Mục tiêu:Đánh giá khả năng dung nạp và hiệu quả của đơn trị liệu Topamax với liều linh hoạt ở những
bệnh nhân động kinh mới được chẩn đoán, chưa điều trị hoặc thất bại với đơn trị liệu bằng một thuốc kháng động
kinh khác.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mở can thiệp đa trung tâm sử dụngtopiramate liều linh hoạt đơn
trị liệu trong 16 tuần trên bệnh nhi 5 tuổi mới được chẩn đoán động kinh, chưa được điều trị hoặc đã thất bại
với 1 thuốc kháng động kinh khác.
Kết quả: Topiramate với liều trung bình 2,97mg/kg có hiệu quả trong 88,9% trường hợp có cơn động kinh
toàn thể lẫn cơn động kinh cục bộ, động kinh mới chưa được điều trị cũng như đã thất bại với 1 đơn trị liệu;
trong đó 70,1% hết cơn hoàn toàn, 16,2% giảm 75% cơn và 2,6% giảm 50%. Topiramate dung nạp tốt với
43,2% trường hợp có tác dụng ngoại ý nhẹ và không ảnh hưởng đến huyết đồ, chức năng gan thận, điện tim
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu mở đa trung tâm với liều linh hoạt để đánh giá hiệu quả và sự dung nạp của đơn trị liệu Topiramate ở những bệnh nhân động kinh mới chẩn đoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013 NghiêncứuYhọc
131
NGHIÊN CỨU MỞ ĐA TRUNG TÂM VỚI LIỀU LINH HOẠT
ĐỂ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ SỰ DUNG NẠP CỦA ĐƠN TRỊ LIỆU
TOPIRAMATE Ở NHỮNG BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH MỚI CHẨN ĐOÁN
Phạm Quỳnh Diệp*, Ninh Thị Ứng**, Lê Thị Khánh Vân***
TÓM TẮT
Mục tiêu:Đánh giá khả năng dung nạp và hiệu quả của đơn trị liệu Topamax với liều linh hoạt ở những
bệnh nhân động kinh mới được chẩn đoán, chưa điều trị hoặc thất bại với đơn trị liệu bằng một thuốc kháng động
kinh khác.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mở can thiệp đa trung tâm sử dụngtopiramate liều linh hoạt đơn
trị liệu trong 16 tuần trên bệnh nhi 5 tuổi mới được chẩn đoán động kinh, chưa được điều trị hoặc đã thất bại
với 1 thuốc kháng động kinh khác.
Kết quả: Topiramate với liều trung bình 2,97mg/kg có hiệu quả trong 88,9% trường hợp có cơn động kinh
toàn thể lẫn cơn động kinh cục bộ, động kinh mới chưa được điều trị cũng như đã thất bại với 1 đơn trị liệu;
trong đó 70,1% hết cơn hoàn toàn, 16,2% giảm 75% cơn và 2,6% giảm 50%. Topiramate dung nạp tốt với
43,2% trường hợp có tác dụng ngoại ý nhẹ và không ảnh hưởng đến huyết đồ, chức năng gan thận, điện tim
Từ khóa: Topiramate, đơn trị liệu, động kinh mới chẩn đoán
ABSTRACT
MULTICENTER OPEN-LABELED TRIAL WITH FLEXIBLE DOSAGE TO ASSESS TOLERABILITY
AND EFFICACY OF TOPIRAMATE MONOTHERAPY IN NEWLY DIAGNOSED EPILEPSY
PATIENTS
Pham Quynh Diep, Ninh ThiUng, Le Thi Khanh Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - No 3 - 2013: 131 - 136
Objectives: Evaluation efficacy and safety of Topiramate monotherapy with flexible dosage in newly
diagnosed epilepsy patients not yet treated or failed monotherapy with another antiepileptic drug.
Methods: Multicenter open-labeled interventional trial of using flexible dose of Topiramate monotherapy for
16 weeks in pediatric patients aged 5 years who have new onset epilepsy, not yet treated or failed monotherapy
with another antiepileptic drug.
Results: Topiramateat low average dose of 2.97 mg/kg shows effective in 88.9% cases remaining in the trial,
including generalized and partial seizures, newly diagnosed not treated epilepsy and epilepsy having failed
previous monotherapy with one antiepileptic drug. Among the good response cases, 70.1% are completely seizure
free, 16.2% reduce 75% seizure rate and 2.5% reduce 50% seizure rate. Topiramate are also well tolerated
with 43,2% of cases have mild adverse events and have no influence on hematology, liver and kidney function,
electrocardiogram.
Keywords: Topiramate, monotherapy, newly diagnosed epilepsy
GIỚI THIỆU
Động kinh là một rối loạn thần kinh
nghiêm trọng thường gặp nhất (tỷ lệ mới mắc
khoảng 30-50/ 100000 dân năm; tỷ lệ bệnh lưu
* Bệnh viện Tâm thần, TP Hồ Chí Minh, ** Bệnh viện Nhi Trung ương, Hà nội *** BV Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: BS CK 2 Phạm Quỳnh Diệp ĐT: 0908414963 Email: quynhdiep125@yahoo.com
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013
132
hành 0,6-0,8%)(9). Các thuốc chống động kinh
kinh điển đã giúp kiểm soát các cơn động kinh
ở phần lớn các bệnh nhân. Tuy nhiên, các
thuốc này có nhiều tác dụng phụ và có tiềm
năng gây độc tính hệ thần kinh trung ương
hoặc có thể gây ra các phản ứng đặc ứng
nghiêm trọng(17). Từ năm 1992, nhiều thuốc
chống động kinh mới với các cơ chế khác với
cơ chế các thuốc kinh điển và có các tác dụng
phụ được cải thiện đã được đưa vào sử dụng;
điều này giúp việc xử trí động kinh đạt được
các mức độ cao hơn về tính hiệu quả và an
toàn(5). Topiramate là một trong các thuốc này.
Hiệu quả và sự an toàn của topiramate đã
được chứng minh trong nhiều thử nghiệm có
đối chứng ngẫu nhiên mù đôi ở người lớn và
trẻ em, cả như là đơn trị liệu và điều trị kết
hợp cho các cơn động kinh cục bộ có hay
không có toàn thể hóa thứ phát, và cho các cơn
động kinh toàn thể hóa(13).
“Thử nghiệm mở can thiệp đa trung tâm với
liều linh hoạt để đánh giá sự dung nạp và hiệu
quả của đơn trị liệu topiramate ở những bệnh
nhân động kinh mới được chẩn đoán chưa được
điều trị hoặc thất bại với đơn trị liệu sử dụng
thuốc chống động kinh khác” đã được tiến hành
để mô tả việc sử dụng “thuốc trong thực tế” và
tính thiết thực của việc điều trị này ở Việt Nam.
Thử nghiệm mở đa trung tâm này đã được tiến
hành từ tháng 5 năm 2008 ở khoa Thần kinh của
bệnh viện Nhi trung ương ở Hà Nội, khoa Nội
thần kinh của bệnh viện Nhi đồng 2 ở Tp.HCM
và phòng khám ngoại trú nhi của bệnh viện Tâm
thần ở Tp.HCM.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm đánh giá sự dung nạp và hiệu quả của
đơn trị liệu topiramate với liều linh hoạt ở
những bệnh nhân động kinh mới được chẩn
đoán, chưa được điều trị hoặc đơn trị liệu thất
bại với một thuốc chống động kinh khác.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm mở can thiệp đa trung tâm.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhi bị động kinh thỏa mãn các
tiêu chuẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ được
liệt kê bên dưới từ 3 trung tâm tham gia nghiên
cứu (khoa Thần kinh của bệnh viện Nhi Trung
Ương (Việt Nam - Thụy Điển), khoa Nội thần
kinh của bệnh viện Nhi Đồng 2 ở Tp.HCM và
phòng khám ngoại trú nhi của bệnh viện Tâm
Thần ở Tp.HCM).
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tuổi ≥ 5 tuổi và < 18 tuổi và cân nặng ≥ 25
kg.
- Được chẩn đoán động kinh co cứng co giật
toàn thể hóa nguyên phát hoặc các động kinh
cục bộ có hoặc không có toàn thể hóa thứ phát
(theo ILEA) trong vòng 5 năm gần đây.
- Chưa bao giờ được điều trị, hay thất bại với
đơn trị liệu đầu tiên với các thuốc chống động
kinh khác do không có hiệu quả hoặc không
dung nạp, không đòi hỏi trị liệu kết hợp.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Những bệnh nhân bị các cơn giả động kinh
hoặc các cơn động kinh triệu chứng với các
nguyên nhân có thể điều trị được.
- Những bệnh nhân có bất kỳ bệnh lý
nghiêm trọng hoặc tiến triển nào mà nó có thể
cản trở sự hoàn thành thử nghiệm.
- Những bệnh nhân có thai hoặc cho con bú.
- Những bệnh nhân với tiền căn hoặc nghi
ngờ lạm dụng rượu hoặc chất gây nghiện.
- Những bệnh nhân tham gia trong một thử
nghiệm thuốc khác trong vòng 30 ngày trước khi
bắt đầu thử nghiệm này.
- Những bệnh nhân đã sử dụng topiramate
hoặc hơn một thuốc chống động kinh trước đó.
- Những bệnh nhân nhạy cảm với bất kỳ
thành phần nào của thuốc.
- Những bệnh nhân đang dùng các chất ức
chế MAO, furosemide, hydrochlorothiazide.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu này đã
được điều trị bằng topiramate trong vòng 16
tuần với liều khởi đầu là 0,5mg/kg cân nặng
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013 NghiêncứuYhọc
133
dùng đường uống vào buổi tối, sau đó tăng
0,5mg/kg/ngày mỗi tuần trong vòng 6 tuần cho
đến khi đạt liều mục tiêu 3mg/kg/ngày. Liều tiếp
theo đã được điều chỉnh bằng cách tăng
0,5mg/kg/ngày mỗi tuần để đạt được liều tối ưu
tùy theo hiệu quả và sự dung nạp, nhưng không
vượt quá liều tổng cộng là 9mg/kg/ngày.
Nếu bệnh nhân đã được điều trị với thuốc
chống động kinh khác lúc khởi đầu của thử
nghiệm, thuốc này sẽ được giảm dần để ngưng
hoàn toàn sau 3 tuần để đảm bảo rằng tất cả
những bệnh nhân sẽ dùng đơn trị liệu
topiramate vào cuối tuần thứ 4.
Liều, giảm liều thuốc chống động kinh,
chỉnh liều đến liều tối đa là 9mg/kg/ngày nếu
cơn động kinh không được kiểm soát, liều có thể
giảm nếu không được dung nạp tốt.
Các tiêu chí đánh giá là sự thay đổi tỉ lệ cơn
động kinh ở tuần thứ 4, tuần 12 và tuần 16 so với
lúc ban đầu, sự giảm cơn động kinh ≥ 50%, ≥
75%, 100% (không còn cơn động kinh) và sự
thay đổi của điểm số đánh giá lâm sàng tổng
quát (Clinical Global Impression CGI) ở ngày
cuối cùng so với ngày bắt đầu. Tất cả các tác
dụng ngoại ý trong suốt thử nghiệm đã được ghi
nhận ở mỗi lần thăm khám. Phân tích thống kê
mô tả đã được sử dụng để đánh giá các dữ liệu
quan sát. Do đặc tính mở của thử nghiệm và
không có nhóm chứng hoặc phân nhóm điều trị
ngẫu nhiên, việc tính toán giá trị p của ý nghĩa
thống kê đã không được thực hiện.
KẾT QUẢ
Các đặc điểm dân số học
Từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 1 năm 2010,
139 bệnh nhi thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn bệnh
và tiêu chuẩn loại trừ từ 3 trung tâm đã được
đưa vào nghiên cứu: 132 bệnh nhân tham gia
vào phân tích an toàn thuốc, 117 bệnh nhân hoàn
tất thử nghiệm được phân tích hiệu quả và 22
bệnh nhân rút lui khỏi thử nghiệm, chiếm 15,8%
tất cả các trường hợp.
Phân bố bé trai (51,1%) và bé gái (48,9%)
thì gần như bằng nhau. Tuổi trung bình của
dân số nghiên cứu là 10,1 ± 3,1 tuổi, trong khi
đó tuổi trung bình của khởi phát bệnh là 8,9 ±
3,4 tuổi, cho thấy rằng phần lớn các trường
hợp có khởi phát động kinh gần đây. Hơn 40%
các bệnh nhân đã được ghi nhận là có các tình
trạng tiền bệnh lý chẳng hạn như chấn thương
đầu (15,9%), các cơn động kinh do sốt (12,9%),
viêm màng não (2,2%), chậm phát triển tâm
thần (1,4%), xuất huyết não (0,7%) và các tình
trạng khác.
Dựa trên phân loại của ILAE về các cơn
động kinh, 58,3% các trường hợp đã được chẩn
đoán là các cơn động kinh cục bộ có hoặc không
có toàn thể hóa thứ phát và 41,7% các trường
hợp là các cơn động kinh co cứng co giật toàn
thể hóa nguyên phát. Phần lớn các cơn động
kinh là vô căn (56,9%); các cơn động kinh còn lại
là căn nguyên ẩn (18,7%), có triệu chứng (17,3%),
và không xác định (7,1%).
Hai phần ba của dân số nghiên cứu là các
trường hợp động kinh mới được chẩn đoán chưa
được điều trị và chưa bao giờ được điều trị với
một thuốc chống động kinh trong quá khứ. Một
phần ba còn lại đã được điều trị với một thuốc
chống động kinh trước khi đi vào thử nghiệm.
Các thuốc chống động kinh được sử dụng trước
đó thường gặp nhất là valproate (16,5%) và
carbamazepine (10,1%). Các lý do của việc
chuyển sang topiramate là không có hiệu quả
(77%), không dung nạp (5,8%), và cả không có
hiệu quả và không dung nạp (5,8%).
Tần số của cơn động kinh trung bình mỗi
tháng trước khi bắt đầu với topiramate trong
nhóm nghiên cứu thì cao, 36,6±96 mỗi tháng, với
41% các trường hợp có hơn 10 cơn động kinh
mỗi tháng và 59% các trường hợp có tỉ lệ cơn
động kinh dưới 10 cơn động kinh mỗi tháng.
Hiệu quả của topiramate
Ở tuần 16, liều trung bình của topiramate
được dùng trong thử nghiệm thì thấp
(2,97mg/kg/day), gần bằng liều mục tiêu là
3mg/kg/ngày.
Đánh giá hiệu quả điều trị ở tuần 4, tuần
12, và tuần 16 với các tỉ lệ đáp ứng điều trị
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013
134
(giảm cơn động kinh ít nhất 50%) trong nhóm
nghiên cứu lần lượt là 85,9%, 86,2%, 88,9%. Tỉ
lệ không còn cơn động kinh tương ứng là
58,6%, 66,9%, và 70,1%.
Ba nhóm cơn động kinh cục bộ, toàn thể hóa
thứ phát, co cứng co giật toàn thể hóa nguyên
phát thì đáp ứng tốt với điều trị (giảm tỉ lệ cơn
động kinh ít nhất 50% lần lượt là 85%, 90%, và
92%; không còn cơn động kinh lần lượt là 65%,
60%, và 80%) (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1:
Sau 16 tuần, những bệnh nhân với tần số cơn
động kinh hàng tháng thấp (< 4 cơn mỗi tháng)
trước khi đưa vào thử nghiệm có tỉ lệ hết cơn
động kinh cao hơn so với những bệnh nhân có >
10 cơn động kinh mỗi tháng (74,3% so với
66%)(Biểu đồ 2).
Hiệu quả của topiramate như là đơn trị
liệu trong 2 nhóm bệnh nhân - mới được chẩn
đoán và chưa được điều trị, hoặc thất bại với
một thuốc chống động kinh khác - thì tương tự
nhau với tỉ lệ không còn cơn động kinh là
khoảng 70%(Biểu đồ 3).
Hiệu quả điều trị thì cũng được phản ánh
qua việc đánh giá điểm số lâm sàng tổng quát
(Clinical Global Impression CGI) trước và sau
khi điều trị. Sau 4 tháng điều trị, phần lớn các
trường hợp được đánh giá từ khá tốt đến rất tốt
(17,9% được đánh giá như là rất tốt, 52,8% tốt, và
25,2% khá tốt) trong khi phần lớn các đánh giá
lúc ban đầu thì tương đối xấu.
Biểu đồ 2:
Biểu đồ 3:
Sự dung nạp
Đã có 43,2% các trường hợp được ghi nhận
là có 1-7 tác dụng ngoại ý xảy ra trong suốt thử
nghiệm. Không có tác dụng ngoại ý nặng nào
được ghi nhận.Phần lớn các tác dụng ngoại ý
được báo cáo được đánh giá là nhẹ, thoáng qua,
tự giới hạn và không cần phải điều trị. Các tác
dụng ngoại ý hay gặp nhất là sụt cân, chán ăn,
các rối loạn dạ dày ruột, tăng thân nhiệt, mệt
mỏi,...(Biểu đồ 4).
Đối với tác dụng ngoại ý sụt cân, cân nặng
cơ thể đã được ghi nhận là mất dưới 8%, trung
bình 1,26kg ± 1,22kg, ít nhất là 0,5kg và nhiều
nhất là 7kg (ở một bệnh nhân quá cân lúc bắt
đầu điều trị). Các đặc điểm tác dụng ngoại ý
tương tự với các kết quả của các tác giả khác. Sau
4 tháng điều trị bằng topiramate ở liều thích
hợp, không có một sự thay đổi bất thường có ý
nghĩa đã được ghi nhận trên các kết quả xét
Giảm:
100% cơn
≥ 75% cơn
≥ 50% cơn
Chưa điều
trị
Đã điều trị
thuốc chống
Giảm:
100% cơn
≥75% cơn
≥50% cơn
< 4 cơn/
tháng
4-10 cơn/
tháng
>10 cơn/
tháng
Giảm:
100% cơn
≥75% cơn
≥50% cơn
Cơn cục
bộ
Cơn toàn thể
hóa thứ phát
Cơn co cứng co
giật tòan thể
nguyên phát
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013 NghiêncứuYhọc
135
nghiệm về huyết học, sinh hóa đối với các chức
năng gan và thận, ion đồ, NH3, phân tích nước
tiểu và điện tâm đồ.
Biểu đồ 4:
Hoàn thành nghiên cứu
Tỉ lệ những bệnh nhân vẫn dùng topiramate
sau 4 tháng nghiên cứu là 84,2%, kết quả này
tương tự với kết quả của các nghiên cứu bởi các
tác giả khác sử dụng liều linh hoạt topiramate
dưới dạng đơn trị liệu. Tỉ lệ này thì cao hơn tỉ lệ
của các nghiên cứu sử dụng các thuốc chống
động kinh khác (ví dụ, 57% với các thuốc chống
động kinh cổ điển, < 68% với lamotrigine, và
43% - 56% với gabapentin).
Trong số 22 trường hợp (15,8%) rút lui khỏi
thử nghiệm, không có trường hợp nào là do
không dung nạp thuốc: ba trường hợp rút khỏi
nghiên cứu do hiệu quả kém, và phần lớn các
trường hợp còn lại là do không tuân thủ điều trị.
BÀN LUẬN
Đã hơn 20 năm kể từ khi báo cáo đầu tiên
năm 1988 về dùng Topiramate trong điều trị
động kinh. Hiệu quả và độ an toàn của
Topiramate trong đơn trị liệu các cơn động kinh
mới chẩn đoán, động kinh kháng trị đã được
đánh giá bằng các thử nghiệm lâm sàng có kiểm
soát được tiến hành trên nhiều quốc gia.
Trong nghiên cứu này, liều khởi đầu điều trị
từ 0,5 mg/kg/ngày tăng liều thêm 0,5
mg/kg/ngày sau 2 tuần, cứ 2 tuần tăng thêm 0,5
mg/kg/ngày phù hợp với các tác giả Glauser(7),
Coppola(2).
Đối với cơn co thắt gấp đã tăng lên 29
mg/kg/ngày vẫn dung nạp được (Glauser(8)).
Nghiên cứu của Yann Mikaeloff, Olivier Dulac(12)
cho thấy Topamax có hiệu quả tốt khi điều trị trẻ
em dưới 4 tuổi nhưng phải yêu cầu tăng liều thật
chậm. Điều trị cả động kinh kháng thuốc ở trẻ
dưới 12 tuổi dạng cơn cục bộ, động kinh giật cơ
nặng. Nhiều nghiên cứu mở đã được báo cáo về
điều trị động kinh cục bộ bằng Topiramate
(Privitera et al(14); Reife and Pledger(16); Faught(4);
Ben-menachem(1); Coppola et al.(3)) cho thấy 50%
có đáp ứng khi điều trị kết hợp với Topiramate,
giảm cơn co giật sau 3 tháng điều trị với liều
trung bình 4,8 – 9 mg/kg/ngày. Một vài nghiêu
cứu cho rằng Topiramate có hiệu quả tương
đương cho tất cả các loại động kinh, tuy nhiên
Wei-Ping Liao(11) nhận xét hiệu quả trên động
kinh cục bộ, cục bộ toàn thể hoá.
Ở nghiên cứu của chúng tôi, 65% hết cơn
trong nhóm bệnh nhân bị cơn cục bộ, 60% hết
cơn trong nhóm bệnh nhân bị cơn toàn thể hóa
thứ phát và 80% hết cơn ở bệnh nhân bị cơn co
cứng co giật toàn thể nguyên phát.
Tuy nhiên đã có những tranh luận về liều và
chuẩn liều của thuốc.Các báo cáo gần đây khẳng
định rằng liều thấp Topiramate có thể có hiệu
quả tốt. Những khác biệt này có lẽ do sự khác
biệt trong từng cá thể đối với Topiramate lớn
hơn các thuốc chống động kinh khác. Sự khác
biệt về chủng tộc và trọng lượng cơ thể có thể là
những yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả.
Theo tác giả Wei-Ping Liao, Topiramate liều 2,7
mg/kg/ngày cắt được cơn, khuyến cáo liều khởi
đầu 1 mg/kg/ngày với chuẩn liều 0,5
mg/kg/ngày mỗi tuần có lẽ là phác đồ điều trị tốt
cho trẻ em.
Còn theo nghiên cứu của chúng tôi trên 139
bệnh nhân, liều thuốc Topiramate trung bình sử
dụng là 2,97 mg/kg/ngày; liều khởi đầu trung
bình là 0,73 mg/kg/ngày với chuẩn liều trung
bình là 0,4 mg/kg/ngày.
Privitera et al(15) nghiên cứu 613 bệnh nhân
(20% bệnh nhân có tuổi lớn hơn 6 và nhỏ hơn 16)
bị cơn động kinh toàn thể hay cục bộ, ngẫu
nhiên mù đôi với topiramate 100 mg/ngày hay
Visi
t 1
Rất tốt Tốt Kh tốt Trung bình Xấu
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số3*2013
136
200 mg/ngày, so với valproate 1250 mg/ngày và
carbamazepine 600 mg/ngày, cho thấy không có
khác biệt đáng kể giữa topiramate 100 mg,
topiramate 200 mg, valproate hay
carbamazepine, nhưng nhóm topiramate 100
mg/ngày bị ít tác dụng phụ hơn.
Tuy nhiên, ở nghiên cứu ngày có 52 bệnh
nhân từng sử dụng các thuốc kháng động kinh
khác trước đó như valproate, phenobarbital,
carbamazepine nhưng không hiệu quả, được
chuyển sang sử dụng topiramate thì thấy có
70,5% bệnh nhân cắt được 100% cơn, và 13,7%
bệnh nhân cắt được ≥ 50% số cơn. Theo Kwan P.,
Brodie M.J(10), bệnh nhân không đáp ứng với
thuốc kháng động kinh đầu tiên là một yếu tố
tiên lượng kháng trị.
KẾT LUẬN
Topiramate với liều trung bình 2,97
mg/kg/ngày hiệu quả trong việc làm giảm số
lượng các cơn động kinh: 70,1% hoàn toàn
không còn cơn động kinh, 16,2% giảm tỷ lệ cơn
động kinh ≥75% và 2,5% giảm tỉ lệ cơn động
kinh ≥ 50%.
Topiramate hiệu quả trong cơn động kinh
toàn thể co cứng co giật và các cơn động kinh
cục bộ có hay không có toàn thể hóa thứ phát, và
trong cả 2 nhóm bệnh nhân: động kinh mới
được chẩn đoán chưa được điều trị và động kinh
thất bại với các thuốc chống động kinh khác
dưới dạng đơn trị liệu.
Topiramate cũng được dung nạp tốt bởi vì
không có trường hợp nào bị tác dụng ngoại ý
nặng hoặc rút lui khỏi thử nghiệm do tác dụng
ngoại ý. Các tác dụng ngoại ý đã được báo cáo
như chán ăn, giảm cân, tăng thân nhiệt, rối loạn
tiêu hóa nhẹ, thoáng qua, và tự giới hạn.
Lời cám ơn: Cám ơn công ty Janssen Cilag Việt Nam đã tài trợ
nghiên cứu này. Cám ơn BS Nguyễn Lê Minh Trang và BS Đỗ
Thị Lan Hương, cố vấn y khoa Janssen Cilag Việt Nam, đã hỗ trợ
việc biên tập báo cáo nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ben-Menachem E (1997). “Clinical efficacy of topiramate as
add-on therapy in refractory partial epilepsy: the European
experience”. Epilepsia; 38 Suppl 1:S28-30.
2. Coppola G et al. (2001). “Topiramate in refractory partial-
onset seizures in children, adolescents and young adults: a
multicentric open trial”. Epilepsy Res 43(3):255-60.
3. Coppola G et al. (2002). “Topiramate as add-on drug in
children, adolescents and young adults with Lennox-Gastaut
syndrome: an Italian multicentric study”. Epilepsy Research; 51:
147-/153
4. Faught E (1997). “Efficacy of topiramate as adjunctive therapy
in refractory partial seizures: United States trial experience”.
Epilepsia; 38 Suppl 1:S24-7
5. French JA et al (2004). “Efficacy and tolerability of the new
antiepileptic drugs I: treatment of new onset epilepsy”.
Neurology; 62: 252–60
6. Ginspan A, Mikaeloff Y, Dulac O (2005) “Topiramate: efficacy,
tolerability and pharmacokinetics in children with epilepsy
aged from 6 months to 4 years” Epilepsy. Vol.46. suppl. 6,2005,
p. 238
7. Glauser TA (1998). “A pilot study of topiramate in the
treatment of infantile spasms”. Epilepsia 39(12):1324-8.
8. Glauser TA. (1998). “Topiramate use in pediatric patients”
Can J Neurol Sci. 25(3):S8-12
9. Hauser WA et al (1993). “Incidence of epilepsy and
unprovoked seizures in Rochester, Minnesota: 1935–1984”.
Epilepsia; 34: 453–68.
10. Kwan P, Brodie MJ (2000) “Early identification of refractory
epilepsy” New Engl. Journal Med. 2000; 342:314 – 319.
11. Liao WP, Yang SQ (2005) “An open-label study of Topiramate
as add on therapy for epilepsy using sl