Mục tiêu: Đánh giá khả năng dán của các loại Glass ionomer cement (GIC) khác nhau được sử dụng trong kỹ thuật sandwich mở và ảnh hưởng của việc xoi mòn bề mặt GIC. Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối nhỏ hàm trên đã nhổ ở người trưởng thành chia làm 5 nhóm. Tất cả các răng được tạo xoang với cùng kích thước. Nhóm 1: đặt 1 lớp lót GIC cổ điển dày 2 mm ở thành trục và thành nướu sau đó soi mòn bằng acid phosphoric 35% trong 15 giây, rửa nước 30 giây, thổi khô vừa, bôi keo dán, chiếu đèn 10 giây, trám composite, chiếu đèn 40 giây. Nhóm 2: tiến trình thực hiện giống nhóm 1, nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 3: giống nhóm 1 nhưng sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa. Nhóm 4: giống nhóm 3 nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 5: giống nhóm 4 nhưng bôi keo dán có gốc GIC (G - Bond). Ngâm răng trong xanh methylen 2% trong 24 giờ, sau đó cắt răng theo chiều gần -xa qua tâm miếng trám. Đánh giá mức độ thâm nhập của vi kẽ qua kính hiển vi nổi độ phóng đại X30 theo thang đánh giá của Ferrari (1996). Kết quả: Kết quả mức thâm nhập của phẩm nhuộm trung bình ở các răng nhóm 1 là 2,7; nhóm 2 là 2,8; nhóm 3 là 1; nhóm 4 là 0,5 và nhóm 5 là 0,2. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thâm nhập xanh methylen khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm: nhóm 1 và nhóm 2, nhóm 3 và nhóm 4, nhóm 4 và nhóm 5, nhưng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm lót GIC cổ điển và GIC có tăng cường thành phần nhựa, giữa nhóm 1 và nhóm 3, giữa nhóm 2 và nhóm 4. Cụ thể là GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển. Trong nghiên cứu này, không nhận thấy sự xâm nhập vi kẽ tại giao diện giữa GIC và Composite ở nhóm 4 và 5. Kết luận: Trong điều kiện của thử nghiệm invitro nhận thấy việc soi mòn bề mặt GIC trước khi trám composite không cải thiện vi kẽ nhưng sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu invitro vi kẽ thành phần lớp lót trong kỹ thuật sandwich mở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191
NGHIÊN CỨU INVITRO VI KẼ THÀNH PHẦN LỚP LÓT
TRONG KỸ THUẬT SANDWICH MỞ
Huỳnh Thị Thùy Trang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá khả năng dán của các loại Glass ionomer cement (GIC) khác nhau được sử dụng trong
kỹ thuật sandwich mở và ảnh hưởng của việc xoi mòn bề mặt GIC.
Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối nhỏ hàm trên đã nhổ ở người trưởng thành
chia làm 5 nhóm. Tất cả các răng được tạo xoang với cùng kích thước. Nhóm 1: đặt 1 lớp lót GIC cổ điển dày 2
mm ở thành trục và thành nướu sau đó soi mòn bằng acid phosphoric 35% trong 15 giây, rửa nước 30 giây, thổi
khô vừa, bôi keo dán, chiếu đèn 10 giây, trám composite, chiếu đèn 40 giây. Nhóm 2: tiến trình thực hiện giống
nhóm 1, nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 3: giống nhóm 1 nhưng sử dụng GIC có tăng cường
thành phần nhựa. Nhóm 4: giống nhóm 3 nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC. Nhóm 5: giống nhóm 4
nhưng bôi keo dán có gốc GIC (G - Bond). Ngâm răng trong xanh methylen 2% trong 24 giờ, sau đó cắt răng
theo chiều gần -xa qua tâm miếng trám. Đánh giá mức độ thâm nhập của vi kẽ qua kính hiển vi nổi độ phóng đại
X30 theo thang đánh giá của Ferrari (1996).
Kết quả: Kết quả mức thâm nhập của phẩm nhuộm trung bình ở các răng nhóm 1 là 2,7; nhóm 2 là 2,8;
nhóm 3 là 1; nhóm 4 là 0,5 và nhóm 5 là 0,2. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thâm nhập xanh methylen khác biệt
không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm: nhóm 1 và nhóm 2, nhóm 3 và nhóm 4, nhóm 4 và nhóm 5, nhưng có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm lót GIC cổ điển và GIC có tăng cường thành phần nhựa, giữa nhóm 1
và nhóm 3, giữa nhóm 2 và nhóm 4. Cụ thể là GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn
thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển. Trong nghiên cứu này, không nhận thấy sự xâm nhập vi kẽ tại giao diện giữa
GIC và Composite ở nhóm 4 và 5.
Kết luận: Trong điều kiện của thử nghiệm invitro nhận thấy việc soi mòn bề mặt GIC trước khi trám
composite không cải thiện vi kẽ nhưng sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa tăng khả năng ngăn chặn
thâm nhập vi kẽ hơn GIC cổ điển.
Từ khoá: vi kẽ, kỹ thuật sandwich mở.
ABSTRACT
MICROLEAKAGE OF GLASS IONOMER CEMENT AS BASE MATERIAL IN OPEN SANDWICH
TECHNIQUE: INVITRO STUDY
Huynh Thi Thuy Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 191 - 196
Objective: The objectives of this study were to evaluate the sealing ability of different Glass Ionomer Cement
(GIC) materials used in sandwich restorations and examine the influence of acid etching on microleakage of GIC.
Methods: Cavities were prepared in 50 teeth, divided in five groups (n=10) and restored as follows: group 1:
conventional GIC was applied onto the axial and cervical cavity walls, acid was etched along with the cavity
margins with 35% phosphoric acid for 15 s, then acid was washed out for 30 s and water was blotted; the adhesive
system was applied and light cured for 10 s, the restoration with resin composite was completed by curing for 40
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Thị Thuỳ Trang ĐT: 0903168586 Email: mail2me_trang@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 192
s; group 2: same procedure as described for group 1, but no acid was applied onto the GIC; group 3: same
procedure as for group 1 , but using the resin modified GIC; group 4: same procedure applied for group 3 without
acid etching the GIC; group 5: same procedure applied for group 4 with the adhesive system was applied G-bond.
Specimens were soaked in 2% methylene blue dye solution for 24h, rised under running water for 1h; cut and dye
penetration was measured following Ferrrari (1996) standard.
Results: Results were statistically analyzed using Mann-Whitney tests. Dye penetration scores were as
follow: group 1 - 2.7; group 2 - 2.8; group 3 - 1; group 4 - 0.5 and group 5 - 0.2. No significant differences were
found between the mean dye penetration values of groups 1 and 2 (p>0.05), between groups 3 and 4 (p>0.05), and
between groups 4 and 5 (p>0.05). However, significant differences were found between the two GIC, between
groups 1 and 3 (p<0.05), and between groups 2 and 4 (p<0.05). There was no dye penetration at GIC-resin
composite interface in groups 4 and 5.
Conclusions: Results suggest that acid etching the GIC prior the placement of resin composite do not
improve the sealing ability of sandwich restorations. The resin modified GIC was more effective in preventing dye
penetration than conventional GIC.
Keywords: microleakage, open sandwich technique.
MỞ ĐẦU
Để đáp ứng với sự phát triển của nha khoa
hiện đại cũng như đòi hỏi ngày một cao của
bệnh nhân, nhiều kỹ thuật công nghệ mới được
ứng dụng trong điều trị nha khoa. Trong thực
hành nha khoa, phục hồi trực tiếp xoang loại II
bằng cách dùng Glass Ionomer Cement (GIC) và
composite (kỹ thuật sandwich mở) là một trong
những kỹ thuật thực hiện nhiều trên lâm sàng.
Khi lực co do trùng hợp nhiều hơn lực dán
composite và mô răng gây ra vi kẽ giữa bờ mô
răng và vật liệu phục hồi làm cho nước bọt và vi
khuẩn dễ xâm nhập vào dẫn đến sự đổi màu ở
bờ viền xoang, sự nhạy cảm sau điều trị và sâu
răng thứ phát xung quanh miếng trám(1) Khi
thực hiện kỹ thuật sandwich mở các nhà lâm
sàng có thể sử dụng GIC cổ điển hoặc GIC có
tăng cường thành phần nhựa, một số tác giả cho
rằng sự co của composite khi trùng hợp trong
một số trường hợp có thể kéo lớp nền ximăng
GIC ra khỏi bề mặt ngà hình thành những vi kẽ.
Ngược lại, một số tác giả cho rằng GIC có
khuynh hướng làm giảm vi kẽ vì hệ số giản nở
của chúng tương tự mô răng, đặt biệt là ngà(1).
Sau khi đặt một lớp GIC theo một số tác giả có
thể dùng acid soi mòn, một số tác giả khác thì
không cần acid soi mòn bề mặt lớp GIC(10).
Chính vì vậy, cần có nghiên cứu nhằm đánh giá
vi kẽ thành phần lớp lót GIC trong kỹ thuật này
để thực hiện tốt trên bệnh nhân và ứng dụng
vào việc giảng dạy.
Mục tiêu đề tài
1. Đánh giá khả năng dán của các loại GIC
khác nhau trong kỹ thuật sandwich mở phục
hồi xoang loại II.
2.Đánh giá hiệu quả của việc soi mòn lên bề
mặt GIC trong kỹ thuật sandwich mở phục hồi
xoang loại II.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện trên 50 răng cối
nhỏ hàm trên đã nhổ của người trưởng thành
chia ngẫu nhiên làm 5 nhóm. Tất cả các răng
được bảo quản bằng cách ngâm trong dung dịch
nước muối sinh lý NaCl 0,9%, ở nhiệt độ phòng
cho đến khi sử dụng.
Hình 1 . Tạo lỗ trám loại II.
Các răng được tạo xoang trám loại II hình
hộp cùng kích thước chiều rộng ngoài trong 4
mm, chiều cao xấp xỉ 4 mm trên đường nối men-
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 193
cement, theo chiều gần xa rộng 2 mm để trám
bằng kỹ thuật sandwich mở.
Nhóm 1: đặt 1 lớp lót GIC cổ điển (Fuji IX)
dày 2 mm ở thành nướu sau đó soi mòn bằng
acid phosphoric 35% trong 15 giây, rửa nước
trong 30 giây, thổi khô vừa, bôi keo dán Prime &
Bond NT (Dentsply), chiếu đèn, đặt một lớp
composite lỏng lên tòan bộ đáy, thành và bờ lỗ
trám, chiếu đèn, đặt composite Solare X (GC)
theo kỹ thuật trám từng lớp, mỗi lớp 2 mm,
chiếu đèn 40 giây, dùng đĩa mài loại bỏ
composite dư và đánh bóng miếng trám bằng
silicon có nước làm mát.
Nhóm 2: tiến trình thực hiện giống nhóm 1,
nhưng không soi mòn ở bề mặt lớp lót GIC.
Nhóm 3: giống nhóm 1 nhưng sử dụng GIC
có tăng cường thành phần nhựa (Fuji II LC, GC).
Nhóm 4: giống nhóm 3 nhưng không soi
mòn ở bề mặt lớp lót GIC.
Nhóm 5: đặt 1 lớp lót GIC có tăng cường
thành phần nhựa (Fuji II LC, GC) ở thành nướu.
không soi mòn và bôi keo dán có gốc GIC (G-
Bond, GC).
Hình 2. Phục hồi lỗ trám loại II bằng kỹ thuật
sandwich mở.
Hình 3. Kính hiển
vi Olympus X30.
Hình 4. Thang đánh giá
Ferrari 1996.
Nhóm
1
Nhó
m 2
Nhó
m 3
Nhóm
4
Nhóm
5
Xoi mòn H3PO4 35% + - + - -
GIC cổ điển (FujiIX) + +
GIC tăng cường nhựa
(Fuji II LC, GC).
+ + +
Bôi keo dán gốc GIC
(G- Bond, GC)
+
Tất cả các răng sau khi thực hiện phục hồi
được ngâm trong nước muối sinh lý trong 24
giờ, và trải qua chu trình nhiệt 100 chu kỳ, nhiệt
độ từ 5 - 55 oC, thời gian ngưng ở mổi điểm
nhiệt là 25 giây, thời gian chuyển đổi 5 giây. Sau
khi thử thách phục hồi, răng được bảo quản
trong dung dịch nước muối sinh lý ở nhiệt độ
phòng 72 giờ, xử lý răng bằng cách bôi sơn
móng tay lên toàn bộ bề mặt răng trừ miếng
trám và cách chu vi bờ miếng trám là 1 mm, sau
đó ngâm trong dung dịch xanh methylen 2%
trong 24 giờ, sau đó làm sạch lớp vecni và cắt
răng theo chiều gần - xa qua tâm miếng trám
bằng đĩa cắt kim cương tay khoan chậm. Đánh
giá in vitro vi kẽ bằng mức độ thâm nhập của
phẩm nhuộm trên hai giao diện, giao diện 1
giữa bề mặt răng và lớp GIC, giao diện 2 giữa
GIC và Composite qua kính hiển vi nổi độ
phóng đại X30 (Olympus).
Độ thâm nhập của phẩm màu ở 5 nhóm
được đánh giá bởi hai quan sát viên độc lập theo
cùng một thang đánh giá và ghi vào phiếu đánh
giá theo mã số của mẫu. Đánh giá độ thâm nhập
của phẩm màu theo thang đánh giá của Ferrari
và cộng sự (1996).
Độ 0: không thâm nhập phẩm nhuộm.
Độ 1: thâm nhập phẩm nhuộm ít hơn ½
chiều dài thành nướu.
Độ 2: thâm nhập phẩm nhuộm nhiều hơn
½ chiều dài thành nướu nhưng chưa đến
thành trục.
Độ 3: thâm nhập dọc theo thành trục.
Dùng hệ số Kappa để đánh giá độ kiên định
của hai quan sát viên.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 194
Dùng phép kiểm định thống kê bằng test Mann-
Whitney để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm.
a b c d
Hình 5. Các mức độ thâm nhập phẩm nhuộm
a. Độ 0; b. Độ 1; c. Độ 2; d. Độ 3.
KẾT QUẢ
Mức thâm nhập xanh methylen vào mô răng
ngay tại giao diện giữa GIC và mô răng của
xoang trám của nhóm 1 và nhóm 2 là cao nhất,
8/10 mẫu thấm phẩm nhuộm độ 3 theo thang
điểm Ferrari (1996). Mức thâm nhập xanh
methylen vào mô răng ngay tại giao diện giữa
GIC và mô răng ở nhóm 5 là thấp nhất, độ 0
chiếm 8/10 mẫu nghiên cứu.
Mức thâm nhập xanh methylen vào mô răng
ngay tại giao diện giữa GIC và Composite
không xuất hiện ở nhóm 4 và nhóm 5. Mức
trung bình thâm nhập xanh methylen ở nhóm 1
là 2,7; nhóm 2 là 2,8; nhóm 3 là 1; nhóm 4 là 0,5
và nhóm 5 là 0,2. Tuy nhiên, trên phép kiểm
định thống kê cho thấy, không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về mức thâm nhập xanh
methylen tại giao diện giữa lớp lót GIC và mô
răng giữa các nhóm: nhóm 1 và 2 (nhóm lót GIC
cổ điển Fuji IX có xoi mòn bề mặt GIC và không
có xoi mòn bề mặt GIC) (p>0,05), nhóm 4 và 5
(p>0,05), nhóm 3 và 4 (p>0,05).
Nhóm
(n=10)
Độ thâm nhập xanh methylen
0 1 2 3 TB
1 0 1 1 8 2,7
2 0 1 0 9 2,8
3 2 6 2 0 1,0
4 6 3 1 0 0,5
5 8 2 0 0 0,2
Ở nhóm 5, mức độ xâm nhập phẩm nhuộm
tại bề mặt GIC và mô răng hiện diện ở mức độ 1
trên 2 răng. Nhóm 4, mức độ xâm nhập phẩm
nhuộm tại bề mặt GIC và mô răng hiện diện ở
mức độ 1 trên 3 răng, mức độ 2 trên 1 răng. Khi
vi kẽ hiện diện thì sự xâm nhập xanh methylen
ở mức cao nhất tại giao diện giữa GIC và bề mặt
mô răng.
STT So sánh mức độ thâm
nhập phẩm nhuộm
Giá trị
U
Giá
trị p
1 Nhóm 1 – nhóm 2 0,74 0,05
2 Nhóm 3 – nhóm 4 0,14
3 Nhóm 4 – nhóm 5 0,44
4 Nhóm 1 – nhóm 3 0
5 Nhóm 2 – nhóm 4 0
BÀN LUẬN
Hiện nay, trong thực hành nha khoa, kỹ
thuật phục hồi xoang loại II dưới nướu bằng kỹ
thuật sandwich mở là một kỹ thuật thường sử
dụng trên lâm sàng. Sự co do trùng hợp xảy ra
khi những phân tử monomer chuyển thành
mạng lưới polymer là một hiện tượng không
mong muốn khi trùng hợp của composite và có
thể xem là một trong những yếu tố gây ra sự
thiếu tương thích giữa miếng trám và thành
xoang trám, gia tăng nguy cơ sâu răng tái phát
đặc biệt ở phần sâu của hộp bên xoang loại II có
bờ dưới nướu trong kỹ thuật sandwich mở(5). Sử
dụng GIC như là chất nền trong kỹ thuật
sandwich mở truyền thống sẽ giảm đáng kể
khối lượng composite sử dụng và vì vậy sẽ làm
giãm sự co do trùng hợp của composite và cải
thiện sự khít sát ở bờ nướu. Thuận lợi khác của
việc sử dụng GIC trong kỹ thuật sandwich mở
là sự phóng thích flour của GIC sẽ làm ức chế
sâu răng thứ phát và sự tiến triển sâu răng xung
quanh miếng trám(1).
Glass ionmer cement vẫn được coi là vật liệu
duy nhất tự dán với mô răng(4) và trước đây
người ta đã cho rằng GIC và composite có thể tự
dán dính với nhau(7,13,14) cho dù hiệu quả dán
dính không tốt(15). Lực bền dán của hai vật liệu bị
ảnh hưởng bởi ít nhất một trong bốn yếu tố:
- Độ cứng của GIC mà chủ yếu phụ thuộc
vào tỷ lệ bột / nước.
- Độ nhớt của tác nhân dán và khả năng làm
ướt của bề mặt GIC.
- Sự thay đổi thể tích của nhựa composite
trong quá trình trùng hợp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 195
- Việc khó khăn khi đặt vào và sự khít sát
của khối nhựa composite vào GIC(15).
Người ta đã từng khuyên rằng quá trình soi
mòn bằng acid sẽ giúp tạo ra một bề mặt GIC
hơi gồ ghề được làm sạch có năng lượng bề mặt
cao(14). Quá trình này cũng được cho là sẽ giúp
tạo ra những tiếp xúc khít sát hơn và những bề
mặt giao diện giữa GIC và composite(13). Mặc dù
có những lưu ý này, nhưng nghiên cứu cho thấy
khi soi mòn bề mặt GIC cổ điển vẫn không cải
thiện sự dán dính của kỹ thuật sandwich mở.
Nghiên cứu này nhận thấy sử dụng GIC có
tăng cường thành phần nhựa có mức độ xâm
nhập xanh methylen ít hơn có ý nghĩa thống kê
so với khi sử dụng GIC cổ điển, nhưng mức độ
xâm nhập vi kẽ giữa nhóm có soi mòn và không
có soi mòn bề mặt cùng loại GIC không khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi tương tự kết quả nghiên cứu của
Bona AD, Pinzettac, Rosa V (2007, 2009)(2,3). Các
nghiên cứu cho thấy lựa chọn loại GIC mới
quan trọng. Loại GIC nào có đặc tính cơ học và
hóa học cải tiến sẽ tăng khả năng dán. Những
nghiên cứu trước đây cho thấy, GIC cổ điển
không có khả năng tạo một lớp dán dính hiệu
quả do:
- Sự nhạy cảm của vật liệu với độ ẩm khi
mới đặt vào và khi bắt đầu đông cứng.
- Quá trình mất nước sau khi đông cứng sẽ
làm nứt gảy.
Tuy nhiên, người ta cho rằng hiện tượng
dán tốt hơn của GIC có tăng cường thành phần
nhựa là do hiện tượng đuôi nhựa đi vào ống
ngà giúp cho việc trao đổi ion giữa ngà và GIC
có tăng cường thành phần nhựa như một nghiên
cứu trước đây từng ghi nhận(10). Mặc dù nhiều
nghiên cứu đã xác nhận không nhận thấy sự tồn
tại của các đuôi ngà hoặc sự hình thành một lớp
lai thì giả thuyết này vẫn được xem là lý do giúp
giải thích đặc tính tốt hơn của GIC có tăng
cường thành phần nhựa. Ngoài ra, sự có mặt
của HEMA của GIC có tăng cường thành phần
nhựa giúp làm tăng độ bền dán của nhựa
composite và góp phần vào ngăn cản sự thấm
màu xuyên qua giao diện của các loại vật liệu là
điều được chứng minh trong nghiên cứu này.
Kết quả thử nghiệm invitro thường không
thể lặp lại hoàn toàn chính xác các điều kiện trên
lâm sàng, vì vậy một số điều kiện có thể không
hoàn toàn giống trên lâm sàng. Cần nghiên cứu
sâu hơn để giúp các nhà lâm sàng có nhiều
thông tin khi quyết định lựa chọn kỹ thuật và
loại vật liệu trám trong trường hợp phục hồi lỗ
trám loại II dưới nướu.
Trong nghiên cứu này, không nhận thấy sự
xâm nhập vi kẽ tại giao diện thứ 2 là giao diện
giữa GIC và Composite ở nhóm 4 và 5. Trong
khi tham khảo tài liệu chúng tôi cũng chưa tìm
thấy tài liệu đánh giá vi kẽ bề mặt giao diện giữa
hai loại vật liệu GIC và composite. Hy vọng thời
gian sắp tới sẽ có những phương tiện và
phương pháp khác khảo sát vi kẽ ở giao diện
này.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện của thử nghiệm invitro
nhận thấy việc soi mòn bề mặt GIC trước khi
trám composite không cải thiện vi kẽ nhưng
sử dụng GIC có tăng cường thành phần nhựa
tăng khả năng ngăn chặn thâm nhập vi kẽ hơn
GIC cổ điển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bowen RL, Marjenhoff WA (1992). Dental composites/glass
ionomers: the materials. Adv Dent Res, 6: 44-49.
2. Bona A D1, Pinzetta C1, Rosa V2 (2007). Microleakage of acid
etched glass ionomer sandwich restorations. J Appl Oral Sci, 15:
230-234.
3. Bona A D1, Pinzetta C1, Rosa V2 (2007). Effectic of acid etching
of glass ionomer cement surface on the miroleakage sandwich
restorations. J Appl Oral Sci, 15: 230-234.
4. De Munck J, Van Landuyt K, Peumans M, Poitevin A,
Lambrechts P, Braem M, et al (2005). A critical review of the
durability of adhesion to tooth tissue: methods and results. J
Dent Res, 84: 118-132.
5. Dijkenl JWV, Kieri C, Carlen M (1999). Longevity of extensive
class II Open - sandwich restorations with a resin-modified glass-
ionomer cement. J Dent Res, 78: 1319-1325.
6. Dương Thị Hoài Xuân, Hoàng Tử Hùng (2007). Đánh giá
invitro sự hình thành vi kẽ bờ nướu miếng trám composite trực
tiếp xoangloại II. Luận văn thạc sỹ y học, Đại học Y Dược
Tp.HCM.
7. Fortin D, Vargas MA, Swift EJ Jr (1995). Bonding of resin
composites to resin-modified glass ionomers. Am J Dent, 8: 201-
204.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 196
8. Florita Z, Rominu M, Sinescu C (2006). Microleakage in open
sandwich class II restorations. Eur J Oral Sci, 11: 1033-1042.
9. Federlin M, Thonemann B, Hiller K-A, Schmalz G (2002).
Microleakage in class II composite resin restorations: application
of a clearing protocol. Clin J Oral Invest, 6: 84-91.
10. Hinoura K, Moore BK, Phillips RW (1987). Tensile bond
strength between glass ionomer cement and composite resin. J
Am Dent Assoc, 114: 167-172.
11. Hallett KB, Garcia-Godoy F (1993). Microleakage of
resinmodified glass ionomercement restorations: an invitro
study. Dent Mater, 9: 306-311.
12. Hoàng Đạo Bảo Trâm, Hoàng Tử Hùng (1999). Đánh giá invitro
vi kẽ của phục hồi xoang loại II sử dụng SONICSYS. Luận văn
thạc sỹ y học, Đại học Y Dược Tp.HCM.
13. McLean JW, Powis DR, Prosser HJ (1985). The use of glass-
ionomer cements in bonding composite resins to dentine. Br
Dent J, 158: 410-414.
14. Mount GJ (1989). Clinical requirements for a successful
‘sandwich’ - dentine to glass ionomer cement to composite resin.
Aust Dent J, 34: 259-265.
15. Mount GJ (1991). Adhesion of glass-ionomer cement in the
clinical environment. Oper Dent, 16: 141-148.
16. Nguyễn Trường Sơn, Hoàng Tử Hùng (2002). Đánh giá invitro
vi kẽ trong kỹ thuật sandwich phục hồi xoang loại II( so sánh
GIC trộn bằng máy và bằng tay). Luận văn chuyên khoa cấp II,
Đại học Y Dược Tp.HCM.
17. Võ Thị Thanh Vân, Đinh Thị Khánh Vân (2011). Đánh giá
invitro vi kẽ ở thành nướu lỗ trám loại II composite bằng kỹ
thuật trám trực tiếp và gián tiếp. Tiểu luận tốt nghiệp bác sĩ răng
hàm mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM.