16,7) 1(3,3) 12(13,3)
150 ->159 cm 7(23,3) 7(23,3) 8(26,7) 22(24,4)
Chiều cao
(%)
≥160 cm 17(56,7) 18(60,0) 21(70,0) 56(62,2)
I (%) 17 (56,7) 14 (46,7) 21 (70,0) 52 (58,8) ASA
II (%) 13 (43,3) 16 (53,3) 9 (30,0) 38 (42,2)
Tuổi ( năm) 45,87 ± 16,28 49,57 ± 16,44 41,10 ± 15,53 45,51± 16,28
Cân nặng (kg) 60,70 ± 10,96 61,83 ± 10,70 64,17 ± 10,41 62,23 ± 10,67
Thời gian từ lúc tiêm thuốc đến lúc phẫu
thuật ( phút)
22,00 ± 5,37 20,50 ± 7,69 18,87 ± 5,43 20,46 ± 6,32
Thời gian phẫu thuật ( phút) 61,03±26,23 62,17±23,70 61,57±18,95 61,59 ± 22,90
Không có sự khác biệt về giới, tuổi, cân
nặng, chiều cao, phân loại ASA, thời gian tiêm
thuốc đến lúc phẫu thuật, thời gian phẫu thuật
giữa 3 nhóm ( p > 0,05 ).
Đặc điểm gây tê
Bảng 2: Thời gian ức chế cảm giác, vận động giữa 3
nhóm
Thời gian ( T) NHÓM 1 NHÓM 2 NHÓM 3
T từ lúc gây tê đến lúc
có cảm giác tê (giây)
30,17 ±
14,59
34,10 ±
20,35
24,50
±11,09
T từ lúc gây tê đến lúc
đạt mức ức chế D 10
(giây)
9,40 ± 3,29 8,83 ± 2,78 7,63 ± 2,88
T tê (phút) 238,50 ±
60,52
319,63 ±
56,44*
303,87 ±
49,80*
T liệt vận động (phút) 210,13 ±
61,26
205,60 ±
48,25
197,5 ±
43,22
*: Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( p< 0,05) so với
nhóm 1. Có sự khác biệt về thời gian tê giữa 3 nhóm (p <
0,05).
Bảng 3: Độ liệt trong nhóm nghiên cứu.
Độ liệt Nhóm I Nhóm II Nhóm III Tổng cộng
Độ 0 (%) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0)
Độ 1(%) 1(3,3) 1 (3,3) 3(10,0) 5(5,6)
Độ 2(%) 23(76,7) 22(73,3) 21(70,0) 66(73,3)
Độ 3(%) 6(20,0) 7(23,3) 6(20,0) 19(21,1)
Đa số BN liệt độ 2 với tỷ lệ 73,3%. Không có
sự khác biệt về độ liệt giữa 3 nhóm (p > 0,05).
Hiệu quả giảm đau 24 giờ đầu sau mổ
Bảng 4: Thời gian giảm đau sau mổ
Thời gian ( T) NHÓM 1 NHÓM 2 NHÓM 3
T từ lúc tiêm thuốc tê
đến lúc có BN cảm
giác đau (phú )
229,13 ±
49,96
284,43 ±
38,34*
812,03 ±
134,01*†
T từ lúc gây tê đến lúc
BN dùng thuốc giảm
đau (phút)
258,50 ±
55,48
315,73 ±
39,49*
848,37 ±
133,00*†
(*): Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( p< 0,05) so với
nhóm 1. (†): Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( p< 0,05) so
với nhóm 2.
Có sự khác biệt về thời gian từ lúc tiêm
thuốc tê đến lúc BN có cảm giác đau, và dùng
thuốc giảm đau sau mổ giữa 3 nhóm ( p < 0,05).
Bảng 5: Điểm đau khi nghỉ tại các thời điểm 24 giờ
đầu sau mổ
Thời
điểm
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Ts0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0
Ts1 0,17 ± 0,63 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0
Ts2 0,75 ± 1,17 0,17 ± 0,63* 0,0 ± 0,0*
Ts4 2,75 ±1,52 1,83 ± 1,73* 0,0 ± 0,0*†
Ts6 3,50 ± 1,25 2,92 ±1,33 0,0 ± 0,0*†
Ts12 3,25 ± 1,17 3,42 ± 1,39 2,17 ± 1,83*†
Ts18 3,50 ± 1,25 3,17 ± 1,12 3,33 ± 1,37
Ts24 3,17 ± 1,12 3,17 ± 1,12 3,08 ± 1,08
Có sự khác biệt điểm đau khi nghỉ tại thời
điểm 2, 4, 6, 12 giờ sau mổ ở nhóm 3 so với
nhóm 1 ( p < 0,05) và ở thời điểm 4, 6, 12 giờ sau
mổ ở nhóm 3 so với nhóm 2 ( p < 0,05).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 358
Bảng 6: Điểm đau khi vận động tại các thời điểm 24
giờ đầu sau mổ
Thời
điểm
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Ts0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0
Ts1 0,33 ± 1,27 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0
Ts2 1,83 ± 1,85 0,92 ± 1,67* 0,0 ± 0,0*
Ts4 4,50 ± 1,02 3,33 ± 2,11* 0,0 ± 0,0*†
Ts6 4,83 ± 0,63 4,75 ± 1,37 0,0 ± 0,0*†
Ts12 4,92 ± 0,80 4,83 ± 0,91 3,17 ± 2,17*†
Ts18 5,17 ± 0,91 5,08 ± 0,80 4,75 ± 0,76
Ts24 5,08 ± 0,46 5,17 ± 0,63 4,92 ± 0,46
Có sự khác biệt điểm đau khi vận động tại
thời điểm 2, 4, 6, 12 giờ sau mổ ở nhóm 3 so với
nhóm 1 (p < 0,05) và ở thời điểm 4, 6, 12 giờ sau
mổ ở nhóm 3 so với nhóm 2 (p < 0,05).
Bảng 7: Lượng thuốc giảm đau trung bình dùng
trong 24 giờ đầu sau mổ:
Thuốc giảm đau NHÓM 1 NHÓM 2 NHÓM 3
Paracetamol
( mg )
4,37 ± 0,49 4,27 ± 0,52 2,60 ± 0,56*†
Ketocin ( mg ) 128,00 ±
13,49
121,00 ±
9,59
77,00 ±
15,12*†
Morphine ( mg ) 0,17 ± 0,91 0,67 ± 2,17 0,0
Lượng Ketocin và Paracetamol dùng ở
nhóm 3 thấp hơn nhóm 1 và nhóm 2 có ý nghĩa
thống kê (p< 0,05).
Tác dụng phụ
Bảng 8: Tác dụng phụ
Tác dụng
phụ
Nhóm I Nhóm I Nhóm III Tổng cộng
Tụt huyết
áp(%)
1(3,3) 2(6,7) 1(3,3) 4(4,4)
Mạch
chậm(%)
3(10,0) 2(6,7) 2(6,7) 7(7,8)
Ngứa(%) 0(0,0) 5(16,7) 6(20,0) 11(12,2)
Buồn nôn,
nôn(%)
3(10,0) 5(16,7) 6(20,0) 14(15,6)
Lạnh run(%) 5(16,7) 4(13,3) 4(13,3) 13(14,4)
Bí tiểu(%) 1(3,3) 2(6,7) 6(20,0) 9(10,0)
Nhức
đầu(%)
1(3,3) 1(3,3) 2(6,7) 4(4,4)
Suy hô
hấp(%)
0(0,0) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0)
Đau lưng(%) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0)
Khác(%) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0) 0(0,0)
Tác dụng phụ gặp nhiều nhất là buồn nôn
và nôn (15,6%), kế tiếp là lạnh run (14,4%) và
ngứa (12,2%). Không có BN nào trong nhóm
nghiên cứu bị suy hô hấp. Sự khác biệt về tác
dụng không mong muốn giữa 3 nhóm không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
BÀN LUẬN
Về đặc điểm vô cảm
Về mặt lý thuyết, mức tê cần đạt được để mổ
nội soi khớp gối là D12. Tuy nhiên, thực tế do có
sự chồng chéo giữa 2 khoanh da lân cận nên để
BN đạt được mức vô cảm cần thiết, chúng tôi
chọn mức D10. Liều Bupivacine 0,5% chúng tôi
lựa chọn sử dụng để đảm bảo mức tê cần thiết
cho tất cả BN là 10 mg. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, 100% BN đạt được mức vô cảm D10
nên không có BN nào đau trong lúc phẫu thuật.
Thời gian từ lúc bơm thuốc tê đến lúc đạt mức
vô cảm D10 là 8,62 ± 3,05 phút, thời gian ngắn
nhất 2 phút, thời gian dài nhất 15 phút. Thời
gian này còn thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ
bơm thuốc, tư thế BN, thể tích thuốc tê...
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số BN
liệt độ 2 (66%). Thời gian liệt vận động trung
bình là 247,33 ± 65,48 phút, không có sự khác
biệt về độ liệt cũng như thời gian liệt giữa 3
nhóm. Thời gian tê trung bình nhóm 2 và nhóm
3 cao hơn có ý nghĩa so với nhóm 1. Khi giảm
liều thuốc tê thì mức độ liệt vận động và thời
gian liệt giảm. Việc phối hợp thêm Fentanyl
không làm thay đổi mức tê và mức độ liệt vận
động, nhưng sẽ làm tăng mức ức chế cảm giác
làm kéo dài thời gian giảm đau sau mổ(11).
Về tác dụng giảm đau sau mổ
Việc phối hợp Fentanyl và thuốc tê làm cải
thiện chất lượng tê và kéo dài thời gian giảm
đau sau mổ được chứng minh trong nhiều
nghiên cứu. Ngoài Fentanyl, một loại Opioid
tan trong mỡ đã được sử dụng khá phổ biến
hiện nay thì Morphine với đặc tính của một
Opioid tan trong nước có ưu điểm là kéo dài
thời gian giảm đau sau mổ, giảm đau sau mổ
hiệu quả cũng được ưa chuộng, tuy nhiên
người ta vẫn còn e ngại về các tác dụng phụ
của nó. Morphine liều cao dẫn đến tăng tỷ lệ
các tác dụng không mong muốn bao gồm: an
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 359
thần, nôn, buồn nôn, ngứa, bí tiểu và ức chế hô
hấp. Giảm liều Morphine sẽ giảm tác dụng
phụ, nhưng chất lượng và thời gian giảm đau
cũng giảm. Do đó, tìm một liều lượng thuốc
thích hợp để giảm đau hiệu quả và an toàn là
cần thiết. Liều giảm đau hiệu quả theo nghiên
cứu từ 0,1 - 2,5 mg. Những nghiên cứu gần
đây cho thấy liều thấp 0,1-0,25 mg được dùng
để giảm tác dụng phụ. Theo những nghiên
cứu khuyến cáo liều thích hợp gần đây nhất
trong lĩnh vực chỉnh hình, sản khoa(8,10), chúng
tôi chọn liều thấp Morphine 100 mcg phối hợp
với Bupivacaine để giảm thiểu tác dụng không
mong muốn mà vẫn đạt hiệu quả giảm đau
sau mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian từ
lúc tiêm thuốc tê đến lúc BN có cảm giác đau
của nhóm 3 là 812,03 ± 134,01 phút, dài hơn có ý
nghĩa so với nhóm 1 và nhóm 2. Nhóm 2 với
thời gian trung bình là 284,43 ± 38,34 phút dài
hơn có ý nghĩa so với nhóm 1. Vì vậy kéo theo
thời gian bắt đầu cần dùng thuốc giảm đau sau
mổ giữa các nhóm khác nhau có ý nghĩa thống
kê. Nhóm 3 nhờ có sự phối hợp thêm Morphine
tủy sống nên giúp BN giảm đau kéo dài. Với
cùng một liều Morphine 100 mcg cũng có thời
gian giảm đau sau mổ rất khác nhau theo nhiều
nghiên cứu. Thời gian giảm đau sau mổ trong
nghiên cứu chúng tôi dài hơn so với nghiên cứu
của Weigl(14) (726,6 ± 477 phút), David(1) ( 720
phút), nhưng ngắn hơn so với Trần Đình Tú(12)
với thời gian giảm đau là 24,31 ± 5,3 giờ.
So sánh giữa nhóm 1 và nhóm 2: Tại thời
điểm 2 giờ, 4 giờ, điểm đau lúc nghỉ và lúc vận
động của nhóm 1 cao hơn có ý nghĩa so với
nhóm 2. Từ giờ thứ 6 trở đi, điểm đau trung
bình giữa 2 nhóm này tương tự nhau. Có thể nói
Fentanyl khi phối hợp với Bupivacaine tê tủy
sống giúp kéo dài cảm giác thoải mái cho BN, đỡ
phải chịu đau đớn sau mổ đến 4 giờ.
So sánh giữa nhóm 2 và nhóm 3: điểm đau
khi nghỉ và khi vận động lúc 4 giờ, 6 giờ, 12 giờ
sau mổ ở nhóm 2 cao hơn có ý nghĩa so với
nhóm 3. Chứng tỏ Morphine tủy sống với liều
100 mcg giúp giảm điểm đau đáng kể tới 12 giờ
đầu sau mổ. Từ giờ 18 và 24 sau mổ, mức độ
đau ở cả 3 nhóm tương tự nhau và đều cần hỗ
trợ thêm thuốc giảm đau khác để kiểm soát đau,
nhất là khi vận động.
Weigl(14) khi dùng 100 mcg Morphine phối
hợp thêm thuốc tê tủy sống thì điểm VAS trung
bình trong 24 giờ đầu sau mổ là 0,35 ± 0,72 cm,
thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm dùng Fentanyl
25 μg (2,18 ± 1,02 cm). Meylan(7) thực hiện phân
tích tổng hợp trên nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên
của nhiều loại phẫu thuật khác nhau kết luận
dùng Morphine tủy sống, điểm đau giảm đáng
kể sau mổ 2, 4, 12, 24 giờ.
Lượng thuốc giảm đau dùng thêm cả
Paracetamol, Ketocin và Morphine ở nhóm 1 và
nhóm 2 khác nhau không có ý nghĩa thống kê
mặc dù thời điểm bắt đầu dùng thuốc giảm đau
có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Khoảng thời gian
giảm đau thêm của nhóm Fentanyl tuy có dài
hơn nhóm chứng nhưng do chỉ thêm có một hai
giờ thì không giúp giảm được tổng lượng thuốc
giảm đau trong 24 giờ sau mổ. Đối với nhóm 3,
tổng lượng Paracetamol và Ketocin d