Mục tiêu: Trình bày một gia đình với một trẻ nam 4 tuổi bị bệnh DMD và 6 thành viên nữ thuộc 3 thế hệ
mang cùng một loại đột biến mất đoạn của gen dystrophin.
Phương pháp: Nghiên cứu phân tích gen Dystrophin của một trường hợp bệnh DMD và các thành viên nữ
trong gia đình của bệnh nhân này bằng phương pháp MLPA.
Kết quả: Bệnh nhân nam 4 tuổi bị bệnh DMD, được phát hiện có đột biến mất đoạn gen dystrophin tại exon
8 và 9. Đồng thời 6 thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân, gồm: bà ngoại, mẹ bệnh nhân, 3 dì và 1 bé gái con dì
cũng đều mang đột biến mất đoạn gen dystrophin tại các exon 8 và 9 tương tự như bệnh nhân
Kết luận: Đây là một trường hợp hiếm gặp và kỹ thuật MLPA đã cho thấy những ưu điểm trong phát hiện
đột biến mất đoạn trong gen dystrophin và phát hiện người nữ mang gen bệnh, giúp cho công tác tư vấn di
truyền và là cơ sở cho chẩn đoán trước sinh ở thai phụ, nhằm giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân trường hợp một gia đình mang cùng loại đột biến mất đoạn của bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
214
NHÂN TRƯỜNG HỢP MỘT GIA ĐÌNH MANG CÙNG LOẠI ĐỘT BIẾN
MẤT ĐOẠN CỦA BỆNH LOẠN DƯỠNG CƠ DUCHENNE
Đỗ Thị Thanh Thủy*, Trần Thụy Vân Ngọc **
TÓMTẮT
Mục tiêu: Trình bày một gia đình với một trẻ nam 4 tuổi bị bệnh DMD và 6 thành viên nữ thuộc 3 thế hệ
mang cùng một loại đột biến mất đoạn của gen dystrophin.
Phương pháp: Nghiên cứu phân tích gen Dystrophin của một trường hợp bệnh DMD và các thành viên nữ
trong gia đình của bệnh nhân này bằng phương pháp MLPA.
Kết quả: Bệnh nhân nam 4 tuổi bị bệnh DMD, được phát hiện có đột biến mất đoạn gen dystrophin tại exon
8 và 9. Đồng thời 6 thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân, gồm: bà ngoại, mẹ bệnh nhân, 3 dì và 1 bé gái con dì
cũng đều mang đột biến mất đoạn gen dystrophin tại các exon 8 và 9 tương tự như bệnh nhân
Kết luận: Đây là một trường hợp hiếm gặp và kỹ thuật MLPA đã cho thấy những ưu điểm trong phát hiện
đột biến mất đoạn trong gen dystrophin và phát hiện người nữ mang gen bệnh, giúp cho công tác tư vấn di
truyền và là cơ sở cho chẩn đoán trước sinh ở thai phụ, nhằm giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Từ khóa: Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (DMD), Kỹ thuật khuếch đại đa đoạn dò (MLPA), đoạn dò.
ABSTRACT
PRESENTING A FAMILY CARRYING THE SAME DELETION MUTATIONS OF THE DYSTROPHIN
GENE
Đo Thi Thanh Thuy, Tran Thuy Van Ngoc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - No 4 - 2013: 213 - 217
Background:Aim: Presenting a family with a 4-year-old male with DMD and 6 female members of 3
generations carrying the same deletion mutations of the dystrophin gene
Method: Analyze the dystrophin gene of the boy with DMD and the females in the family by MLPA
method.
Result: the 4 years old boy with DMD has deletion mutations in exon 8 and 9 of dystrophin gene and 6
other female members in the patient’s family, including his grandmother, his mother, 3 aunts and 1 aunt’s girl
also carry the same kinds of deletion mutation in the dystrophin gene as patient’s.
Conclusion: This is rare case. MLPA technique has shown the advantages of detecting deletion mutations
in the dystrophin gene and discovered the female dystrophin mutation carriers, supporting the work of genetic
counseling and helping prenatal diagnostic for patient’s pregnancies, reducing the burden of families and society
and contributing to improving the quality of life for people.
Key words: Duchene Muscular Dystrophy (DMD), MLPA (Multiplex Ligation-dependent Probe
Amplification), probe.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (Duchenne
Muscular Dystrophy – DMD) là bệnh lý thần
kinh cơ thường gặp với tần suất mắc bệnh
khoảng 1/3500 trẻ trai sinh sống(4). Bệnh đặc
trưng bởi tình trạng yếu cơ tiến triển tuần tiến.
Trẻ mắc bệnh thường xuất hiện triệu chứng
lâm sàng lúc 1 đến 3 tuổi, teo cơ là dấu hiệu
thường gặp và giả phì đại cơ cẳng chân cũng
khá phổ biến, phần lớn trẻ mất khả năng đi lại
* Đại học Y Dược TP. HCM ** Bệnh viện Đa khoa Bình Dương, Bình Dương
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Thị Thanh Thủy ĐT: 0908487425 Email: thuyprenatal@gmail.com
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
215
ở tuổi 12 và tử vong trước 25 tuổi vì suy hô
hấp và tổn thương cơ tim(1,6). Đây là bệnh di
truyền lặn liên kết với NST giới tính X. Trên lý
thuyết thì người mẹ mang gen bệnh kết hôn
với người chồng khỏe mạnh sẽ có khả năng
truyền gen bệnh cho 50% số con trai và 50% số
con gái của họ(1,2). Do đặc điểm di truyền nên
bệnh chỉ gặp ở trẻ trai mà rất hiếm gặp ở trẻ
gái. Trẻ trai chỉ cần nhận một gene bệnh từ mẹ
là thể hiện bệnh, còn trẻ gái thì phải nhận cả 2
gen bệnh từ bố và mẹ mới thể hiện bệnh, tuy
vậy trẻ trai bị bệnh thường chết trước tuổi lập
gia đình nên khả năng kết hôn và sinh con rất
hiếm gặp. Như vậy nhìn chung là người nam
mang gen đột biến thì biểu hiện bệnh, còn
người nữ mang gen đột biến chỉ là người
mang mầm bệnh. Vì thế, việc phân tích gen
xác định đột biến sẽ giúp chẩn đoán bệnh sớm
để có hướng điều trị sớm và tích cực nhằm
giảm các biến chứng cho bệnh nhân, ngoài ra
còn giúp phát hiện các thành viên nữ mang
gen bệnh (bà ngoại, mẹ, chị em gái, dì) trong
gia đình bệnh nhân, phân tích sơ đồ phả hệ,
giúp ích cho công tác tư vấn di truyền và chẩn
đoán trước sinh, nhằm giảm gánh nặng cho
gia đình và xã hội.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân và các thành viên nữ trong gia
đình bệnh nhân.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Địa điểm phân tích và lưu trữ mẫu
Trung tâm Y sinh học phân tử - Đại học Y
Dược TP HCM.
Cách lấy mẫu
Lấy 2 ml máu tĩnh mạch chống đông bằng
EDTA. Mẫu được bảo quản ở 40C trước khi tách
DNA và bảo quản ở -200C sau khi tách DNA.
Phương pháp nghiên cứu
Máu toàn phần được ly trích DNA từ bạch
cầu bằng phương pháp kết tủa và ly tâm qua cột
với hóa chất QIAamp DNA blood Mini kit
(QIAGEN - Đức). Đo nồng độ và độ tinh sạch
DNA ở bước sóng 260/280nm (máy của hãng
Eppendorf), chỉ chấp nhận các mẫu có tỉ số mật
độ quang trong khoảng 1,8 – 2,0. Tiến hành phản
ứng MLPA với 4 giai đoạn gồm: biến tính DNA,
lai hóa, nối 2 đoạn dò gắn tín hiệu huỳnh quang
và khuếch đại các đoạn dò này. Sau đó phân
tách sản phẩm sau khuếch đại trên hệ thống
điện di mao quản GenomeLab GeXP và phân
tích kết quả phát hiện đột biến nhờ phần mềm
GeneMarker bản 1.6 (Softgenetics). Kết quả được
hiển thị dưới dạng bảng và dạng biểu đồ sóng.
Mỗi đỉnh tín hiệu (peak) là sản phẩm của một
đoạn dò. Kích thước của mỗi đỉnh tín hiệu được
xác định nhờ so sánh với thang kích thước chuẩn
và mẫu đối chứng để tính ra tỉ lệ DQ (Dosage
quotients). Chiều cao của đỉnh tín hiệu thay đổi
cho thấy sự thay đổi số bản sao của đoạn DNA
có trình tự bổ sung với đoạn dò(7).
KẾT QUẢ
Bệnh nhân nam 4 tuổi, với triệu chứng lâm
sàng phì đại cẳng chân 2 bên và hơi khó khăn
khi đi lên xuống cầu thang, nồng độ creatin
kinase trong huyết thanh là 33.480 U/L. Chẩn
đoán lâm sàng là bị bệnh loạn dưỡng cơ
Duchenne.
Bệnh nhân này được xét nghiệm phân tích
gen bằng kỹ thuật MLPA tại Trung tâm Y sinh
học phân tử - Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh, với kết quả là bị đột biến mất đoạn gen
dystrophin tại exon 8 và 9. Kết quả từ hình 1
cho thấy, không xuất hiện đỉnh tín hiệu của
các đoạn dò tương ứng với exon 8 và 9 (DQ =
0), chứng tỏ bệnh nhân này bị mất đoạn gen
đồng exon 8 và 9(8).
Chúng tôi đã tiến hành phân tích gen của các
thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân, bao
gồm: bà ngoại, mẹ bệnh nhân, 3 dì và 1 em gái
con dì. Kết quả trình bày trong hình 2.
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy, đỉnh tín hiệu của
các đoạn dò (probe) tương ứng với exon 8 và 9
của các thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân
(bà ngoại, mẹ, dì 1, dì 2, dì 3 và con gái của dì 3)
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
216
bằng khoảng ½ so với mẫu đối chứng nữ (DQ
tương ứng trong khoảng 0,441 đến 0,598), chứng
tỏ các thành viên nữ bị mất đoạn dị hợp tử ở
exon 8 và 9.
Theo Hwa H.L. (2007), khi đỉnh tín hiệu của
exon bị đột biến ở người nữ bằng ½ so với
chứng nữ thì người nữ xem như bị đột biến mất
đoạn dị hợp tử(3).
Hình 1. Đột biến mất đoạn exon 8 và 9 của bệnh nhân
Bà ngoại Người mẹ
Dì thứ 1 Dì thứ2
Dì thứ 3 Con dì thứ 3
Hình 2. Đột biến mất đoạn exon 8 và 9 của các thành viên khác
8 9
Mẫu của
bệnh nhân
Mẫu
chứng
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
217
Bảng 1: Tín hiệu đoạn dò trong đột biến mất đoạn của các thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân
STT Probe
Name
Bin Size Bà ngoại Mẹ Dì thứ 1 Dì thứ 2 Dì thứ 3 Con Dì thứ 3
Theo Lai K.K. và cộng sự (2006), khi chiều
cao đỉnh tín hiệu của người mẹ giảm từ 35 –
50% so với mẫu chứng nữ thì người mẹ này bị
đột biến mất đoạn exon tương ứng với đỉnh tín
hiệu đó(5).
Khi phân tích phả hệ của gia đình, chúng tôi
ghi nhận bệnh nhân này có 1 người cậu mắc
bệnh DMD đã chết lúc 26 tuổi (được chẩn đoán
tại Bệnh viện Trung ương Huế) và 1 người cậu
18 tuổi đang mắc bệnh DMD hiện không đi lại
được (cũng được chẩn đoán tại Bệnh viện Trung
ương Huế), vì hiện tại bệnh nhân này cũng
không đi lại được nên chúng tôi không lấy được
mẫu để làm xét nghiệm di truyền. Điều này
chứng tỏ đã có yếu tố di truyền trong gia đình
này (thể hiện qua sơ đồ 1).
Như vậy, bà ngoại và mẹ của bệnh nhân là
dị hợp tử bắt buộc và gen bệnh của con trai họ là
do di truyền từ người mẹ, điều này hoàn toàn
phù hợp khi phân tích gen của bà ngoại và mẹ
bệnh nhân.
Trong gia đình này còn có 1 thành viên nữ
nhỏ tuổi nhất (9 tháng tuổi lúc tiến hành nghiên
cứu, con của dì thứ 3) được phát hiện có mang
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
218
gen đột biến mất đoạn trên gen dystrophin và
mẹ của bé là dì thứ 3 của bệnh nhân trên cũng bị
đột biến tương tự, như thế, bé gái này đã mang
exon đột biến do thừa hưởng từ người mẹ.
Ngoài ra, khi phân tích gen của 2 người dì còn
lại cũng phát hiện đột biến mất đoạn trên exon 8
và 9 tương tự của bệnh nhân và các thành viên
nữ khác trong gia đình.
Sơ đồ 1: Nam bình thường Nam đồng hợp tử Nam đồng hợp tử đã chết
Nữ bình thường ●Nữ dị hợp tử
Như vậy, trong gia đình bệnh nhân này thì
tất cả 6 thành viên nữ đều là người mang gen
bệnh, riêng đối với bà ngoại thì 100% các con
hiện có của bà đều mang gen bệnh do bà truyền
cho (gồm 2 trai và 4 gái).
Bệnh DMD là bệnh di truyền lặn liên kết
NST giới tính X mà không có allen tương ứng
trên NST Y, trên lý thuyết thì người mẹ mang
gen bệnh kết hôn với người chồng khỏe mạnh sẽ
có khả năng truyền gen bệnh cho 50% số con trai
và 50% số con gái của họ(1,9). Tuy nhiên, ở gia
đình này thì 100% số con trai của bà ngoại bị
bệnh và 100% số con gái của bà cũng mang gen
dị hợp tử. Điều này cho thấy khả năng lan
truyền gen bệnh của người mẹ mang gen dị hợp
tử là khá cao và khá nhanh trong cộng đồng. Gia
đình này rất cần được tư vấn di truyền một cách
kỹ lưỡng và chi tiết, nhất là tư vấn về công tác
chẩn đoán trước sinh khi các dì lập gia đình và
có ý định sinh con (vì các dì còn trong lứa tuổi
sinh sản) để tránh sinh ra những đứa trẻ tiếp tục
bị bệnh hoặc mang gen bệnh, nhằm làm giảm
gánh nặng cho gia đình và xã hội.
KẾT LUẬN
Đây là một trường hợp hiếm gặp và kỹ thuật
MLPA đã cho thấy những ưu điểm trong phát
hiện đột biến mất đoạn, lặp đoạn gen dystrophin
và phát hiện người nữ mang gen bệnh, giúp cho
công tác tư vấn di truyền và là cơ sở cho chẩn
đoán trước sinh ở thai phụ, nhằm giảm gánh
nặng cho gia đình và xã hội, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Emery AEH (2002), “The muscular dystrophies”, Lancet, 359,
pp. 687 – 695.
2. Harvey B.S. (1996), “Neuromuscular Disorders”, Nelson
textbook of pediatrics, 15th edition, Vol 2, pp. 1746 – 1748.
3. Hwa HL, Chang YY, Chen CH et al. (2007), “Multiplex
Ligation-dependent Probe Amplification identification of
deletions and duplications of the Duchenne muscular
dystrophy gene in Taiwanese subjects”, J Formos Med Assoc,
106, pp. 339 – 346.
4. Kneppers ALJ, Ginjaar IB, Bakker E (2004), “Duchenne and
Becker muscular dystrophy”, Molecular diagnosis of genetic
diseases, Humana Press, New Jersey,2nd edition, pp. 311 – 342.
5. Lai KK., Lo I.F., Tong T.M. et al (2006), “Detecting exon
deletions and duplications of the DMD gene using Multiplex
Ligation-dependent Probe Amplification (MLPA)”, Clin
Biochem, 39, pp. 367 – 372.
6. Patterson V., Morrison O., Hicks E. (1991), “Mode of death in
Duchenne muscular dystrophy”, Lancet, 337, pp. 801 – 802.
7. Prior T.W. and Bridgeman S.J. (2005), “Experience and
Strategy for the Molecular Testing of Duchenne Muscular
Dystrophy”, Journal of Molecular Diagnostics, 7(3), pp. 317 –
326.
8. Schwartz M. and Duo M. (2004), “Multiplex ligation-
dependent probe amplification is superior for detecting
deletions/duplications in Duchenne muscular dystrophy”,
Clin Genet., 67, pp. 189 – 191.
9. Tạ Thành Văn (2011), “Bệnh loạn dưỡng cơ Duchene và
Becker”, Bệnh học phân tử, Nhà xuất bản Y học, tr. 152 – 169.