Hai ca bệnh nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo gây tổn thương ở phổi và chất xám biểu hiện triệu chứng
lâm sàng chủ yếu về hô hấp (ho, đau ngực, tràn dịch màng phổi) và thần kinh (đau đầu, co giật, liệt tay trái).
Albendazole 400mg liều 15mg/kg/24h x 18-21 ngày cho kết quả sau 3 tháng điều trị khỏi về lâm sàng 100%
4 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân hai ca bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo thể di chuyển nội tạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 37
NHÂN HAI CA BỆNH ẤU TRÙNG GIUN ĐŨA CHÓ /MÈO
THỂ DI CHUYỂN NỘI TẠNG
Nguyễn Văn Chương*, Đồng Thị Huệ**
TÓM TẮT
Hai ca bệnh nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo gây tổn thương ở phổi và chất xám biểu hiện triệu chứng
lâm sàng chủ yếu về hô hấp (ho, đau ngực, tràn dịch màng phổi) và thần kinh (đau đầu, co giật, liệt tay trái).
Albendazole 400mg liều 15mg/kg/24h x 18-21 ngày cho kết quả sau 3 tháng điều trị khỏi về lâm sàng 100%.
Từ khoá: ấu trùng di chuyển nội tạng
ABSTRACT
CASE REPORT OF VISCERAL LARVA MIGRANS DUE TO TOXOCARA SPP
Nguyen Van Chuong, Dong Thi Hue
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 37 - 40
Two cases of Toxocara spp infection had lung and grey matter lesions with respiratory (cough, chest pain,
pleural effusion) and nervous (headache, convulsion and paralyzed left hand). clinical symptoms. After 3 months
of treatment with albendazole 400mg at a dose 15mg/kg/day x 18 – 21 consecutive days showed that all symptoms
have been cured completely (100%).
Key words: Visceral larva migrans
GIỚI THIỆU
Giun đũa chó/mèo có tên khoa học là
Toxocara canis và Toxocara cati, đó là một loại ký
sinh trùng có hình dáng, kích thước giống giun
đũa ở người, sống trong ruột chó, trứng theo
phân chó/mèo ra ngoài.
Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo là một bệnh
do ký sinh trùng ấu trùng giun đũa chó/mèo gây
ra. Bệnh có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi trên thế
giới, không phụ thuộc vào nông thôn hay thành
thị, ngay cả những nước tiên tiến vẫn có khả
năng nhiễm và thậm chí nhiễm nhiều.
Điều nguy hiểm nhất là ấu trùng giun đũa
chó/mèo có thể chu du khắp nơi trong cơ thể và
có thể đến các cơ quan như: não, mắt, gan,
phổi và gây ra các triệu chứng bệnh ở các cơ
quan này. Chúng cũng có thể chu du vài lần đến
các mô, cuối cùng đóng kén thành ấu trùng và
tạo u hạt, làm tăng bạch cầu eosin ở tất cả các cơ
quan chính của cơ thể trong đó bao gồm cả não
và mắt.
Bệnh giun đũa chó /mèo thuộc nhóm “Bệnh
động vật” tức bệnh từ thú có xương sống lây
truyền sang người. Người bị nhiễm bệnh do tình
cờ nuốt trứng có ấu trùng của Toxocara canis/
Toxocara cati nhiễm trong đất, nước, thức ăn, do
chất phóng uế bừa bãi của những con chó/mèo bị
nhiễm bệnh. Các ấu trùng đi vào trong ruột, di
chuyển đến nội tạng, nơi đây chúng có thể sống
nhiều năm ở dạng tự do hay hóa kén, nhưng
không bao giờ phát triển thành con trưởng
thành. Chúng kích thích tạo ra những u hạt ở mô
ký chủ nhất là những trường hợp tái nhiễm nhiều
lần. Ngoài ra người còn có thể nhiễm do ăn thịt
thú vật nấu không chín(5).
TRÌNH BÀY CA BỆNH
Ca bệnh thứ nhất
Bệnh nhân nam Nguyễn Văn Đ 55 tuổi cư trú
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn Bệnh viện Quân Y 13-Quân khu 5
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Văn Chương ĐT: 0914004839 Email: chuongkst@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 38
tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai làm nghề nông.
Khoảng đầu tháng 8/2011 bệnh nhân xuất hiện
những cơn đau đầu , thỉnh thoảng có cơn co giật
nhẹ. Bệnh nhân đi khám ở cơ sở y tế địa phương
được điều trị thuốc giảm đau, tăng tuần hoàn não
1 tuần không đỡ và có biểu hiện liệt nhẹ tay trái.
Bệnh nhân tiếp tục đi khám ở 1 Bệnh viện TP Hồ
Chí Minh và được chụp cộng hưởng từ (MRI) ;
kết quả chẩn đoán phần tuỷ sống có vôi hoá nghi
do ấu trùng giun đũa chó.
Bệnh nhân đến phòng Khám của Viện Sốt
rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn để
kiểm tra và xin điều trị. Bệnh nhân đến trong
tình trạng tỉnh táo, đau đầu có cơn co giật và
liệt nhẹ tay trái.
Khám thực thể : bụng mềm, không chướng,
gan lách không sờ thấy ; huyết áp 130/80
mmHg ; mạch 75 lần /phút. Kết quả xét nghiệm
về ký sinh trùng cho thấy nhiễm ấu trùng giun
đũa chó với hiệu giá 1/1600 ; các xét nghiệm về
ký sinh trùng khác đều âm tính.
Thông số huyết học
Công thức máu :
HC 5,12 x 1012, BC : 6,0 x 109 , TC : 205 x 109,
Hb : 145 g/l
Hct : 44,2 g/l
N : 67,2 ; L : 23,9 ; M : 7,0 ; BA : 0,4
Thông số sinh hoá
Ure : 3,2 mmol/L
Creatinin : 90,1 mol/L
Triglycerde : 2,78 mmol/L
Cholesterol TP : 5,55 mmol/L
SGOT : 23,5 IU/L
SGPT : 25,8 IU/L
Điều trị
Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc
Albendazole 400mg, liều 15 mg/kg/24h chia 2 lần x
21 ngày, uống thuốc sau khi ăn no kèm theo
thuốc bổ gan, tăng tuần hoàn não, kháng
histamine, vitamin.
Sau 3 tuần bệnh nhân tái khám : bệnh nhân
hết liệt, hết co giật, thỉnh thoảng còn đau đầu
nhẹ. Xét nghiệm chức năng gan, thận có kết quả
bình thường:
Bệnh nhân tiếp tục được điều trị Albendazole
400mg liều 15 mg/kg/24h x 10 ngày, kết hợp
thuốc kháng histamin, bổ gan và giảm mỡ máu.
Sau 3 tháng tái khám bệnh nhân hết tất cả các
triệu chứng và ăn uống bình thường, chúng tôi
tiếp tục hẹn bệnh nhân sau 6 tháng đến xét
nghiệm miễn dịch ELISA và các thông số sinh
hoá.
Ca bệnh thứ hai
Bệnh nhân Nguyễn Xuân Th 57 tuổi, cư trú
tại Phường NguyễnVăn Cừ, TP Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định, bộ đội nghỉ hưu
Ngày 20/ 4/2011 bệnh nhân vào viện với lý
do đau tức ngực phải, ho, khó thở kèm theo sốt
từng cơn, có gai rét, người mệt mỏi. Bệnh nhân tự
dùng thuốc kháng sinh và thuốc ho ở nhà 6 ngày
nhưng không khỏi. Bệnh nhân nhập viện vào
khoa Nội 4, Viện Quân Y 13 để khám và điều trị.
Kết quả khám lâm sàng
Thể trạng mập, da niêm mạc bình thường, sốt
38,30C, bụng mềm không chướng, gan lách
không sờ thấy, nhịp tim rõ và đều 100 lần/ phút,
huyết áp 170/100 mmHg. Phổi có nhiều ran nổ và
có hội chứng 3 giảm ở ½ dưới phổi phải, tức
ngực.
Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng
Chụp XQ phổi thấy thuỳ dưới phổi phải có
đám mờ tương đối thuần nhất giới hạn trên là
rãnh liên thuỳ bé -> kết luận theo dõi viêm thuỳ
dưới phổi phải (20/4/2011).
Siêu âm tổng quát cho kết luận : có dịch ở đáy
phổi phải (25/4/20011).
Công thức máu : (21/4/2011)
+ Hồng cầu : 4,14.1012 ; Hgb : 12,9 ; HCT :38,3
+ BC : 12,6.109 ; LY% : 13,3 ; MO% : 7,6 ;
GR% : 79,1
+ Tốc độ lắng máu : 1h : 22 mm ; 2h : 35mm
Bệnh nhân được điều trị kháng sinh
(Newfaridim 1g x 2 lọ/24 ngày, tiêm tĩnh mạch
chậm), hạ sốt, chống viêm 8 ngày (từ ngày 20/4-
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 39
28/4), bệnh nhân vẫn sốt nhẹ 38,20C, tức ngực,
phổi vẫn có nhiều ran nổ ở 1/3 dưới phổi phải.
Ngày 28/4/2011 bệnh nhân được chỉ định xét
nghiệm miễn dịch tìm các loại ký sinh trùng. Kết
quả xét nghiệm miễn dịch ELISA cho dương tính
với ấu trùng giun đũa chó với hiệu giá 1/1600
(mẫu xét nghiệm gửi làm tại Viện Sốt rét-KST-CT
Quy Nhơn). Kết quả chụp phim phổi ngày
5/5/2011 kết luận : viêm hạch rốn phổi phải ; dày
dín + tràn dịch phế mạc khu trú đóng kén sau-
trên và thành trung thất phổi phải
Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc Zentel
200mg : 4 viên/24h chia 2 lần (sáng 2v, chiều 2v)
x 18 ngày phối hợp với thuốc bổ gan, giảm ho,
tiêu viêm, sinh tố. Bệnh nhân tiến triển tốt, các
triệu chứng lâm sàng thuyên giảm và mất dần.
Ngày 15/5/2011 siêu âm tổng quát không còn
dịch ở vùng phổi phải.
Ngày 16/5/2011 chụp phổi kết quả 2 phổi
tương đối sáng hơn so với trước điều trị.
Bệnh nhân hết sốt, khỏe mạnh và xuất viện
ngày 16/5/2011 với chẩn đoán Viêm phổi- màng
phổi + nhiễm ấu trùng giun đũa chó
BÀN LUẬN
Hai bệnh nhân cư trú ở 2 địa phương khác
nhau, một ở vùng nông thôn của tỉnh Gia Lai,
một ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tuy
nhiên đều có yếu tố dịch tễ giống nhau là gia
đình đều nuôi chó trong nhà và cũng thỉnh
thoảng tắm rửa cho chó. Đây là một trong những
yếu tố nguy cơ dễ lây nhiễm ấu trùng giun đũa
chó.
- Đối với bệnh nhân Nguyễn Văn Đ, triệu
chứng lâm sàng làm cho bệnh nhân phải đi
khám bệnh là : đau đầu, co giật và liệt nhẹ tay
trái. Như vậy ấu trùng giun đũa chó sau khi
nhiễm vào cơ thể đã theo máu đến tủy xương và
làm ảnh hưởng đến sự vận động (gây liệt nhẹ tay
trái) và gây nên những cơn co giật. Triệu chứng
đau đầu cũng thường gặp trong nhiễm ấu trùng
giun đũa chó. Tuy nhiên bệnh nhân này có tăng
Triglyceride (2,83 mmol/L) cũng góp phần làm
cho đau đầu
- Đối với bệnh nhân Nguyễn Văn Th, triệu
chứng lâm sàng đầu tiên là đau ngực, ho và khó
thở và sốt. Như vậy ấu trùng giun đũa chó đã
xâm nhập qua đường tiêu hoá do tiếp xúc với
chó và nuốt trứng có chứa phôi và ấu trùng phát
triển hoàn chỉnh di chuyển trong tĩnh mạch phổi
và nhu mô phổi gây những tổn thương và kích
thích dị ứng. Vào năm 1952, Beaver và cộng sự
đã chứng minh có sự hiện diện của ấu trùng
Toxocara canis ở người và gọi đó là bệnh “ấu trùng
di chuyển nội tạng”. Vì là ký sinh trùng lạc chủ,
không trưởng thành được ở người nên y văn ghi
nhận đây là hiện tượng “ngõ cùng ký sinh” hoặc
“bệnh động vật không hoàn chỉnh”(1, 4, 5 , 6).
Cả hai bệnh nhân khi chưa được chẩn đoán
về ấu trùng giun đũa chó, các thuốc tăng tuần
hoàn não, hoặc kháng sinh, chống viêm đều
không làm cho triệu chứng thuyên giảm. Khi
được chẩn đoán nhiễm ấu trùng giun đũa chó,
thuốc Albendazole 400mg liều 15mg/kg/24h x 18-
21 ngày các triệu chứng lâm sàng thuyên giảm
một cách rõ rệt.
Theo nghiên cứu của Bệnh viện Claude-
Bernard (Pháp) trên 350 bệnh nhân thì giun đũa
chó gây ra đối với nội tạng là: gan to (74,6%), sốt
(69,3%), dấu hiệu về hô hấp (66,7%), dấu hiệu về
tiêu hóa (47,6%), mệt mỏi (44,8%), suy dinh
dưỡng (44,2%), lách to (thường đi kèm gan to:
32,9%), ăn không ngon (31,1%), xanh xao
(26,2%), dấu hiệu về tim (11,1%), phù (11%)(1,.12).
Ở Thụy Sỹ, năm 1992 có hai trường hợp
nhiễm Toxocara canis lan toả ở bệnh nhân có suy
giảm miễn dịch, một có biểu hiện lâm sàng gan,
lách to, viêm phổi, dấu hiệu thần kinh kèm
nhiễm nấm rất nặng và một trường hợp điều trị
Corticoide lâu dài cho bệnh tự miễn(2).
Ở Mỹ, năm 1992 một trường hợp viêm phổi
tìm dịch hút phế nang có 64% bạch cầu ái toan,
huyết thanh chẩn đoán ELISA với kháng
nguyên Toxocara canis dương tính và nhiều
trường hợp viêm phổi khác không ngờ tới được
xem thử nghiệm huyết thanh học cho kết quả
dương tính, có một số trường hợp trong dịch
hút phế nang có nhiều bạch cầu ái toan có thể là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 40
một đầu mối hữu ích cho việc chẩn đoán. Đồng
thời, tác giả cũng báo cáo một trường hợp thứ
hai bệnh nhân bị viêm tủy do Toxocara canis đó
là trường hợp viêm tủy được khám định kỳ ở
một bệnh nhân là một phụ nữ trẻ kết hợp tăng
bạch cầu ái toan trong máu và dịch não tủy.
Phản ứng miễn dịch trong máu và dịch não tủy
đặc hiệu dương tính, bệnh nhân hồi phục sau 21
ngày điều trị với Diethylcarbamazine(2).
Ngày 04/07/2008, Bệnh viện Trường đại học Y
Dược Huế tiếp nhận một bệnh nhân nam 18 tuổi
với triệu chứng nhức đầu nhiều, mắt mờ, song
thị, sụp mí mắt bên trái, liệt nhẹ nửa người bên
phải; CT- Scanner có khối u kích thước 30,2 x
20,4 mm, choáng chỗ vùng hạ đồi và não thất
bên phía trái ( không xác định được bản chất),
chèn ép cống trung não, gây não úng thủy; đặc
biệt với kỹ thuật ELISA huyết thanh chẩn đoán
ký sinh trùng ghi nhận kết quả Toxocara canis
dương tính.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh rất đa
dạng, khó xác định, phụ thuộc rất nhiều vào số
lượng, vị trí ký sinh của ấu trùng và đáp ứng
của cơ thể người bị nhiễm, chẩn đoán thường
dựa vào miễn dịch học. Thông thường người
bệnh được chú ý tới là do các triệu chứng tổng
quát như : mệt mỏi, ăn mất ngon, tổng trạng
kém với sốt bất thường và có dạng dị ứng (nổi
mẩn ngứa, nổi ban mày đay).
Theo y văn các thể lâm sàng của người lớn
gồm có :
+ Thể hô hấp : Tần suất thể hô hấp theo
Ebrhard là 41%, theo Magnaval là 23,9%. Triệu
chứng thường gặp nhất là ho khan, khó thở dạng
suyễn.
+ Thể thần kinh và cơ : Thể này chiếm 46%
theo Magnaval., chủ yếu là nhức đầu, rối loạn
hành vi. Trường hợp nặng có thể gây động kinh,
khiếm khuyết vận động.
+ Thể tiêu hóa: Đau hố hông phải dọc khung
đại tràng kèm rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy
+ Thể huyết học: Hạch to, lách to, bạch cầu
toan tính tăng trong 6% các trường hợp,
gammaglobulin trong máu tăng, tốc độ lắng máu
tăng, bạch cầu toan tính trong máu tăng nhưng
giảm nhanh sau điều trị đặc hiệu, chứng tỏ bệnh
tiến triển tốt.
+ Thể giả hệ thống: Bao gồm thể thần kinh,
tiêu hóa, hô hấp kết hợp với triệu chứng huyết
học, dễ lầm với bệnh hệ thống.
KẾT LUẬN
Bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo là hiện
tượng “ngõ cùng ký sinh” hoặc “bệnh động
vật không hoàn chỉnh”. Triệu chứng lâm sàng
hết sức đa dạng và dễ bỏ sót hoặc nhầm sang
các bệnh khác. Hai ca bệnh nhiễm ấu trùng
giun đũa chó thể nội tạng trên đã minh chứng
điều đó. Vì vậy trong chẩn đoán và điều trị các
bệnh nội khoa nói chung và các bệnh ký sinh
trùng nói riêng cần lưu ý đến hiện tượng ngõ
cụt ký sinh này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhatia V, and Sarin SK (1994). Hepatic visceral Iarva migrans :
Evalution of the lesion, diagnosis, and role of high-dose
Albendazol therapy. Am. J. Gastroenterol, 89 (4): 624-7
2. Bùi Ngọc Thúy Linh (2003). Tình hình nhiễm Toxocara canis ở
chó và người tại TP Hồ Chí Minh, hiệu quả tẩy trừ giun đũa chó
của Fenbendazole và Ivermectin trên chó. Luận văn Thạc sĩ khoa
học. Đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh
3. Helwigh AP, Lind P, Nansen P (1999). Visceral larva migrans:
migratory pattern of Toxocara canis in pigs. International Journal
of Parasitology, 29(4): 559-565
4. Trần Thị Hồng (2001). Nghiên cứu một số đặc điểm của bệnh do
giun Toxocara spp ở người tại Việt Nam. Luận án Tiến sĩ y học. Đại
học y dược TP Hồ Chí Minh
5. Trần Thị Kim Dung, Trần Phủ Mạnh Siêu (2009). Bệnh do giun
lươn và giun đũa chó mèo. Nhà xuất bản Y học. TP Hồ Chí Minh
6. Trần Xuân Mai (1992). Góp phần nghiên cứu ngõ cụt ký sinh lây
truyền từ phân chó mèo sang người. Luận án Phó Tiến sĩ y học.
Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh.