Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi huyết động học và các tai biến biến chứng của sự phối hợp Levobupivacaine
và Sufentanil trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, ứng dụng lâm sàng.
Kết quả: Có 155 sản phụ được đưa vào mẫu nghiên cứu: tuổi trung bình của sản phụ là 26,82 5,45 tuổi;
52,26% sản phụ là con rạ; 62,58% trường hợp mổ chương trình; tuổi thai trung bình là 39,12 1,25 tuần; tỉ lệ
gây tê tủy sống thành công là 98,70%. Nghiên cứu cũng ghi nhận có 97,41% trường hợp nhịp tim và 74,20%
trường hợp huyết áp ổn định trong suốt quá trình phẫu thuật, tụt huyết áp chiếm 25,80%, không có trường hợp
nào SpO2 < 95%; nôn ói xảy ra 7,74%. Đối với trẻ sơ sinh, chỉ số Apgar trung bình 1 phút = 6,95 0,24 và 5
phút = 8,56 0,73.
Kết luận: Gây tê tủy sống với Levobupivacaine phối hợp Sufentanil để trong mổ lấy thai tại Bệnh viện Từ
Dũ là một lựa chọn thích hợp, có hiệu quả gây tê tốt, huyết động ổn định trong suốt quá trình mổ, tỉ lệ tai biến
thấp và không ảnh hưởng đến sức khỏe mẹ và thai nhi, kết quả apgar của trẻ sơ sinh tốt.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự thay đổi huyết động, các tai biến biến chứng của Levobupivacaine phối hợp với Sufentanil trong gây tê tủy sống mổ lấy thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 312
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI HUYẾT ĐỘNG, CÁC TAI BIẾN
BIẾN CHỨNG CỦA LEVOBUPIVACAINE PHỐI HỢP VỚI SUFENTANIL
TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG MỔ LẤY THAI
Mã Thanh Tùng*, Trương Quốc Việt*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi huyết động học và các tai biến biến chứng của sự phối hợp Levobupivacaine
và Sufentanil trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, ứng dụng lâm sàng.
Kết quả: Có 155 sản phụ được đưa vào mẫu nghiên cứu: tuổi trung bình của sản phụ là 26,82 5,45 tuổi;
52,26% sản phụ là con rạ; 62,58% trường hợp mổ chương trình; tuổi thai trung bình là 39,12 1,25 tuần; tỉ lệ
gây tê tủy sống thành công là 98,70%. Nghiên cứu cũng ghi nhận có 97,41% trường hợp nhịp tim và 74,20%
trường hợp huyết áp ổn định trong suốt quá trình phẫu thuật, tụt huyết áp chiếm 25,80%, không có trường hợp
nào SpO2 < 95%; nôn ói xảy ra 7,74%. Đối với trẻ sơ sinh, chỉ số Apgar trung bình 1 phút = 6,95 0,24 và 5
phút = 8,56 0,73.
Kết luận: Gây tê tủy sống với Levobupivacaine phối hợp Sufentanil để trong mổ lấy thai tại Bệnh viện Từ
Dũ là một lựa chọn thích hợp, có hiệu quả gây tê tốt, huyết động ổn định trong suốt quá trình mổ, tỉ lệ tai biến
thấp và không ảnh hưởng đến sức khỏe mẹ và thai nhi, kết quả apgar của trẻ sơ sinh tốt.
Từ khóa: Gây tê tủy sống, mổ lấy thai, huyết động học.
ABSTRACT
STUDYING OF HEMODYNAMIC CHANGES, COMPLICATIONS OF LEVOBUPIVACAINE
COMBINED WITH SUFENTANIL IN SPINAL ANESTHESIA FOR CAESAREAN SECTION
Ma Thanh Tung, Truong Quoc Viet, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 312 - 317
Background: The purpuses of this study were to access the hemodynamic changes and complications of
combination Levobupivacaine and Sufentanil in spinal anesthesia for cesarean section.
Methods: Prospective studies, clinical application.
Results: One hundred and fifty-five parturients were enrolled. The average age was 26.82 5.45; 52.26% of
women was multiparous and 62.58% was elective caesarean delivery; the average gestational age was 39.12
1.25 weeks; the rate of successful spinal anesthesia was 98.70%. The study also noted 97.41% cases of heart rate
and 74.20% cases of blood pressure were stable during surgery; hypotension accounted for 25.80% and no case of
SpO2 < 95%; vomiting occurred 7.74%. For neonatals, the average Apgar scores 1 minute = 6.95 0.24 and 5
min = 8.56 0.73.
Conclusions: Based on our data, the combination of Levobupivacaine with Sufentanil in spinal anesthesia
for caesarean section was a appropriate choice. The effect of spinal anesthesia was good and hemodynamic was
stable during the surgery. The rate of complications was low. The health of mother and fetus was not effected.
Apgar scores of neonatal were fine.
Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM ** Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Mã Thanh Tùng, ĐT: 0983814919 Email:mathanhtung@yahoo.com,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 313
Keywords: Spinal anesthesia, caesarean section, hemodynamic.
MỞ ĐẦU
Việc lựa chọn một phương pháp vô cảm
thích hợp để mổ lấy thai là vấn đề khó, phải
đảm bảo cuộc phẫu thuật thành công, vừa bảo
đảm được sức khỏe và sự an toàn cho sản phụ
và em bé sinh ra, giúp “mẹ tròn con vuông”.
Hiện nay, gây tê vùng được xem là tiêu chuẩn
vàng cho thực hành vô cảm trong sản khoa đặc
biệt đối với mổ lấy thai(2). Trong đó, gây tê tủy
sống là phương pháp vô cảm thường áp dụng vì
dễ thực hiện và nhanh chóng, mang lại hiệu quả
vô cảm tối ưu, mức độ dãn cơ rất tốt giúp bác sĩ
sản khoa bắt em bé dễ dàng và hạn chế tối đa
các sang chấn. Khi được gây tê tủy sống, sản
phụ tỉnh táo, cảm thấy thoải mái và hạnh phúc
khi nhìn thấy con chào đời. Sau mổ sản phụ an
tâm vì hiệu quả giảm đau kéo dài do thuốc tê
còn tác dụng, sản phụ cũng ít gặp buồn nôn,
nôn ói và đau họng do không có đặt ống nội khí
quản như khi gây mê toàn thân(1).
Hiện tại, thuốc sử dụng trong gây tê tủy
sống có nhiều loại và nhiều sự phối hợp cũng
như liều lượng sử dụng khác nhau, phổ biến
nhất hiện nay là Bupivacaine phối hợp với
Fentanyl, được sử dụng tại nhiều bệnh viện
trong cả nước. Tuy nhiên, việc ra đời các loại
thuốc mới trong lĩnh vực Gây mê Hồi sức đã
mang lại rất nhiều lợi ích, trong đó
Levobupivacaine là thuốc tê thế hệ mới và
mới có mặt tại thị trường Việt nam, hiện tại
chưa có đề tài nghiên cứu nào về loại thuốc tê
này trong sản khoa và mổ lấy thai.
Levobupivacaine được đánh giá là an toàn
hơn so với các thuốc tê trước đây, có hiệu quả
gây tê tốt, ít có tác dụng gây độc cho tim so
với Bupivacaine(7). Sufentanil cũng là một
thuốc giảm đau trung ương mới, có nhiều ưu
điểm và tác dụng mạnh hơn nhiều lần so với
Fentanyl và các loại thuốc giảm đau trung
ương khác. Sự phối hợp giữa
Levobupivacaine và Sufentanil trong gây tê
tủy sống để mổ lấy thai đã được áp dụng
nhiều nơi trên thế giới, có nhiều nghiên cứu
về sự kết hợp hai loại thuốc này mang lại hiệu
quả vô cảm rất tốt, an toàn cho cả mẹ lẫn
con(4,3,9).
Tại Bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi bước đầu
sử dụng phối hợp Levobupivacaine và
Sufentanil trong gây tê tủy sống để mổ lấy
thai, nhằm mục tiêu:
Khảo sát sự thay đổi huyết động học của sản
phụ được gây tê tủy sống với Levobupivacaine
phối hợp Sufentanil để mổ lấy thai.
Khảo sát các tai biến biến chứng của sự phối
hợp Levobupivacaine và Sufentanil trong gây tê
tủy sống.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, ứng dụng lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Sản phụ có chỉ định mổ lấy thai tại viện
được áp dụng phương pháp gây tê tủy sống.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Sản phụ có chỉ định mổ lấy thai cấp cứu
hoặc theo chương trình:
- Mổ cấp cứu: giục sanh thất bại, thai trình
ngừng tiến triển, ối vỡ
- Mổ chương trình: vết mổ lấy thai trước đó,
khung chậu giới hạn, ngôi mông con to, ngôi
ngang, tiền sản giật nhẹ
Tiêu chuẩn loại trừ
Tim thai suy cấp, nhiễm khuẩn dịch ối, hội
chứng tiền sản giật nặng - sản giật, hội chứng
HELLP, nhau tiền đạo, nhau cài răng lược
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 6/2010 đến 9/2010 tại Bệnh viện
Từ Dũ.
Phương pháp thực hiện
Sau khi lập đường truyền tĩnh mạch với kim
18G, truyền nhanh dung dịch 500ml Natriclorua
0,9%, đo mạch và huyết áp, sản phụ sẽ được đặt
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 314
ở tư thế ngồi trên bàn mổ với đầu gập tối đa, hai
chân tựa trên ghế để chuẩn bị gây tê tủy sống.
Sát khuẩn vùng lưng bằng dung dịch
Povidine, trãi khăn lỗ và tiến hành gây tê tủy
sống bằng kim số 27G hoặc 29G tại khe đốt sống
L3-L4 hoặc L4-L5.
Liều thuốc sử dụng: Levobupivacaine 10mg
phối hợp Sufentanil 5mcg.
Sau khi gây tê tủy sống xong, đặt sản phụ
trở về thư thế nằm, gắm monitoring theo dõi
ECG, tần số tim, huyết áp, SpO2 mỗi 1 phút
trong 10 phút đầu và sau đó là mỗi 2 phút
trong suốt cuộc mổ.
Đánh giá hiệu quả gây tê tủy sống bằng
kiểm tra sự vận động và mất cảm giác nông
sâu hai chân.
Sau khi sản phụ hoàn toàn mất vận động và
cảm giác hai chân sẽ tiến hành rạch da.
Thu thập và xử lý số liệu
Các dữ kiện được thu thập về tuổi, para, cân
nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể (BMI).
Tuổi thai.
Chẩn đoán phẫu thuật.
Mổ cấp cứu hay mổ chương trình.
Hiệu quả gây tê.
Khảo sát sự thay đổi huyết động học trong
suốt quá trình phẫu thuật tại các thời điểm:
- T0: nhận bệnh vào phòng mổ.
- T1: sau khi gây tê tủy sống.
- T2: khi rạch da
- T3: sau rạch da 5 phút.
- T4: sau rạch da 10 phút.
- T5: sau rạch da 20 phút.
- T6: sau rạch da 30 phút.
- T7: kết thúc cuộc mổ.
Chỉ số Apgar và cân nặng của trẻ sơ sinh.
Các thuốc dùng thêm.
Tai biến sau gây tê tủy sống.
Quản lý số liệu thống kê bằng phần mềm
Epi-data và Stata 10.0.
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 155 trường hợp.
Bảng 1: Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu
Đặc tính Tối thiểu Tối đa Trung bình
Tuổi của sản phụ 19 42 26,82 5,45
Cân nặng trước có
thai (kg)
44 73 55,23 8,46
Chiều cao (m) 1,51 1,68 1,57 1,23
BMI (kg/m2) 18,62 26,33 22,12 4,68
Bảng 2: PARA
PARA Tần số Tần suất
Con so 74 47,74%
Con rạ 81 52,26%
Bảng 3: Tuổi thai
Tối thiểu Tối đa Trung bình
Tuổi thai 35 41 39,12 1,25
Bảng 4: Chẩn đoán trước mổ
Chẩn đoán Tần số Tần suất
Vết mổ lấy thai cũ 67 43,22%
Ngôi mông con to 21 13,56%
Khung chậu giới hạn 18 11,62%
Giục sanh thất bại 17 10,96%
Thai trình ngưng tiến triển 10 6,45%
Sản phụ lớn tuổi, con quý 9 5,80%
Tiền sản giật nhẹ 3 1,93%
Ối vỡ 3 1,93%
Khác 7 4,52%
Biểu đồ 1: Thay đổi tần số tim trong quá trình phẫu
thuật
Biểu đồ 2: Thay đổi huyết áp trong quá trình phẫu
thuật
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 315
Biểu đồ 3: Độ bão hòa oxy mao mạch (SpO2)
Bảng 5: Loại mổ
Loại mổ Tần số Tần suất
Cấp cứu 58 37,42%
Chương trình 97 62,58%
Bảng 6: Hiệu quả gây tê
Hiệu quả gây tê Tần số Tần suất
Thành công 153 98,70%
Thất bại 2 1,30%
Bảng 7: Chỉ số Apgar
Chỉ số Apgar Trung bình
1 phút 6,95 0,24
5 phút 8,56 0,73
Bảng 8: Cân nặng của trẻ sơ sinh
Cân nặng của trẻ Tần số Tần suất
< 2500 gram 9 5,80%
2500 - 3500 gram 99 63,87%
> 3500 gram 47 30,33%
Bảng 9: Tai biến sau gây tê
Tai biến Tần số Tần suất
Không có 99 63,87%
Tụt huyết áp 40 25,80%
Nôn ói 12 7,74%
Mạch chậm 4 2,59%
Bảng 10: Các thuốc dùng thêm
Thuốc dùng thêm Tần số Tần suất
Ephedrine 47 30,32%
Primperan 12 7,74%
Atropine 4 2,59%
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sản phụ có
tuổi nhỏ nhất là 19 tuổi, lớn nhất 42 tuổi, độ tuổi
trung bình là 26,82 5,45 tuổi, đây cũng là độ
tuổi sinh con của phụ nữ nói chung. Trong
nghiên cứu của Bowring J tại Anh, tuổi sản phụ
trung bình là 30,80 0,80 tuổi(2); Bremerich DH
tuổi trung bình là 30 3 tuổi(3); Gautier P là 30
4 tuổi(8); Parpaglioni R là 34,46 3,97 tuổi(12).
Cân nặng của sản phụ trước khi có thai
trong nghiên cứu trung bình là 55,23 8,46 kg,
trong đó cân nặng thấp nhất là 44 kg, cao nhất là
73 kg và chỉ số BMI trung bình là 22,12 4,68
kg/m2. Việc tăng cân là rất cần thiết trong thai
kỳ, phản ánh tình trạng sức khỏe và trọng lượng
của thai nhi khi sinh ra. Sự tăng cân trong thai
kỳ có liên quan đến chỉ số khối cơ thể. BMI
trước khi có thai càng cao hơn giới hạn bình
thường thì sản phụ càng có nhiều nguy cơ mắc
các bệnh kèm theo trong thai kỳ như cao huyết
áp, hội chứng tiền sản giật - sản giật, tiểu đường
trong thai kỳ, sanh non
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn cả
sản phụ chưa sanh hoặc đã sanh rồi, trong đó số
sản phụ mang thai con rạ chiếm nhiều hơn
(chiếm 52,26%). Các tác giả như Bremerich DH,
Parpaglioni R, Petropoulos G đa số các nghiên
cứu khác đều thực hiện trên sản phụ chưa con
và đã có con(4,12,14).
Đa số trương hợp là thai kỳ đủ tháng, trong
đó có 149/155 trường hợp mang thai trên 37
tuần, chiếm 96,13%, tuổi thai trung bình là 39,12
1,25 tuần. Bowring J tuổi thai trung bình là
38,20 0,50 tuần(2), Marcel PV là 39 1 tuần(10),
Parpaglioni R là 39 1,40 tuần(12). Petropoulos G
chọn đối tượng sản phụ mang thai > 34 tuần(14).
Về chỉ định mổ vì vết mổ lấy thai cũ trước
đó chiếm cao nhất (43,22%), điều này cũng phù
hợp với số sản phụ mang thai con rạ cao hơn
con so. Ngoài ra, các chẩn đoán ngôi mông con
to, khung chậu giới hạn, giục sanh thất bại
chiếm tỉ lệ gần bằng nhau.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mổ lấy thai
chương trình chiếm đa số với 97/155 sản phụ
(chiếm 62,58%), cùng quan điểm với các tác giả
Algert CS (50806 sản phụ) và Bremerich DH (60
sản phụ) chọn cả mổ cấp cứu và mổ chương
trình(1,3); Bowring J chỉ chọn sản phụ mổ lấy thai
cấp cứu(2); các tác giả Bremerich DH (30 sản
phụ), Gautier P (90 sản phụ), Petropoulos G (238
sản phụ) chọn mổ chương trình(4,8,14).
Về mặt huyết động trong quá trình phẫu
thuật: Nhịp tim ổn định trong suốt cuộc mổ,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 316
trong nghiên cứu có 4 trường hợp nhịp tim
chậm dưới 50 lần/phút, những trường hợp này
phải dùng Atropine để điều trị (2,59%). Huyết
áp có giảm nhẹ tại thời điểm sau khi gây tê tủy
sống so với thời điểm sản phụ mới vào phòng
mổ, nhưng huyết áp trung bình vẫn trong giới
hạn bình thường, vẫn đảm bảo áp lực tưới máu
tử cung nhau. Trong nghiên cứu có 74,20%
trường hợp huyết áp ổn định sau khi gây tê, có
25,80% sản phụ có huyết áp giảm > 25% so với
huyết áp lúc đầu, đối với những trường hợp này
chúng tôi tiếp tục theo dõi huyết áp mỗi 2 phút
để có điều chỉnh hợp lý nhằm đảm bảo lưu
lượng máu tử cung nhau. Đối với những trường
hợp tụt huyết áp đáng kể, sẽ được tiêm bolus
Ephedrine tĩnh mạch để nâng huyết áp về trị số
bình thường. So sánh với tác giả Bremerich DH
nghiên cứu 60 trường hợp mổ lấy thai, nhận
thấy nhịp tim và huyết áp chỉ giảm tạm thời sau
khi gây tê tủy sống với Levobupivacaine, không
ghi nhận trường hợp nào sử dụng Ephedrin
hoặc Atropine(3). Gautier P nghiên cứu trên 90
sản phụ, nhận thấy sự thay đổi về huyết động
khi gây tê tủy sống để mổ lấy thai bằng
Levobupivacaine và Bupivacaine là thấp và tỉ lệ
sử dụng Ephedrine và Atropine ở hai nhóm là
như nhau(8). Glaser C cho rằng Levobupivacaine
không ảnh hưởng huyết động nhiều như
Bupivacaine, cả Levobupivacaine và
Bupivacaine đều làm giảm nhịp tim và huyết áp
động mạch trung bình, sự giảm này không
nghiêm trọng và đáp ứng nhanh với các điều trị
thông thường như truyền dịch (tinh thể hoặc
dung dịch keo) hoặc sử dụng thuốc co mạch
tuy nhiên không có khác biệt giữa hai nhóm. Tác
giả Glaser C kết luận Levobupivacaine ít làm
thay đổi huyết động hơn Bupivacaine và an
toàn hơn Bupivacaine khi dùng để gây tê tủy
sống(9). Tác giả Marcel PV nhận thấy không có
trường hợp nào tụt huyết áp sau khi gây tê tủy
sống bằng Levobupivacaine, tuy nhiên đối với
Bupivacaine tỉ lệ tụt huyết áp là 5,26%(10). Theo
Parpaglioni R tỉ lệ tụt huyết áp khi gây tê tủy
sống Levobupivacaine và Sufentanil là 20,40%,
sự phối hợp này có nhiều ưu điểm: ít làm thay
đổi huyết động hơn Bupivacaine, giảm được
liều thuốc tê tối thiểu (MLAD) so với
Bupivacaine, không gây ức chế cảm giác kéo
dài, phục hồi vận động sớm hơn và tần suất gây
tụt huyết áp cũng ít hơn(12). Tuy nhiên, theo tác
giả Cuvas O, khi so sánh hiệu quả gây tê tủy
sống cũng như ảnh hưởng trên huyết động của
Levobupivacaine và Bupivacaine, nhận thấy
không có sự khác biệt của hai loại thuốc này, cả
hai đều làm giảm nhịp tim và huyết áp động
mạch không đáng kể và không cần thiết phải
điều trị(5). Ngoài ra, trong nghiên cứu không ghi
nhận trường hợp nào SpO2 giảm < 95%, độ bão
hòa oxy mao mạch đều bình thường trong suốt
quá trình phẫu thuật.
Chỉ số Apgar của trẻ sơ sinh trong nghiên
cứu của chúng tôi đều tốt, theo Bowring J chỉ số
Apgar 1 phút = 7,70 0,30 và 5 phút = 9,50 0,10
[5]; Bremerich DH Apgar 1 phút = 8 và 5 phút =
9(3); Marcel PV Apgar 1 phút 7 chiếm 19% và 5
phút 8 chiếm 22%(10).
Cân nặng trẻ sơ sinh > 2500 gram chiếm
94,20%, chỉ có 5,80% là nhẹ cân. Theo Marcel PV
cân nặng trung bình ở nhóm Levobupivacaine là
3450 gram, Bupivacaine là 3350 gram(10).
Có 2 trường hợp gây tê tủy sống thất bại
(chiếm 1,30%), trong đó có 1 trường hợp thất bại
hoàn toàn, sản phụ không mất cảm giác và vận
động sau gây tê và 1 trường hợp đau xuất hiện
sau khi mổ 90 phút. Các tác giả Algert CS,
Bowring J cũng cho thấy có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thất bại trong gây tê tủy sống, có thể do
cơ địa bệnh nhân, do kỹ thuật đâm kim, do di
lệch khi tiêm thuốc hoặc do thuốc(1,2).
Về tai biến sau khi gây tê tủy sống: Tai
biến thường gặp nhất trong gây tê tủy sống là
tụt huyết áp, trong nghiên cứu của chúng tôi
có 25,80% trường hợp tụt huyết áp sau gây tê,
63,87% không xảy ra tai biến nào. Theo
Bremerich DH nôn ói 40%(3); Marcel PV không
có tụt huyết áp, nhưng nôn ói là 3%(10);
Parpaglioni R tụt huyết áp là 20,40%, không
xảy ra nôn ói và mạch chậm(12); Báo cáo tổng
hợp Cyna AM với 75 nghiên cứu (4624 sản
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 317
phụ) nhận thấy có 1 nghiên cứu (140 BN) kết
luận dung dịch keo không hiệu quả hơn dung
dịch tinh thể để phòng ngừa tụt huyết áp
trước khi gây tê tủy sống mổ lấy thai. Trong
khi 11 nghiên cứu (698 BN) cho thấy sự khác
biệt giữa dung dịch keo và dung dịch tinh thể
là có ý nghĩa(6). Có 47/155 trường hợp tụt
huyết áp phải dùng Ephedrine để điều trị
(30,32%). Theo Cyna AM, Ephedrine có hiệu
quả hơn dung dịch tinh thể trong phòng ngừa
tụt huyết áp sau gây tê tủy sống, đồng thời
không có sự khác biệt giữa việc sử dụng
Ephedrine và Phenylephrine, mặc dù
Ephedrine làm tăng nhịp tim(6).
KẾT LUẬN
Qua 155 trường hợp gây tê tủy sống với sự
phối hợp thuốc tê mới Levobupivacaine và
thuốc giảm đau Sufentanil để mổ lấy thai tại
Bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi nhận thấy đây là
một lựa chọn phù hợp, có hiệu quả gây tê tốt,
huyết động sản phụ ổn định trong suốt quá
trình phẫu thuật, tỉ lệ xảy ra các tai biến sau gây
tê tủy sống thấp và không ảnh hưởng đáng kể
lên sức khỏe của sản phụ và thai nhi, chỉ số
Apgar trẻ sơ sinh là tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Algert CS, Bowen JR, Giles WB, et al (2009). “Regional block
versus general anaesthesia for caesarean section and neonatal
outcomes: a population-based study”. BMC Med. 29 (7): 20.
2. Bowring J, Fraser N, Vause S, Heazell AE (2006). “Is regional
anaesthesia better than general anaesthesia for caesarean
section?”. J Obstet Gynaecol. 26 (5): 433-434.
3. Bremerich DH, Fetsch N, et al (2007). “Comparison of
intrathecal bupivacaine and levobupivacaine combined with
opioids for Caesarean section”. Curr Med Res Opin. 23 (12):
3047-3054.
4. Bremerich DH, Kuschel S, Fetsch N, et al (2007).
“Levobupivacaine for parturients undergoing elective caesarean
delivery: a dose-finding investigation”. Anaesthesist, 56 (8): 772-
779.
5. Cuvas O, Gulec H, Karaaslan M, Basar H (2009). “The use of low
dose plain solutions of local anaesthetic agents for spinal
anaesthesia in the prone position: bupivacaine compared with
levobupivacaine”. Anaesthesia. 64 (1): 14-18.
6. Cyna AM, Andrew M (2006). “Techniques for preventing
hypotension during spinal anaesthesia for caesarean section”
Cochrane Database Syst Rev. 18 (4).
7. Foster RH, Markham A (2000). “Levobupivacaine: a review of its
pharmacology and use as a local anaesthetic”. Drugs, 59 (3): 551-
579.
8. Gautier P, De Kock M, et al (2003). “Comparison of the effects of
intrathecal ropivacaine, levobupivacaine, and bupivacaine for
Caesarean section”. Br J Anaesth. 91 (5): 684-689.
9. Glaser C, Marhofer P, Zimpfer G, et al (2002). “Levobupivacaine
versus racemic bupivacaine for spinal anesthesia” Anesth Analg.
94 (1): 194-198.
10. Marcel PV, Guy H, Koen DD, et al (2001). “Levobupivacaine
combined with Sufentanil and Epinephrine for intrathecal labor
analgesia: A Comparison with Racemic Bupivacaine”. Anesth
Analg. 93: 996-1000.
11. Nguyễn Văn Chừng (2004). Sử dụng lâm sàng thuốc gây mê hồi
sức. Bộ môn Gây mê Hồi sức, Đại học Y dược TpHCM, Nhà
xuất bản Y học, tr.203-216.
12. Parpaglioni R, Baldassini B, et al (2009). “Adding sufentanil to
levobupivacaine or ropivacaine intrathecal anaesthesia affects the
minimum local anaesthetic dose required”. Acta Anaesthesiol
Scand, 53 (9): 1214-1220.
13. Parpaglioni R, Frigo MG, Lemma A, et al (2006). “Minimum
local anaesthetic dose (MLAD) of intrathecal levobupivacaine
and r