Kiến thức – thái độ ‐ thực hành về vàng da sơ sinh của bà mẹ tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng quan: Hiện nay, tại Việt Nam, phần lớn trẻ sơ sinh (SS) nhập viện vì vàng da (VD) khi đã tăng bilirubin gián tiếp nặng và nhiều trẻ cần thay máu. Nghiên cứu (NC) này tiến hành để xác định xem có phải vì kiến thức (KT), thái độ (TĐ) và thực hành (TH) của bà mẹ (Bm) về VD SS chưa đúng không mà trẻ cần điều trị được đưa đến khám quá muộn. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ Bm có KT, TĐ, TH đúng về vấn đề VD SS. Phương pháp: NC cắt ngang mô tả Kết quả: Chúng tôi thực hiện phỏng vấn 497 bà mẹ sinh con trong 14 ngày đầu hậu sản tại 22 bệnh viện sản phụ khoa, nhi khoa, đa khoa công và tư nhân tại TP HCM. Kết quả cho thấy tỉ lệ KT, TĐ và TH đúng của Bm về VD SS là rất thấp, về nguy cơ và tác hại của VD nặng chỉ là 5,4%, cách phát hiện, theo dõi và đánh giá mức độ VD là 12,5%, cách xử lý VD là 41,2%. Bên cạnh đó, các Bm rất lo lắng cho sức khỏe của con mình và lắng nghe ý kiến của nhân viên y tế cũng như thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng. Kết luận: NC của chúng tôi cho thấy tỉ lệ Bm có KT, TĐ hay TH về VD SS đúng đều thấp. Tuy nhiên, đại đa số đều quan tâm đến sức khỏe của con mình, lắng nghe và làm theo lời khuyên của nhân viên y tế cũng như thông tin từ các phương tiện truyền thông. Điều này cho thấy, để phòng ngừa bệnh lý não do bilirbin ở trẻ SS, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục Bm về VD SS thông qua nhân viên y tế sản nhi và các phương tiện truyền thông đại chúng.

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức – thái độ ‐ thực hành về vàng da sơ sinh của bà mẹ tại Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 69 KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ ‐ THỰC HÀNH VỀ VÀNG DA SƠ SINH   CỦA BÀ MẸ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH  Phạm Diệp Thùy Dương*  TÓM TẮT  Tổng quan: Hiện nay,  tại Việt Nam, phần  lớn  trẻ sơ sinh  (SS) nhập viện vì vàng da  (VD) khi đã  tăng  bilirubin gián tiếp nặng và nhiều trẻ cần thay máu. Nghiên cứu (NC) này tiến hành để xác định xem có phải vì  kiến thức (KT), thái độ (TĐ) và thực hành (TH) của bà mẹ (Bm) về VD SS chưa đúng không mà trẻ cần điều trị  được đưa đến khám quá muộn.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ Bm có KT, TĐ, TH đúng về vấn đề VD SS.  Phương pháp: NC cắt ngang mô tả  Kết quả: Chúng tôi thực hiện phỏng vấn 497 bà mẹ sinh con trong 14 ngày đầu hậu sản tại 22 bệnh viện  sản phụ khoa, nhi khoa, đa khoa công và tư nhân tại TP HCM. Kết quả cho thấy tỉ lệ KT, TĐ và TH đúng của  Bm về VD SS là rất thấp, về nguy cơ và tác hại của VD nặng chỉ là 5,4%, cách phát hiện, theo dõi và đánh giá  mức độ VD là 12,5%, cách xử lý VD là 41,2%. Bên cạnh đó, các Bm rất lo lắng cho sức khỏe của con mình và  lắng nghe ý kiến của nhân viên y tế cũng như thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng.   Kết luận: NC của chúng tôi cho thấy tỉ lệ Bm có KT, TĐ hay TH về VD SS đúng đều thấp. Tuy nhiên, đại  đa số đều quan tâm đến sức khỏe của con mình, lắng nghe và làm theo lời khuyên của nhân viên y tế cũng như  thông tin từ các phương tiện truyền thông. Điều này cho thấy, để phòng ngừa bệnh lý não do bilirbin ở trẻ SS,  cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục Bm về VD SS thông qua nhân viên y tế sản nhi và các phương tiện  truyền thông đại chúng.  Từ khóa: kiến thức; thái độ; thực hành; vàng da sơ sinh; bà mẹ  SUMMARY  KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF MOTHERS IN HO CHI MINH CITY ON NEONATAL  JAUDICE   Pham Diep Thuy Duong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 69 ‐ 73  Background:  In  Vietnam  today  the  majority  of  newborns  hospitalized  for  jaundice  were  with  severe  hyperbilirubinemia and many of them required exchange transfusion. This study was carried out to determine  whether the knowledge, attitude and practice of mothers on neonatal jaundice is (correct/appropriate?) or not, so  that their jaundice newborns were taken for examination too late.  Objective: to determine the ratio of mothers who have (correct/appropriate) knowledge, attitude and practice  on neonatal jaundice  Methode: descriptive cross ‐ sectional study.   Results: We  interviewed 497 mothers who gave birth  in  the  first 14 days postpartum  in 22 public  and  private hospitals of obstetrics and gynecology, pediatrics in HCMC. The results showed that the ratio of mothers  having (correct/appropriate) knowledge, attitude and practice on neonatal jaundice were very low: understanding  the risks and the dangers of severe  jaundice was  just 5.4%, knowing the method of detection, monitoring and  assessment of the jaundice was 12.5%, having knowledge of jaundice treatment was 41.2%. Besides, the mothers  * Bộ môn Nhi – Đại học Y Dược Tp HCM  Tác giả liên lạc: ThS Phạm Diệp Thùy Dương ĐT: Email: : thuyduongpd@yahoo.com Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 70 were very worried about their newborn’s health; they  listened to the opinions of medical staff and  information  from the media.  Conclusion: Our study showed that the ratio of mothers having (correct/appropriate) knowledge, attitude  and practice on neonatal jaundice were very low. However, the majority of mothers concerned about the health of  their newborns, listening and following the advice of health professionals as well as information from the media.  This  suggests  that,  to  prevent  bilirubin  encephalopathy  in  the  newborns,  it  is  necessary  to  strengthen  the  propagation and education for mothers about the neonatal jaundice through obstetric and pediatric staff and the  media.  Key words: knowledge; attitude; practice; neonatal jaundice; mother ĐẶT VẤN ĐỀ  Hiện nay, tại Việt Nam, thời gian nằm viện  hậu sản là khoảng 2 ngày đối với sanh ngả dưới  và 4 ngày đối với sinh mổ, nên bilirubin thường  chỉ tăng lên đến điểm đỉnh khi trẻ đã xuất viện  hậu sản  theo mẹ. Do đó,  trẻ đủ  tháng hay gần  đủ tháng “có vẻ khỏe mạnh” trở thành nhóm có  nguy  cơ  bị  bệnh  lý  não  do  bilirubin  nếu  việc  phát  hiện  và  theo  dõi  không  được  thực  hiện  đúng mức. Nghiên  cứu  (NC)  của  chúng  tôi  tại  bệnh viện Nhi Đồng II giai đoạn 2009‐2011(2) cho  thấy  trong 1262  trẻ nhập viện vì vàng da  (VD)  tăng bilirubin gián tiếp, có 50,4% nhập viện khi  đã tăng bilirubin máu nặng và có 8,7% phải thay  máu. NC này tiến hành để xác định xem trẻ cần  điều trị được đưa đến khám quá muộn có phải  vì  kiến  thức  (KT),  thái  độ  (TĐ)  và  thực  hành  (TH)  của  các  bà mẹ  về VD  sơ  sinh  (SS)  chưa  đúng không.  Mục tiêu NC  Xác định tỉ lệ bà mẹ có KT, TĐ, TH đúng về  vấn đề VD SS  ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NC  NC cắt ngang mô tả   Dân số mục tiêu  Bà mẹ đang nuôi con trong 14 ngày đầu hậu  sản tại TP HCM.  Cỡ mẫu :   Tính theo công thức   Với: d = 0, 07; mức ý nghĩa hay sai lầm loại 1  = 0,05; độ tin cậy 95%; p= 0,5: tỷ lệ các bà mẹ có  KT đúng, mong đạt được trong NCÆ n = 192 #  200. Lô NC của chúng tôi gồm 497 bà mẹ.  Công cụ thu thập dữ kiện  Gồm bộ câu hỏi phỏng vấn KT‐ TĐ‐TH gồm  27 đề mục xây dựng dựa trên mô hình Niềm tin  Sức khỏe (15 câu hỏi về KT, 5 câu hỏi về TĐ và 7  câu hỏi về KT TH).  KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Chúng  tôi  thực hiện phỏng vấn  497 bà mẹ  nuôi con trong 14 ngày đầu hậu sản tại 10 bệnh  viện sản phụ khoa, nhi khoa, đa khoa công và tư  nhân  cũng  như  tại  12  bệnh  viện  đa  khoa  khu  vực quận/ huyện trong TP HCM .  Đặc điểm của các bà mẹ  Tuổi  từ  18‐44  tuổi,  có  từ  1‐3  con,  thời gian  hậu  sản  trung bình  là 4‐5 ngày. Thu nhập  đầu  người > 3.000.000đ/ tháng là 44,7%; 41% có trình  độ văn hoá cấp I‐II; 47,4% là người buôn bán và  công nhân.   Kiến thức  Có 15 câu hỏi về KT.  Bảng 1: Kết quả kiến thức đúng  Vị trí câu trong mô hình Niềm tin Sức khỏe Câu Nội dung Lựa chọn Đúng Tỉ lệ (%) Nhận thức về khả năng dễ mắc VD SS nặng 1 Nói chung, một trẻ SS có thể bị VD mức độ nặng không? Có 55,5 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 71 Vị trí câu trong mô hình Niềm tin Sức khỏe Câu Nội dung Lựa chọn Đúng Tỉ lệ (%) 2 Trẻ SS con của chị có thể bị VD mức độ nặng không? Có 23,1 KT về cách phát hiện, theo dõi và đánh giá mức độ VD SS 3 Chị cần làm gì để biết trẻ SS có VD không? Ấn da trẻ rồi nhìn 12,5 4 Để biết trẻ SS có VD không, chị cần nhìn màu sắc da trẻ dưới ánh sáng nào? Ánh sáng mặt trời đủ sáng 41,0 5 Để biết trẻ SS có VD không, chị cần nhìn màu sắc của da của trẻ ở bộ phận nào? Mặt 62,8 6 Trong 2 tuần đầu sau sinh, chị cần để ý bao nhiêu lần để biết con chị có VD hay không? Ít nhất 1 lần một ngày 63,6 7 Khi phát hiện con mình bị VD, chị cần làm gì? Đưa trẻ đi khám ngay 38,2 Nhận thức về mức độ trầm trọng của VD SS nặng 8 Trẻ SS VD mức độ nặng có thể bị nguy hiểm gì? Hư não 5,4 9 Theo chị, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, trẻ bị VD mức độ nặng có thể bị liệt (hay điếc) suốt đời phải không? Phải 17,5 KT về điều trị VD SS 10 Theo chị, cách nào sau đây có thể điều trị hiệu quả VD mức độ nặng? Chiếu đèn chuyên dụng tại bệnh viện 41,2 Nhận thức về lợi ích của việc theo dõi và phát hiện sớm VD SS nặng 11 Theo chị, lợi ích của việc đưa trẻ SS đi khám ngay khi phát hiện trẻ VD, hay đi tái khám VD theo hẹn là gì? Phát hiện sớm VD mức độ nặng để được điều trị kịp thời 74,8 12 Theo chị, việc theo dõi sát VD ở trẻ SS sẽ giúp trẻ tránh được gì? Hư não 9,1 Chỉ  có  23,1% Bm biết  con mình  có  thể VD  mức độ nặng. 12,5% Bm biết ấn da trẻ khi quan  sát, 41% biết quan sát dưới ánh sáng mặt trời đủ  sáng; và 63,6% biết cần theo dõi VD ở con mình  mỗi ngày trong vòng 2 tuần đầu sau sinh. Ngoài  ra,  chỉ  38,2% bà mẹ biết  cần  đưa  con  đi khám  ngay khi phát hiện VD. Lần lượt 5,4%, 17,4% và  9,1%  Bm  biết  trẻ  bị  VD  nặng  có  thể  bị  tổn  thương não; nếu không được điều trị kịp thời có  thể bị di  chứng  thần kinh;  cũng như việc  theo  dõi  sát VD SS giúp  trẻ  tránh  được  tổn  thương  não.  Chỉ  có  41,2%  Bm  biết  chiếu  đèn  chuyên  dụng tại bệnh viện là biện pháp điều trị hiệu quả  VD nặng  (mà không phải  là uống nước đường  hay phơi nắng).  Câu 13 về rào cản việc đưa con đi khám khi  trẻ VD: Có điều gì làm chị không thể đưa con đi  khám  ngay  khi  phát  hiện  trẻ  VD  không?  Có  7,0% Bm cho biết phải kiêng ra khỏi nhà  trong  tháng đầu sau sinh, cho  thấy  tập quán cũng  là  một vấn đề cần quan tâm.  Câu 14 về động cơ thúc đẩy việc đưa con đi  khám khi  trẻ VD: Có  điều gì  làm  cho  chị  thấy  cần phải đưa con đi khám ngay khi phát hiện trẻ  VD  không?  Có  34,4%  Bm  cho  biết  do  lo  lắng  trước bất kỳ thay đổi nào của con mình, 31% làm  theo lời dặn của nhân viên y tế, và 19,3% do biết  nguy hiểm của bệnh  từ báo, đài. Điều này cho  thấy trong phòng ngừa VD SS nặng, cần khuyến  khích  đặc  tính  quý  báu  này  của  các  Bm  Việt  Nam cũng như tăng cường vai trò của nhân viên  y tế và của các phương tiện thông tin đại chúng.   Câu  15  về  các  niềm  tin  sai  lạc:  Theo  chị,  những câu sau đây  là Đúng hay Sai và xin chị  cho biết kiến thức đó chị có từ đâu:   Bảng 2: Kết quả Trả lời Đúng về các niềm tin sai lạc  Phát biểu Trả lời là “SAI” (%) Cần phơi nắng sáng khi trẻ bị VD 2,6 Cần uống nước đường khi trẻ bị VD 16,7 Khi muốn đưa trẻ đi khám, phải chọn ngày tốt lành 90,3 Khi trẻ SS VD mà có bú kém hay lừ đừ thì mới cần đưa đi khám 62,2 Tôi và con tôi cần nằm phòng tối trong tháng đầu sau sinh 75,5 Tôi và con tôi phải kiêng ra khỏi nhà trong tháng đầu sau sinh 45,3 Trẻ SS bị VD là do mẹ ăn chất có màu vàng hay do thiếu vitamin A/D 24,1 Chỉ có 61,4% Bm biết VD SS có  thể  là bệnh  lý; cũng chỉ có  lần  lượt 2,6% và 16,7% Bm biết  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 72 cho trẻ phơi nắng và cho trẻ uống nước đường  khi bị VD là không đúng; và trầm trọng hơn  là  chỉ có 62,2% Bm biết khi  trẻ VD mà có bú kém  hay lừ đừ thì mới đưa đi khám là sai.   Như vậy, KT của Bm về VD SS là thấp, điều  này  cũng  được  thấy  trong NC  của Nguyễn Lệ  Bình  tại bệnh viện Nhi Đồng  I và Nhi Đồng  II  năm 2004(1): 75% bà mẹ có KT không đúng, trong  đó  52%  không  biết  VD  SS  có  thể  là  bệnh  lý;  57,6% bà mẹ cho là không cần đưa con đi khám  khi  bé VD  (trong  đó  17,7%  cho  phơi  nắng  và  2,3%  cho uống nước  đường); 75% bà mẹ quan  sát da con mỗi ngày nhưng chỉ 34% trong số đó  phát  hiện  con  VD. NC  của Amirshaghaghi A  năm 2008  tại  Iran  (3)  cho  thấy 42,8% Bm phản  ứng yếu ớt khi thấy con VD và trì hoãn đưa trẻ  đi khám. NC của Poon WB năm 2007(4) trên các  cha mẹ gốc Trung quốc tại Singapore cũng nêu:  87%  tin phơi nắng  là phương pháp dự phòng  VD hiệu quả (hoặc không biết chắc); 52% không  biết chắc về tầm quan trọng của VD SS; và 23%  cho rằng VD SS không có gì nặng và có  thể  tự  hết.  Thái độ  Gồm 5 câu hỏi đánh giá mức độ đồng thuận  (5 lựa chọn, gồm Rất đồng ý, Đồng ý, Không ý  kiến, Không đồng ý, và Rất không đồng ý).   Bảng 3: Kết quả Thái độ Đúng  Câu hỏi Phát biểu Tỉ lệ (%) 1 Con tôi có thể bị VD mức độ nặng trong giai đoạn SS 55,9 2 Cần theo dõi sát VD để phát hiện kịp thời VD nặng 96,0 3 Phơi nắng sáng có thể chữa lành VD mức độ nặng 29,2 4 Cần đưa trẻ đi khám ngay khi trẻ bị VD 82,9 5 Trẻ SS bị VD mức độ nặng có thể liệt (hay điếc) suốt đời 38,4 Tỉ lệ TĐ đúng là thấp: Chỉ 55,9% Bm đồng ý  con mình có thể VD mức độ nặng; 29,2% không  đồng ý phơi nắng sáng  thể chữa  lành VD mức  độ nặng; và 38,4% Bà mẹ đồng ý trẻ bị VD mức  độ nặng có thể liệt hay điếc suốt đời.   Kiến thức thực hành  Bảng 4: Kết quả kiến thức thực hành đúng  Câu Nội dung Lựa chọn đúng Tỉ lệ (%) 1 Trong 2 tuần đầu sau sinh, chị có để ý con mình để biết trẻ có VD không? Có 90,9 2 Để biết con mình có VD không, chị sẽ nhìn màu sắc của da của trẻ ở bộ phận nào? Mặt 70,2 3 Để biết trẻ SS con mình có VD không, chị làm gì? Ấn da trẻ rồi nhìn 16,5 4 Để biết con mình có VD không, chị nhìn màu sắc da trẻ dưới ánh sáng nào? Ánh sáng mặt trời đủ sáng 44,1 5 Trong 2 tuần đầu sau sinh, chị để ý con mình bao nhiêu lần để biết trẻ có VD không? Ít nhất 1 lần một ngày 70,2 6 Nếu con chị bị VD, chị làm gì? Đưa trẻ đi khám ngay 43,1 7 Nếu nhân viên y tế đề nghị chị đưa con đi khám chuyên khoa nhi vì VD, sau bao lâu chị sẽ đưa con đi khám? 0 - 12 giờ 92,6 Có đến 90,9% Bm để ý xem con mình có VD  không trong 2 tuần đầu sau sinh. Tuy nhiên, chỉ  có 16,5% ấn da trẻ rồi nhìn, 44,1% quan sát dưới  ánh  sáng  mặt  trời  đủ  sáng;  do  đó,  nguy  cơ  không  phát  hiện  chính  xác VD  là  rất  cao. Khi  phát hiện con VD, chỉ có 43,1% đưa trẻ đi khám  ngay; nhưng có tới 92,6% Bm cho biết sẽ đưa con  đi  khám  VD  trong  vòng  12  giờ  sau  khi  được  nhân viên y tế đề nghị. Đây là một tín hiệu tích  cực,  vừa minh  chứng một  đức  tính  của  người  phụ  nữ Việt Nam,  vừa  cho  thấy  vai  trò  quan  trọng của nhân viên y tế trong vấn đề tư vấn cho  các Bm.   KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ:  NC của chúng  tôi  trên 497 Bm  tại TP HCM  nuôi con trong 14 ngày đầu hậu sản cho thấy tỉ  lệ KT, TĐ và TH đúng về VD SS là rất thấp, về  nguy cơ và tác hại của VD nặng chỉ là 5,4%, cách  phát hiện,  theo dõi và đánh giá mức độ VD  là  12,5%, cách xử lý VD là 41,2%.  Tuy nhiên, đại  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 73 đa số đều quan tâm đến sức khỏe của con mình,  lắng nghe và làm theo lời khuyên của nhân viên  y  tế.  Điều này  cho  thấy  cần  tăng  cường  tuyên  truyền, giáo dục Bm về VD SS  thông qua nhân  viên  y  tế  sản  nhi  và  các  phương  tiện  truyền  thông đại chúng để phòng ngừa bệnh lý não do  bilirbin ở trẻ SS.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Amirshaghaghi  A,  Ghabili  K  et  al.  (2008).  “  Neonatal  Jaundice: Knowledge and practices of  Iranian mothers with  icteric newborns”. Pak. J. Bio. Sci. 1l (6), pp. 942‐945  2. Lâm Thị Mỹ, Phạm Diệp Thùy Dương (2012). Đặc điểm các  trường hợp nhập viện vì VD tăng bilirubin gián tiếp ở khoa  SS bệnh viện nhi đồng II trong 3 năm 2009‐2011. Y học Thành  phố Hồ Chí Minh (16; 2) tr. 70‐72.  3. Nguyễn Lệ Bình và CS,  (2007)  ʺKhảo sát kiến  thức,  thái độ,  hành vi về vàng da sơ sinh của bà mẹ có con bị VD SS ở bệnh  viện Nhi đồng 1 và Nhi đồng 2 từ 1/04/2004 đến 31/1/2004ʺ.  Hội nghị Sản phụ khoa Việt ‐ Pháp Châu Á ‐ Thái Bình Dương lần  thứ 7, tr.117‐8.  4. Poon WB, Ho WLC  (2007). “ Suyvey on parenting practices  among Chinese  in  Singapore”. Singapore Med  J,  (48;  11) pp.  1006. 
Tài liệu liên quan