Mục tiêu: Phân tích nguy cơ sâu răng ở nhóm học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao (so với nhóm hoàn toàn
không sâu răng) tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2011.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 149 học sinh được khám đánh giá sâu
răng theo tiêu chí WHO biến đổi (bao gồm cả sang thương sâu răng chưa tạo lỗ) được chia thành 2 nhóm: 52 học
sinh không sâu răng vĩnh viễn (hoặc chỉ có tối đa 1 răng sữa sâu) và 97 học sinh có sâu răng cao. Các chỉ tố và
yếu tố nguy cơ sâu răng được thu thập ngay tại trường học và bảng câu hỏi gởi đến phụ huynh của những học
sinh trong mẫu nghiên cứu. Các đặc điểm nước bọt như pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không
kích thích và có kích thích, lưu lượng, khả năng đệm của nước bọt được thu thập bằng bộ thử nghiệm mảng bám
Plaque-check + pH và bộ thử nghiệm nước bọt Saliva-Check Buffer. Hàm lượng vi khuẩn Streptococcus mutans
và Lactobacilli được đánh giá bằng bộ test CRT® Bacteria.Tình trạng vệ sinh răng miệng của trẻ được ghi nhận
bằng chỉ số OHI-S bởi 3 điều tra viên đã được chuẩn hoá. Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế xã hội như học vấn, thu
nhập của cha mẹ học sinh và các yếu tố thói quen như chế độ ăn có đường, axít, số lần chải răng và sử dụng fluor
được ghi nhận thông qua bảng câu hỏi. Kiểm định 2, thống kê OR và phân tích hồi quy logistic được áp dụng
trong nghiên cứu này.
Kết quả: Phân tích từng phần cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ % học sinh có pH nước
bọt không kích thích từ 5,0-6,6; pH nước bọt kích thích 5,0-6,6; số lượng lactobacilli ≥ 105CFU/ml và chế độ ăn có
đường ≥ 3 lần/ngày giữa nhóm học sinh có sâu răng cao và không sâu răng. Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy
logic cho thấy pH nước bọt kích thích 5,0-6,6 (p=0,037) và số lượng lactobacilli ≥ 105 CFU/ml (p< 0,001) được
xem là yếu tố nguy cơ chính lên quan đến tình trạng sâu răng cao của học sinh ở nhóm sâu răng cao so với nhóm
không sâu răng. Những học sinh có pH nước bọt kích thích từ 5,0-6,6 có nguy cơ sâu răng cao nhiều gấp 8,82
lần (KTC 95%: 1,14-68,17; p=0,037) và những học sinh có hàm lượng Lactobacilli ≥ 105CFU/ml có nguy cơ sâu
răng cao nhiều gấp 8,07 lần (KTC 95%: 3,09-21,03, p<0,001) so với học sinh không có những yếu tố này.
Kết luận: pH nước bọt 5,0-6,6 và số lượng Lactobacilli ≥ 105CFU/ml được xem là yếu tố nguy cơ liên quan
đến tình trạng sâu răng cao của nhóm học sinh 9-10 tuổi ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ sâu răng của một số học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 87
NGUY CƠ SÂU RĂNG CỦA MỘT SỐ HỌC SINH 9-10 TUỔI
CÓ SÂU RĂNG CAO TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Huỳnh Anh*, Hoàng Trọng Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phân tích nguy cơ sâu răng ở nhóm học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao (so với nhóm hoàn toàn
không sâu răng) tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2011.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 149 học sinh được khám đánh giá sâu
răng theo tiêu chí WHO biến đổi (bao gồm cả sang thương sâu răng chưa tạo lỗ) được chia thành 2 nhóm: 52 học
sinh không sâu răng vĩnh viễn (hoặc chỉ có tối đa 1 răng sữa sâu) và 97 học sinh có sâu răng cao. Các chỉ tố và
yếu tố nguy cơ sâu răng được thu thập ngay tại trường học và bảng câu hỏi gởi đến phụ huynh của những học
sinh trong mẫu nghiên cứu. Các đặc điểm nước bọt như pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt không
kích thích và có kích thích, lưu lượng, khả năng đệm của nước bọt được thu thập bằng bộ thử nghiệm mảng bám
Plaque-check + pH và bộ thử nghiệm nước bọt Saliva-Check Buffer. Hàm lượng vi khuẩn Streptococcus mutans
và Lactobacilli được đánh giá bằng bộ test CRT® Bacteria.Tình trạng vệ sinh răng miệng của trẻ được ghi nhận
bằng chỉ số OHI-S bởi 3 điều tra viên đã được chuẩn hoá. Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế xã hội như học vấn, thu
nhập của cha mẹ học sinh và các yếu tố thói quen như chế độ ăn có đường, axít, số lần chải răng và sử dụng fluor
được ghi nhận thông qua bảng câu hỏi. Kiểm định 2, thống kê OR và phân tích hồi quy logistic được áp dụng
trong nghiên cứu này.
Kết quả: Phân tích từng phần cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ % học sinh có pH nước
bọt không kích thích từ 5,0-6,6; pH nước bọt kích thích 5,0-6,6; số lượng lactobacilli ≥ 105 CFU/ml và chế độ ăn có
đường ≥ 3 lần/ngày giữa nhóm học sinh có sâu răng cao và không sâu răng. Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy
logic cho thấy pH nước bọt kích thích 5,0-6,6 (p=0,037) và số lượng lactobacilli ≥ 105 CFU/ml (p< 0,001) được
xem là yếu tố nguy cơ chính lên quan đến tình trạng sâu răng cao của học sinh ở nhóm sâu răng cao so với nhóm
không sâu răng. Những học sinh có pH nước bọt kích thích từ 5,0-6,6 có nguy cơ sâu răng cao nhiều gấp 8,82
lần (KTC 95%: 1,14-68,17; p=0,037) và những học sinh có hàm lượng Lactobacilli ≥ 105 CFU/ml có nguy cơ sâu
răng cao nhiều gấp 8,07 lần (KTC 95%: 3,09-21,03, p<0,001) so với học sinh không có những yếu tố này.
Kết luận: pH nước bọt 5,0-6,6 và số lượng Lactobacilli ≥ 105 CFU/ml được xem là yếu tố nguy cơ liên quan
đến tình trạng sâu răng cao của nhóm học sinh 9-10 tuổi ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Nguy cơ sâu răng, OHI-S, pH mảng bám, độ nhớt nước bọt, pH nước bọt, lưu lượng nước bọt,
khả năng đệm nước bọt, Streptococcus mutans, Lactobacilli, Plaque-check + pH, Saliva-Check Buffer, CRT
Bacteria.
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Bùi Huỳnh Anh ĐT: 0909094950 Email: buihuynhanh@yahoo.fr
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 88
ABSTRACT
CARIES RISKS AMONG 9-10-YEAR-OLD CHILDREN IN BINH CHANH DISTRICT,
HOCHIMINH CITY, VIET NAM
Bui Huynh Anh, Hoang Trong Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 87 - 93
Objective: The objective of this study was to evaluate caries risks among 9-10-year-old children in Binh
Chanh District, HoChiMinh city, Viet Namin 2011.
Materials and method: 149 children from 9 to 10 years old (52 caries free children and 97 high caries
children) were participated in the study. Dental caries were recorded by using WHO Criteria 1997 (with
non-cavitated lesions) by 3 calibrated examiners. Risk factors and risk indicators related to caries such as
plaque pH, salivary viscosity, non-stimulated salivary pH, stimulated salivary flow, salivary buffering
capability were measured at the school using Plaque-check + pH and Saliva-Check Buffer test. The amounts
of Streptococcus mutans and Lactobacilli were assessed using CRT® Bacteria. Oral hygiene status was
defined according to OHI-S index by 3 given examiners. Socio-economic characteristics such as parents’
education level, parents’ income and behavioral characteristics in regard to sugar and acid consumption,
brushing habit and fluoride use were also recorded by using questionnaire. Chi Square Test, Odd ratios and
Logistic Regression Model were applied in the study.
Results: In the crude analysis, there were significant differences between the 2 groups (caries free and high
caries children) in percentage of children with non-stimulated salivary pH being equal to 5.0-6.6, non-stimulated
salivary pH being equal to 5.0-6.6, the amounts of lactobacilli being above ≥ 105 CFU/ml and high frequency of
sugar consumption. However, the multivariate logistic regression model revealed that the children with
stimulated salivary pH 5.0-6.6 and amounts of lactobacilli ≥ 105 CFU/ml had high caries risk in about 8.82 times
(CI 95%: 1.14-68.17; p=0.037) and 8.07 times (CI 95%: 3.09-21.03, p<0.001), respectively.
Conclusion: The stimulated salivary pH=5.0-6.6 and the amounts of Lactobacilli ≥ 105 CFU/ml were risk
factors associated with high caries-level 9 to 10 year-old schoolchildren in Binh Chanh district, Ho Chi Minh city,
Viet Nam.
Keywords: Risk factors, risk indicators, plaque pH, salivary viscosity, non-stimulated salivary pH,
stimulated salivary flow, salivary buffering capability, Plaque-check + pH, Saliva-Check Buffer, Streptococcus
mutans, Lactobacilli, CRT® Bacteria.
MỞ ĐẦU
Bằng chứng của hàng loạt nghiên cứu cộng
đồng từ thập niên 80 đến nay ghi nhận bệnh sâu
răng tuy là một bệnh nhiễm khuẩn nhưng lại
chịu ảnh hưởng phức tạp bởi nhiều yếu tố.
Những yếu tố sinh học tại chỗ ảnh hưởng đến
quá trình trao đổi chất khoáng thường được các
nghiên cứu đề cập đến như: thành phần và
lượng của mảng bám răng, lưu lượng nước bọt,
thành phần nước bọt, vi khuẩn, lượng fluor và
lượng đường trong miệng. Bên cạnh đó, theo
thống kê ở nhiều nơi như Đan Mạch (2006)(8),
Braxin (2006)(19), Hoa Kỳ (2009)(24), các đặc điểm
phi sinh học của cá thể hay của cộng đồng như:
trình độ giáo dục, kiến thức, thái độ tuân thủ
điều trị nha khoa, thói quen vệ sinh răng miệng
hoặc tình trạng kinh tế- xã hội và môi trường
sống cũng gây những ảnh hưởng nhất định
trong tiến triển bệnh sâu răng. Do đó, việc đánh
giá nguy cơ sâu răng nhất thiết phải mở rộng
trên các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp đến sự cân bằng sâu răng, dù cho có những
yếu tố không trực tiếp làm bệnh tiến triển
nhưng chúng được thu thập để có thể tiên đoán
khả năng hoạt động của sâu răng và xác định
nhóm đối tượng có nguy cơ sâu răng cao giúp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 89
hướng đến việc xây dựng thêm những chương
trình chăm sóc răng miệng đặc biệt cho nhóm
nguy cơ bên cạnh các chương trình nha khoa
cộng đồng.
Trong những năm gần đây ở Việt Nam,
một số điều tra sâu răng cộng đồng khảo sát
mối tương quan của bệnh với các yếu tố ảnh
hưởng ở các nhóm tuổi 12-13 đóng góp nhiều
thông tin mới cho việc nghiên cứu diễn tiến
sâu răng ở người Việt(6,16,17). Nhằm mục đích
thu thập thêm thông tin về bệnh sâu răng ở
nhóm tuổi 9-10 có sâu răng cao cũng như
đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố sinh học,
môi trường và xã hội lên tình trạng sâu răng
của nhóm trẻ này, đề tài nghiên cứu này đã
được thực hiện tại Huyện Bình Chánh, Thành
Phố Hồ Chí Minh với mục tiêu phân tích
nguy cơ sâu răng ở nhóm học sinh 9-10 tuổi
có sâu răng cao (so với nhóm không sâu răng)
tại Huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí
Minh trong năm 2010.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
149 học sinh 9-10 tuổi trường Tiểu Học
Nguyễn Văn Trân, Xã Đa Phước, Huyện Bình
Chánh, TP.HCM gồm 56 học sinh nhóm 1
(nhóm không sâu răng vĩnh viễn: không có xoang
sâu răng vĩnh viễn và có từ 1 xoang sâu răng sữa trở
xuống) và 93 học sinh nhóm 2 (nhóm sâu răng
cao: có từ 2 xoang sâu răng vĩnh viễn trở lên và từ 3
xoang sâu răng sữa trở lên).
Các biến số nghiên cứu và cách đánh giá
Khám lâm sàng đánh giá tình trạng răng
miệng
Khám sâu răng: ghi nhận sâu răng sớm ở
men (đốm đục, màu trắng hoặc nâu, lỗ rỗ) và
xoang sâu có lỗ (WHO, 1997).
Khảo sát tình trạng vệ sinh răng miệng theo
chỉ số vệ sinh răng miệng đơn giản (OHI-S).
Đánh giá cận lâm sàng các yếu tố ảnh hưởng
đến bệnh sâu răng
Chúng tôi ghi nhận độ pH của mảng bám
bằng bộ thử nghiệm Plaque - Check + pH (hãng
GC), ghi nhận độ nhớt và độ pH của nước bọt
không kích thích và lưu lượng, độ pH, khả năng
đệm của nước bọt không kích thích bằng bộ thử
nghiệm Saliva-Check Buffer (hãng GC) và ghi
nhận số lượng khúm mutans streptococci và
lactobacilli bằng bộ thử nghiệm CRT® Bacteria
(hãng Vivadent).
Thu thập thông tin về các yếu tố khác ảnh
hưởng sâu răng qua bảng câu hỏi
Số lần sử dụng thức ăn có đường và axít
trong ngày, có hay không sử dụng kem đánh
răng có fluor, số lần chải răng trong ngày,
trình độ học vấn và thu thập của cha và của
mẹ học sinh.
Xử lý và phân tích số liệu
Thống kê mô tả
Tính tỷ lệ % học sinh theo từng yếu tố ảnh
hưởng, trung bình SMT-R và SMT-MR.
Thống kê suy lý
Kiểm định 2 được dùng trong phân tích
riêng phần từng yếu tố để khảo sát sự khác
biệt của các yếu tố giữa hai nhóm nghiên cứu.
Phân tích hồi quy logic được áp dụng để
đánh giá nguy cơ của tất cả yếu tố ảnh hưởng
ở nhóm học sinh có sâu răng cao (so với
nhóm không sâu răng).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
149 học sinh được chọn vào nghiên cứu chia
thành hai nhóm: nhóm 1 có 52 học sinh và nhóm
2 có 97 học sinh. Phân bố giới tính trong mẫu
gồm 85 nam (57%) và 64 nữ (43%), không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về phân bố tỷ lệ
nam và nữ giữa hai nhóm nghiên cứu (p>0,05)
(Bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu.
Không sâu
răng n (%)
Sâu răng cao
n (%)
Tổng
N (%)
p
Nam 31 (20,8) 54 (36,2) 85 (57) 0, 643
Nữ 21 (14,1) 43 (28,9) 64 (43)
Kiểm định .
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 90
Trung bình SMT-R và SMT-MR của học
sinh trong nghiên cứu lần lượt là 0,85 ± 1,26
và 1,07 ± 1,59. Ở riêng nhóm sâu răng cao,
SMT-R và SMT-MR là 1,31 ±1,36 và 1,65 ± 1,72
(Bảng 2).
Bảng 2: Trung bình SMT-R và SMT-MR của học
sinh trong nghiên cứu.
TB± ĐLC Mẫu nghiên cứu
(n=149)
Sâu răng cao
(n=93)
SMT-R 0,85 ± 1,26 1,31 ±1,36
SMT-MR 1,07 ± 1,59 1,65 ± 1,72
Nguy cơ sâu răng của nhóm học sinh 9-10
tuổi có sâu răng cao (so với nhóm không
sâu răng)
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 3 trong phân tích
riêng từng yếu tố của học sinh ở nhóm 2 so với
nhóm 1 cho thấy bốn yếu tố có sự phân bố khác
nhau có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm học
sinh này là “pH nước bọt không kích thích 5,0-
6,6”, “pH nước bọt kích thích 5,0-6,6”, “số lượng
lactobacilli ≥ 105 CFU/ml” và “chế độ ăn có
đường ≥ 3 lần/ngày”. Tỷ lệ % học sinh có “pH
nước bọt không kích thích 5,0-6,6”, “pH nước
bọt kích thích 5,0-6,6”, “số lượng lactobacilli ≥
105 CFU/ml” và “chế độ ăn có đường ≥ 3
lần/ngày” ở nhóm 2 lần lượt cao gấp 3,79 lần;
8,68 lần; 5,41 lần và 2,01 lần so với học sinh
nhóm 1 (OR thô, KTC 95%) (Bảng 3).
Phân tích hồi quy logic ở Bảng 2 cho thấy rõ
hơn bức tranh đa yếu tố này, “pH nước bọt kích
thích ở mức 5,0-6,6” và “số lượng lactobacilli ≥
105 CFU/ml” được xem là 2 yếu tố nguy cơ chính
ở nhóm 2 so với nhóm 1 (p<0,05). Những học
sinh có hàm lượng lactobacilli ≥ 105 CFU/ml và
pH nước bọt kích thích ở mức 5,0-6,6 có nguy cơ
sâu răng cao gấp 8,07 lần (KTC 95%: 3,09-21,03)
và 8,82 lần (KTC 95%: 1,14-68,17) so với những
học sinh không có yếu tố này (sau khi đã hiệu
chỉnh để loại trừ những yếu tố khác). Rõ ràng
hàm lượng cao của nhóm vi khuẩn lactobacilli
và pH ở mức trung bình-thấp (5,5-6,6) được xem
như là yếu tố nguy cơ chính liên quan đến sự
phân cực sâu răng trong cộng đồng học sinh 9-
10 tuổi trong nghiên cứu này.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng
định mối liên quan chặt chẽ giữa vệ sinh răng
miệng kém và sâu răng trầm trọng ở trẻ nhỏ,
chẳng hạn như nghiên cứu của Mascarenhas
(1998)(15), Gudkina (2008)(6), Ngô Uyên Châu
(2006)(16). Thế nhưng, nghiên cứu này không tìm
thấy được mối liên quan của yếu tố này giữa hai
nhóm trẻ có và không có sâu răng cao. Thực tế,
Tucker (1976) và Etty (1994) cho rằng vệ sinh
răng miệng không làm tăng nguy cơ sâu cho cá
nhân hoặc nếu có, thì mối liên quan này thường
rất yếu(8).
Tương tự, nghiên cứu cũng không tìm thấy
mối liên quan có ý nghĩa giữa các yếu tố về đặc
điểm cũng như tính chất của mảng bám và sâu
răng của hai nhóm trẻ trong nghiên cứu. Mặc dù
có nhiều nghiên cứu cho kết quả khác nhau về
mối liên quan giữa mảng bám và sâu răng
nhưng mảng bám vẫn được xem là yếu tố nguy
cơ quan trọng phản ánh tình trạng sâu răng hoạt
động, đồng thời có ảnh hưởng không nhỏ đến
pH nước bọt (Edgar, 1986)(8).
Về thói quen chải răng, kết quả ghi nhận
theo bảng câu hỏi cho thấy đa số học sinh đều
chải răng mỗi ngày ít nhất 1 lần, số học sinh có
thói quen chải răng ít nhất 2 lần/ngày chiếm tỉ lệ
cao (68,1%) chứng tỏ hầu hết học sinh trong
nghiên cứu có thói quen tự chăm sóc răng
miệng khá tốt và có sử dụng kem đánh răng có
fluor. Theo tổng kết của Anderson (2002), việc
chải răng 2 lần/ngày với kem đánh răng có fluor
có thể bù đắp phần nào đối với chế độ ăn nhiều
carbohydrate dễ gây sâu răng(2). Điều này có thể
lý giải cho việc chưa tìm thấy mối liên quan với
sâu răng của yếu tố chải răng hàng ngày trong
nghiên cứu.
Bảng 3: Phân tích hồi quy các yếu tố ảnh hưởng nguy cơ sâu răng của nhóm sâu răng cao (so với nhóm không
sâu răng).
Tham số SR CAO n (%) OR thô
(KTC 95%)
OR hiệu chỉnh
(KTC 95%)(*)
p
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 91
Tham số SR CAO n (%) OR thô
(KTC 95%)
OR hiệu chỉnh
(KTC 95%)(*)
p
Vệ sinh răng miệng Trung bình và tốt 74 (64,3) 1,16
(0,51 – 2,61)
1,24
(0,43- 3,61)
0,692
Kém 23 (67,6)
pH mảng bám 6,0 66 (62,3) 1,57
(0,72 – 3,39)
1,35
(0,51- 3,59)
0,549
≤ 5,5 31 (72,1)
Độ nhớt nước bọt Thấp 8 (61,5) 1,18
(0,37 – 3,82)
2,41
(0,47-12,32)
0,291
Trung bình và cao 89 (65,4)
Lưu lượng nước
bọt KT
3,5ml 43 (58,9) 1,71
(0,87 – 3,38)
2,25
(0,93-5,44)
0,072
<3,5ml 54 (71,1)
pH nước bọt không
KT
6,8-7.8 61 (57,5) 3,79
(1,55 – 9,3)
1,58
(0,40-6,22)
0,515
5,0-6,6 36 (83,7)
pH nước bọt KT 6,8-7.8 72 (59) 8,68
(1,97 – 38,32)
8,82
(1,14-68,17)
0,037
5,0-6,6 25 (92,6)
Khả năng đệm
nước bọt
Trung bình và cao 70 (68,6) 0,62
(0,30 – 1,26)
0,31
(0,12-0,86)
0,054
Thấp 27 (57,4)
Mutans
Streptococci
< 105 CFU/ml 83 (64,3) 1,29
(0,47 – 3,59)
2,27
(0,56-9,16)
0,251
≥ 105 CFU/ml 14 (70)
Lactobacilli < 105 CFU/ml 37 (48,1) 5,41
(2,52 – 11,61)
8,07
(3,09-21,03)
<0,001
≥ 105 CFU/ml 60 (83,3)
Chế độ ăn có
đường
≤ 2 lần/ngày 47 (58) 2,01
(1,00 – 4,03)
2,91
(0,87-9,73)
0,082
≥ 3 lần/ngày 50 (73,5)
Chế độ ăn có axít ≤ 2 lần/ngày 66 (62,3) 1,57
(0,72 – 3,39)
0,84
(0,21-3,30)
0,804
≥ 3 lần/ngày 31 (72,1)
Số lần chải răng 2 lần/ngày 64 (63,4) 1,27
(0,61 – 2,65)
2,04
(0,79-5,30)
0,142
≤ 1lần/ngày 33 (68,8)
Học vấn của cha Cấp 3 trở lên 21 (53,8) 1,92
(0,91 – 4,05)
1,69
(0,59-4,83)
0,326
Cấp 2
trở xuống 76 (69,1)
Học vấn của mẹ Cấp 3 trở lên 20 (62,5) 1,16
(0,51 – 2,60)
0,48
(0,15-1,57)
0,225
Cấp 2 trở xuống 77 (65,8)
Thu nhập cha,mẹ
/tháng
> 2 triệu 19 (55,9) 1,67
(0,76 – 3,64)
1,54
(0,55-4,30)
0,410
≤ 2 triệu 78 (67,8)
Kiểm định , hồi quy logic: (*) OR đã hiệu chỉnh khi xét chung với tất cả các yếu tố trong bảng và giới tính
học sinh.
Đối với các đặc điểm nước bọt, Sanchez-
Perez (2009)(22) và Tamaki (2009)(25) cũng có
những kết quả tương tự trong nghiên cứu ở
nhóm trẻ 5-10 tuổi, là pH nước bọt không kích
thích là một yếu tố tiên đoán nguy cơ có hiệu
quả trong tiên đoán sâu răng ở răng sữa và
răng vĩnh viễn. Tuy nhiên cũng có một số ý
kiến trái ngược về ảnh hưởng của pH nước
bọt đối với sâu răng (Stookey, 2008(18); Preethi,
2010(20)). Ngoài ra, pH nước bọt cũng có thể
thay đổi tùy thuộc khả năng đệm, chế độ ăn,
hệ vi sinh môi trường miệng và thay đổi tùy
những giai đoạn khác nhau trên cùng cá
thể(14).
Trong phân tích hồi quy ở Bảng 3, “số lượng
lactobacilli ≥ 105 CFU/ml” được xem như là một
chỉ tố sinh học chính cách biệt giữa nhóm 1 và 2.
Rõ ràng, hàm lượng vi khuẩn lactobacilli cao
góp phần làm trầm trọng mức độ sâu răng của
trẻ 9-10 tuổi sống ở vùng không có chương trình
thêm fluor vào nước máy tại thành phố Hồ Chí
Minh. Nhận định này cũng phù hợp với các
nghiên cứu từ thập niên 1990 như Alaluusua
(1987)(1) và Kingman (1988)(8) khẳng định rằng số
lượng lactobacilli cao có liên quan rõ ràng với
chỉ số SMT-MR. Tuy nhiên, nghiên cứu của
Disney (1992) cho rằng yếu tố số lượng
lactobacilli chỉ góp phần nhỏ vào nguy cơ sâu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 92
sau 3 năm trên nhóm trẻ cùng trang lứa(6). Ngoài
ra, Parvinen (1981) nhận xét rằng sự hiện diện
của lactobacilli liên quan đến pH nước bọt trong
khi mật độ khúm của vi khuẩn lại bị ảnh hưởng
bởi lưu lượng nước bọt(12). Anderson (2002) cũng
làm sáng tỏ vai trò của lactobacilli qua tổng hợp
nhiều nghiên cứu cho thấy vi khuẩn này liên
quan nhiều đến sự tiêu thụ carbohydrate và sự
phát triển sâu răng qua những giai đoạn có lỗ
sâu(2).
Đối với chế độ ăn uống, mặc dù là một yếu
tố dự báo nguy cơ nhưng trong phân tích hồi
quy, yếu tố này không cho thấy có liên quan có
ý nghĩa với tình trạng sâu răng cao. Kết luận
này không phù hợp với nhận xét việc tiêu thụ
đường hàng ngày từ 3 tuổi có liên quan rõ đến
tăng sâu răng ở tuổi 7-10 của Mattila (2001)(11)
hay nhận xét về sự tồn tại mối liên hệ rất mạnh
giữa yếu tố tiêu thụ đường và sâu răng ở vùng
không thêm fluor vào nước máy của Zero
(2004)(22). Tuy nhiên, dù thực tế sâu răng không
thể xảy ra nếu không có sự hiện diện của
carbohydrate nhưng đa số nghiên cứu phân tích
ảnh hưởng của chế độ ăn uống đến sâu răng
đều khó phát hiện mối liên quan, có thể do
không thể thực hiện được xét nghiệm đo lượng
đường trực tiếp trong khi thông tin khai thác
qua câu hỏi để tính ra lượng đường hoặc số lần
ăn đường có độ tin cậy không cao.
Ngoài ra, tuy không tìm thấy mối liên hệ với
sâu răng trong nghiên cứu này với những yếu tố
kinh tế xã hội như học vấn và thu nhập của phụ
huynh học sinh, nhưng những yếu tố khách
quan này ít nhiều có thể tác động lên tình trạng
sức khỏe răng miệng của học sinh, cụ thể là
bệnh sâu răng. Theo tổng kết của Viện Nha khoa
trẻ em Hoa Kỳ (2008-2009), hầu hết các điều tra
quốc gia cho thấy trẻ xuất thân từ các gia đình
có thu nhập thấp, trẻ thuộc dân tộc thiểu số, cha
mẹ của trẻ có học vấn không cao thì trẻ dễ bị sâu
răng hoặc có nhiều răng trám hơn các đối tượng
trẻ khác(9).
Nói chung, do bản chất phức tạp của bệnh
sâu răng, khi so sánh các kết quả của nhiều
nghiên cứu, ta thấy có sự không thống nhất về
mối liên quan có ý nghĩa cũng như mức độ liên
quan mạnh yếu của các yếu tố ảnh hưởng với
bệnh sâu răng (Bảng 4).
Bảng 4: So sánh các yếu tố liên quan sâu răng với các nghiên cứu khác.
Tác giả, năm, Địa điểm Tuổi Phân tích hồi quy logic liên quan với SMR-MR, smt-mr Mức độ liên quan
Garcia-Closas, 1997
Tây Ban Nha
(6)
6-15 Tần suất tiêu thụ thức ăn ngọt
Số lượng Streptococus m