Đặt vấn đề: Bệnh thận IgA là một trong những dạng thường gặp nhất của viêm cầu thận, đặc trưng bởi sự lắng đọng IgA trong khu vực gian mạch cầu thận. Lưu thông trong huyết tương, globulin miễn dịch A (IgA) được gắn với thụ thể Fc alpha (FCAR hoặc CD89) thành phức hợp hòa tan. Phức hợp sCD89-IgA đã được chứng minh có liên quan đến hình thành bệnh thận IgA. Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu mối liên quan của các điểm biến đổi của gen FCAR với sự hình thành và tiến triển bệnh thận IgA cũng như sự ảnh hưởng của nồng độ sCD89-IgA trong huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA. Đối tượng và phương pháp: Phương pháp ELISA gián tiếp phát hiện sCD89-IgA trong huyết thanh lần đầu tiên được áp dụng cho nghiên cứu trên 177 bệnh nhân bệnh thận IgA và 115 người khỏe mạnh. Chúng tôi cũng phân tích nồng độ sCD89-IgA trong 62 mẫu huyết thanh từ những bệnh nhân bệnh thận IgA được theo chiều dọc trong 15 năm. Kiểu gen của 05 điểm biến đổi (SNPs) của gen FCAR được thực hiện trong tất cả 689 mẫu DNA bằng phương pháp phân tích di truyền allele dựa vào TaqMan. Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ thấp của phức hợp sCD89-IgA trong nhóm bệnh thận IgA tiến triển nặng với nhóm không tiến triển (p = 0,002, Mann-Whitney thử nghiệm). Những bệnh nhân có chức năng thận ổn định không tiến triển bệnh có nồng độ ổn định sCD-IgA cao, trái ngược với nồng độ thấp của sCD89 trong nhóm tiến triển suy thận nặng, kết quả được nghiên cứu trên những bệnh nhân có mẫu huyết thanh theo dõi từ 5 đến 15 năm. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phức hợp sCD89-IgA có vai trò quan trọng trong dự đoán tiến triển suy thận ở bệnh thận IgA
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phát hiện CD89 như một marker mới trong dự đoán tiến triển suy thận ở bệnh thận IgA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 223
NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN CD89 NHƯ MỘT MARKER MỚI
TRONG DỰ ĐOÁN TIẾN TRIỂN SUY THẬN Ở BỆNH THẬN IgA
Vương Tuyết Mai*, Leonid Padyukov**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh thận IgA là một trong những dạng thường gặp nhất của viêm cầu thận, đặc trưng bởi sự
lắng đọng IgA trong khu vực gian mạch cầu thận. Lưu thông trong huyết tương, globulin miễn dịch A (IgA)
được gắn với thụ thể Fc alpha (FCAR hoặc CD89) thành phức hợp hòa tan. Phức hợp sCD89-IgA đã được
chứng minh có liên quan đến hình thành bệnh thận IgA.
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu mối liên quan của các điểm biến đổi của gen FCAR với sự hình thành và
tiến triển bệnh thận IgA cũng như sự ảnh hưởng của nồng độ sCD89-IgA trong huyết thanh của bệnh nhân
bệnh thận IgA.
Đối tượng và phương pháp: Phương pháp ELISA gián tiếp phát hiện sCD89-IgA trong huyết thanh lần
đầu tiên được áp dụng cho nghiên cứu trên 177 bệnh nhân bệnh thận IgA và 115 người khỏe mạnh. Chúng tôi
cũng phân tích nồng độ sCD89-IgA trong 62 mẫu huyết thanh từ những bệnh nhân bệnh thận IgA được theo
chiều dọc trong 15 năm. Kiểu gen của 05 điểm biến đổi (SNPs) của gen FCAR được thực hiện trong tất cả 689
mẫu DNA bằng phương pháp phân tích di truyền allele dựa vào TaqMan.
Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ thấp của phức hợp sCD89-IgA trong nhóm bệnh
thận IgA tiến triển nặng với nhóm không tiến triển (p = 0,002, Mann-Whitney thử nghiệm). Những bệnh nhân
có chức năng thận ổn định không tiến triển bệnh có nồng độ ổn định sCD-IgA cao, trái ngược với nồng độ thấp
của sCD89 trong nhóm tiến triển suy thận nặng, kết quả được nghiên cứu trên những bệnh nhân có mẫu huyết
thanh theo dõi từ 5 đến 15 năm.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phức hợp sCD89-IgA có vai trò quan trọng trong dự đoán
tiến triển suy thận ở bệnh thận IgA.
Từ khoá: Gen FCAR, phức hợp sCD-IgA, bệnh thận IgA, điểm biến đổi gen, SNP.
ABSTRACT
CD89 AS ONE OF BIOMARKERS FOR PROGRESSIVE RENAL FAILURE OF IgA NEPHROPATHY
Vuong Tuyet Mai, Leonid Padyukov
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 223 - 228
Background:IgA nephropathy is the most common form of glomerulonephritis, characterized by IgA
deposition in the mesangial region of the glomeruli. Fc alpha receptor (FcαRI or CD89) is involved in
immunoglobulin A (IgA) complex formation in the circulation. CD89-IgA complexes have been suggested to be
implicated in development of IgA nephropathy.
Objective:Investigate genetic variations of the Fc alpha receptor(FCAR) gene in relation to susceptibility to
IgAN and the expression of soluble IgA receptor (sCD89) in plasma of IgAN patients with or without disease
progression and in healthy controls.
* Bộ môn Nội ĐH Y Hà Nội. ** Viện Karolinska, Thụy Điển.
Tác giả liên lạc: TS. Vương Tuyết Mai. ĐT: 0915518775. Email: vuongtuyetmai@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 224
Patients and methods. Two hundred and twelve unrelated patients (146 males and 66 females), mean age
38.5±14.4 years (range 17 to 77 years) with biopsy-proven IgAN and 477 healthy (321 males and 156 females),
mean age 44.8 ± 13.0 years (range 18 to 80 years) were included in the study. A sandwich ELISA method was
developed. Soluble CD89 (sCD89) bound to IgA in human sera was analyzed in 177 IgAN patients and 115
healthy controls. We also analysis the levels of sCD89 of 62 serum samples from seven longitudinal IgAN
patients, who had followed up 15 years. Genotyping for 5 single nucleotide polymorphisms (SNPs) of the FCAR
gene was performed in all samples using a TaqMan allelic discrimination assay.
Results. There was a significant difference between the levels of sCD89-IgA complexes in IgAN patients
with and without disease progression (p=0.002, Mann-Whitney Test) and none significant difference was found
in the disease control group (p=0.326, Mann-Whitney Test). The patients with non-progression had stable with
high level of sCD89, in contrast to low level of sCD89 in progression group during up to 15 years of follow-up
with repeated measures data.
Conclusions. Our data ssuggested sCD89-IgA complexes in plasma as one of possible biomarkers for
progressive renal failure of IgA Nephropathy.
Key words: FCAR gene, sCD89-IgA, IgA nephropathy, polymorphism, SNP
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bệnh lý cầu thận, bệnh thận IgA là
một trong những nhóm bệnh thường gặp nhất
với tiêu chẩn đoán xác định bệnh là sự lắng
đọng của IgA tại gian mạch cầu thận. Sau thời
gian mắc bệnh từ 10-20 năm, khoảng 30% bệnh
nhân có thể sẽ tiến triển đến bệnh thận giai đoạn
cuối (end stage renal disease-ESRD) đòi hỏi phải
điều trị thận thay thế(1; 2). Khi lưu thông trong
huyết thanh, IgA gắn với CD89 thành một phức
hợp hòa tan, hoặc với hoặc các thụ thể tế bào(3; 4).
Phức hợp IgA-CD89 được xác định có vai trò
quan trọng trong lắng đọng IgA ở gian mạch
cầu thận(5). Chúng tôi đặt giả thiết rằng phức
hợp sCD89-IgA hoà tan trong huyết thanh có
thể là maker quan trọng cho sự hình thành bệnh
thận IgA và cũng có thể là yếu tố nguy cơ tiến
triển đến suy thận ở bệnh nhân bệnh thận IgA.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm
mục đích tìm hiểu mối liên quan của các điểm
biến đổi của gen FCAR với sự hình thành và
tiến triển bệnh thận IgA cũng như sự ảnh hưởng
của nồng độ sCD89-IgA trong huyết thanh của
bệnh nhân bệnh thận IgA.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện trên 689 mẫu
DNA di truyền từ hai trăm mười hai bệnh nhân
bệnh thận IgA không có quan hệ huyết thống
(146 nam và 66 nữ), tuổi trung bình 38,5 ± 14,4
(17 đến 77 tuổi) và 477 đối tượng khỏe mạnh
(321 nam và 156 nữ), tuổi trung bình 44,8 ± 13,0
(18 đến 80 tuổi).
Tách chiết DNA được thực hiện bằng
phương pháp “salting-out” từ máu toàn phần
đã được giữ trong trong EDTA hoặc từ phân
đoạn tế bào máu có nhân. Sau tách chiết chất
lượng DNA hoà tan được xác định ở bước đặt
260/280 nm với spectrophotometer DU600 series
(Beckman Coulter, Bromma, Thụy Điển).
Phương pháp phân tích di truyền Allele dựa
vào TaqMan (Allele-specific TaqMan assays của
Applied Biosystems, Foster City, Hoa Kỳ) cũng
được sử dụng cho việc xác định kiểu gen của rs
thuộc gen FCAR.
Kỹ thuật ELISA gián tiếp được sử dụng để
phát hiện phức hợp CD89-IgA trong huyết
thanh. Kháng thể 1 được sử dụng là kháng thể
đơn dòng của chuột CD89 (A3) người (Abcam)
và kháng thể thứ 2 được sử dụng là kháng thể
thỏ cộng hợp alkaline phosphatase kháng IgA
người (Dako, Glostrup, Denmark). Các mẫu
huyết thanh được pha loãng ở hai mức độ (1:10
và 1:1000) và pha loãng 4 mức độ theo cơ số 10
(1:10-1:10000). Phản ứng với giữa alkaline
phosphatase và cơ chất (Sigma-Aldrich) được đo
ở bước sóng (OD) 405 nm trên máy Multiscan
MS spectrophotometer (Labsystems, Finland).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 225
Để so sánh tỷ lệ phần trăm kiểu gen, allele
và kiểu hình, test X bình phương và Fisher’s
exact được sử dụng với phần mềm SPSS.
Haplotype được phân tích bằng chương trình
HaploView.
KẾT QUẢ
Tỷ lệ kiểu gen và allele của SNPs thuộc gen FCAR trong bệnh thận IgA
Bảng 1: Tỷ lệ kiểu gen của SNPs thuộc gen FCAR trong bệnh thận IgA và nhóm chứng.
SNPs Tỷ lệ kiểu gen ở mô hình đồng phối hợp gen
FCAR rs11084377 Total AA AG GG X2 p-value
Chứng 312 36 (11.5%) 130 (41.7%) 146 (46.8%) Nhóm
n=451 Bệnh 139 6 (4.3%) 67 (48.2%) 66 (47.5%) 6.335 0.04
FCAR rs4806605 Total CC CT TT
Chứng 310 207 (66.8%) 93 (30%) 10 (3.2%) Nhóm
n=450 Bệnh 140 96 (68.6%) 40 (28.6%) 4 (2.8%) 0.155 0.93
FCAR rs10402324 Total AA AG GG
Chứng 302 135 (44.7%) 138 (45.7%) 29 (9.6%) Nhóm
n=444 Bệnh 142 51 (35.9%) 71 (50%) 20 (14.1%) 3.918 0.14
FCAR rs1865097 Total AA AG GG
Chứng 312 33 (10.6%) 143 (45.8%) 136 (43.6%) Nhóm
n=443 Bệnh 131 20 (15.3%) 59 (45%) 52 (39.7%) 2.039 0.36
FCAR rs16986050 Total AA AG GG
Chứng 319 210 (65.8%) 93 (29.2%) 16 (5%) Nhóm
n=456 Bệnh 137 90 (65.7%) 44 (32.1%) 3 (2.2%) 2.117 0.35
Bảng 2: Tỷ lệ allele của các SNPs thuộc gen FCAR trong bệnh thận IgA và nhóm chứng.
Gen FCAR
SNPs Số allele bệnh, chứng Tỷ lệ allele bệnh, chứng X2 P value
rs11084377 309:117, 643:281 0.725, 0.696 1.218 0.27
rs4806605 88:342, 176:746 0.205, 0.191 0.353 0.55
rs10402324 158:272, 288:608 0.367, 0.321 2.756 0.09
rs1865097 144:256, 305:617 0.360, 0.331 1.060 0.30
rs16986050 338:68, 755:173 0.833, 0.814 0.684 0.41
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 226
Nồng độ phức hợp sCD89-IgA trong nhóm bệnh thận IgA tiến triển đến bệnh thận mạn
tính giai đoạn cuối và nhóm không có suy thận
Biểu đồ: Phân bố nồng độ của phức hợp sCD89-IgA trong nhóm bệnh thận IgA tiến triển đến bệnh thận mạn
tính giai đoạn cuối và nhóm không có suy thận.
Phân bố cho thấy rất rõ ở nhóm bệnh thận
IgA không tiến triển đến suy thận có nồng độ
phức hợp sCD89-IgA cao hơn khác biệt có ý
nghĩa thống kê với nhóm bệnh thận IgA tiến
triển đến ESRD.
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi phát triển
một phương pháp mới để phát hiện CD89 hòa
tan trong huyết thanh thông qua xác định phức
hợp sCD89-IgA trong huyết thanh người và
phương pháp này đã được áp dụng cho 177
bệnh nhân bệnh thận IgA và 115 người khỏe
mạnh.
Trước chúng tôi đã có nhiều nhóm nghiên
cứu khác đã cố gắng để định lượng được sCD89
trực tiếp trong huyết thanh nhưng đã thất bại.
Thực tế cho thấy rằng có thể là hầu như tất cả
các sCD89 phân tử đều kết hợp chặt chẽ để IgA
trong phức hợp CD89-IgA và chỉ một phần nhỏ
của phân tử sCD89 được tiếp xúc với kháng thể.
Do đó khi phức hợp này đã được phân ly trong
ống nghiệm bằng chất tẩy rửa mạnh do vậy mà
phản ứng trong trường hợp này không thực
hiện được vì sự biến tính của kháng thể. Đây rất
có thể là lý do tại sao sCD89 chưa được công bố
định lượng ở huyết thanh người cho dù những
nghiên cứu về sCD89 đã được tiết hành rất đa
dạng trong phòng thí nghiệm và trong những
nghiên cứu thực nghiệm trên chuột (transgenic
mice)(5).
Western blotting cũng có hiệu quả áp dụng
cao nhưng không phải là một phương pháp
định lượng chính xác. Chính vì vậy chúng tôi đã
quyết định giải quyết vấn đề bằng cách định
lượng phức hợp sCD89-IgA thay vì sCD89 phân
tử đơn độc, thông qua việc sử dụng các kháng
thể kháng IgA là một loại kháng thể thứ hai
trong một sandwich ELISA. Kết hợp với sCD89
huyết thanh với một kháng thể đặc hiệu thứ
Nhóm bệnh
thận IgA không
có tiến triển suy
thận.
Nhóm bệnh
thận IgA tiến
triển đến ESRD.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 2012 227
nhất, đơn dòng kháng thể CD89 đảm bảo độ đặc
hiệu của phản ứng. Từ những nghiên cứu bước
đầu thành công đã cho thấy phương pháp này
có thể được sử dụng để phát hiện lưu hành
sCD89 trong huyết thanh/plasma trong nhiều
loại bệnh lý khác nhau.
Kết quả nghiên cứu của của chúng tôi cho
thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nồng
độ thấp của phức hợp sCD89-IgA trong huyết
thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA tiến triển
đến bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối so với
nhóm chứng. Điều quan trọng là xét nghiệm
cùng thời điểm nồng độ phức hợp sCD89-IgA
và creatinine huyết thanh trong nhóm bệnh thận
IgA tiến triển đến bệnh thận mạn tính giai đoạn
cuối và nhóm không có suy thận cho thấy phân
bố nồng độ của phức hợp sCD89-IgAổn định ở
mức thấp trong khi nồng độ creatinine huyết
thanh trong nhóm bệnh thận IgA tiến triển đến
bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối. Ngược lại
nhóm không có suy thận thì nồng độ sCD89-IgA
ổn định ở mức cao trong giai đoạn theo dõi liên
tiếp từ 5-15 năm.
Khi bắt bắt đầu tiến hành nghiên cứu, bước
đầu tiên, chúng tôi xác định kiểu gen của FCAR
và phân tích sự phân bố ở bệnh nhân bệnh thận
IgA và người khoẻ mạnh. Việc lựa chọn maker
dựa trên những kinh nghiệm của chúng tôi ở
những nghiên cứu trước khi đã xác định kiểu
gen trên những vị trí khác nhau của gen và chọn
SNP ở các vị trí khác nhau sao cho bao phủ
được hầu hết chiều dài của gen. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy sự tái tổ hợp gen
tương đối thấp ở chủng tộc da trắng: trong tổng
số 32 tái tổ hợp gen có thể có chúng tôi ghi nhận
8 tái tổ hợp là phổ biến nhất trong nhóm đối
tượng nghiên cứu. Bằng chứng là LD rất mạnh ở
khu vực này, như vậy về mặt lý thuyết là tăng
khả năng cho sự phát hiện mối liên quan của
SNP với bệnh thận IgA hoặc haplotype. Tuy
nhiên chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê trong tỷ lệ kiểu gen và allele
giữa nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm
chứng.
Điều quan trọng nhất của nghiên cứu là cho
thấy là nồng độ huyết thanh của sCD89-IgA là
ổn định ở mức thấp ở những bệnh nhân bị bệnh
thận IgA tiến triển đến bệnh thận mạn tính giai
đoạn cuối và liên tục cao ở bệnh nhân bị bệnh
thận IgA nhưng triệu chứng ổn định và không
có dấu hiệu tiến triển các cơ chế đằng sau tác
dụng này vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi suy đoán
rằng có thể sự thiếu hụt sCD89 đã là yếu tố
tham gia vào làm tăng sự tiến triển nặng của
bệnh nhân bệnh thận IgA và phức hợp này có
thể được sử dụng như một biomarker cho dự
đoán sự tiến triển nặng ở những bệnh nhân
viêm cầu thận IgA.
KẾT LUẬN
Kết quả thí nghiệm của chúng tôi cho phép
kết luận rằng có mối liên quan giữa nồng độ
thấp của phức hợp sCD89-IgA trong huyết
tương và nguy cơ suy thận nặng của bệnh thận
IgA. Có khả năng có sự tham gia của yếu tố gen
di truyền trong tổng hợp và ảnh hưởng tới nồng
độ sCD89-IgA trong huyết thanh. Những
nghiên cứu tiếp theo về vai trò của gen FCAR và
sự lưu hành phức hợp sCD89-IgA trong huyết
thanh ảnh hưởng đến cơ chế bệnh sinh bệnh
thận IgA rất cần được thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berthoux FC, Mohey H, Afiani A. Natural history of primary IgA
nephropathy. Semin Nephrol 2008; 28: 4–9
2. Donadio JV, Grande JP. IgA nephropathy. N Engl J Med. Sep 5
2002;347(10):738-748.
3. Floege J, Feehally J. IgA nephropathy: recent developments. J Am
Soc Nephrol. Dec 2000;11(12):2395-2403.
4. Van der Boog PJ, van Kooten C, de Fijter JW, Daha MR. Role of
macromolecular IgA in IgA nephropathy. Kidney Int. Mar
2005;67(3):813-821.
5. Launay P, Grossetete B, Arcos-Fajardo M, et al. Fcalpha receptor
(CD89) mediates the development of immunoglobulin A (IgA)
nephropathy (Berger's disease). Evidence for pathogenic soluble
receptor-Iga complexes in patients and CD89 transgenic mice. J
Exp Med. Jun 5 2000;191(11):1999-2009.