NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
214
NHÂN TRƯỜNG HỢP MỘT GIA ĐÌNH MANG CÙNG LOẠI ĐỘT BIẾN 
MẤT ĐOẠN CỦA BỆNH LOẠN DƯỠNG CƠ DUCHENNE 
Đỗ Thị Thanh Thủy*, Trần Thụy Vân Ngọc ** 
TÓMTẮT 
Mục tiêu: Trình bày một gia đình với một trẻ nam 4 tuổi bị bệnh DMD và 6 thành viên nữ thuộc 3 thế hệ 
mang cùng một loại đột biến mất đoạn của gen dystrophin. 
Phương pháp: Nghiên cứu phân tích gen Dystrophin của một trường hợp bệnh DMD và các thành viên nữ 
trong gia đình của bệnh nhân này bằng phương pháp MLPA. 
Kết quả: Bệnh nhân nam 4 tuổi bị bệnh DMD, được phát hiện có đột biến mất đoạn gen dystrophin tại exon 
8 và 9. Đồng thời 6 thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân, gồm: bà ngoại, mẹ bệnh nhân, 3 dì và 1 bé gái con dì 
cũng đều mang đột biến mất đoạn gen dystrophin tại các exon 8 và 9 tương tự như bệnh nhân 
Kết luận: Đây là một trường hợp hiếm gặp và kỹ thuật MLPA đã cho thấy những ưu điểm trong phát hiện 
đột biến mất đoạn trong gen dystrophin và phát hiện người nữ mang gen bệnh, giúp cho công tác tư vấn di 
truyền và là cơ sở cho chẩn đoán trước sinh ở thai phụ, nhằm giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội, góp phần 
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 
Từ khóa: Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (DMD), Kỹ thuật khuếch đại đa đoạn dò (MLPA), đoạn dò. 
ABSTRACT 
PRESENTING A FAMILY CARRYING THE SAME DELETION MUTATIONS OF THE DYSTROPHIN 
GENE 
Đo Thi Thanh Thuy, Tran Thuy Van Ngoc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - No 4 - 2013: 213 - 217 
Background:Aim: Presenting a family with a 4-year-old male with DMD and 6 female members of 3 
generations carrying the same deletion mutations of the dystrophin gene 
Method: Analyze the dystrophin gene of the boy with DMD and the females in the family by MLPA 
method. 
Result: the 4 years old boy with DMD has deletion mutations in exon 8 and 9 of dystrophin gene and 6 
other female members in the patient’s family, including his grandmother, his mother, 3 aunts and 1 aunt’s girl 
also carry the same kinds of deletion mutation in the dystrophin gene as patient’s. 
Conclusion: This is rare case. MLPA technique has shown the advantages of detecting deletion mutations 
in the dystrophin gene and discovered the female dystrophin mutation carriers, supporting the work of genetic 
counseling and helping prenatal diagnostic for patient’s pregnancies, reducing the burden of families and society 
and contributing to improving the quality of life for people. 
Key words: Duchene Muscular Dystrophy (DMD), MLPA (Multiplex Ligation-dependent Probe 
Amplification), probe. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne (Duchenne 
Muscular Dystrophy – DMD) là bệnh lý thần 
kinh cơ thường gặp với tần suất mắc bệnh 
khoảng 1/3500 trẻ trai sinh sống(4). Bệnh đặc 
trưng bởi tình trạng yếu cơ tiến triển tuần tiến. 
Trẻ mắc bệnh thường xuất hiện triệu chứng 
lâm sàng lúc 1 đến 3 tuổi, teo cơ là dấu hiệu 
thường gặp và giả phì đại cơ cẳng chân cũng 
khá phổ biến, phần lớn trẻ mất khả năng đi lại 
* Đại học Y Dược TP. HCM ** Bệnh viện Đa khoa Bình Dương, Bình Dương 
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Thị Thanh Thủy ĐT: 0908487425 Email: 
[email protected] 
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
215
ở tuổi 12 và tử vong trước 25 tuổi vì suy hô 
hấp và tổn thương cơ tim(1,6). Đây là bệnh di 
truyền lặn liên kết với NST giới tính X. Trên lý 
thuyết thì người mẹ mang gen bệnh kết hôn 
với người chồng khỏe mạnh sẽ có khả năng 
truyền gen bệnh cho 50% số con trai và 50% số 
con gái của họ(1,2). Do đặc điểm di truyền nên 
bệnh chỉ gặp ở trẻ trai mà rất hiếm gặp ở trẻ 
gái. Trẻ trai chỉ cần nhận một gene bệnh từ mẹ 
là thể hiện bệnh, còn trẻ gái thì phải nhận cả 2 
gen bệnh từ bố và mẹ mới thể hiện bệnh, tuy 
vậy trẻ trai bị bệnh thường chết trước tuổi lập 
gia đình nên khả năng kết hôn và sinh con rất 
hiếm gặp. Như vậy nhìn chung là người nam 
mang gen đột biến thì biểu hiện bệnh, còn 
người nữ mang gen đột biến chỉ là người 
mang mầm bệnh. Vì thế, việc phân tích gen 
xác định đột biến sẽ giúp chẩn đoán bệnh sớm 
để có hướng điều trị sớm và tích cực nhằm 
giảm các biến chứng cho bệnh nhân, ngoài ra 
còn giúp phát hiện các thành viên nữ mang 
gen bệnh (bà ngoại, mẹ, chị em gái, dì) trong 
gia đình bệnh nhân, phân tích sơ đồ phả hệ, 
giúp ích cho công tác tư vấn di truyền và chẩn 
đoán trước sinh, nhằm giảm gánh nặng cho 
gia đình và xã hội. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân và các thành viên nữ trong gia 
đình bệnh nhân. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
Địa điểm phân tích và lưu trữ mẫu 
Trung tâm Y sinh học phân tử - Đại học Y 
Dược TP HCM. 
Cách lấy mẫu 
Lấy 2 ml máu tĩnh mạch chống đông bằng 
EDTA. Mẫu được bảo quản ở 40C trước khi tách 
DNA và bảo quản ở -200C sau khi tách DNA. 
Phương pháp nghiên cứu 
Máu toàn phần được ly trích DNA từ bạch 
cầu bằng phương pháp kết tủa và ly tâm qua cột 
với hóa chất QIAamp DNA blood Mini kit 
(QIAGEN - Đức). Đo nồng độ và độ tinh sạch 
DNA ở bước sóng 260/280nm (máy của hãng 
Eppendorf), chỉ chấp nhận các mẫu có tỉ số mật 
độ quang trong khoảng 1,8 – 2,0. Tiến hành phản 
ứng MLPA với 4 giai đoạn gồm: biến tính DNA, 
lai hóa, nối 2 đoạn dò gắn tín hiệu huỳnh quang 
và khuếch đại các đoạn dò này. Sau đó phân 
tách sản phẩm sau khuếch đại trên hệ thống 
điện di mao quản GenomeLab GeXP và phân 
tích kết quả phát hiện đột biến nhờ phần mềm 
GeneMarker bản 1.6 (Softgenetics). Kết quả được 
hiển thị dưới dạng bảng và dạng biểu đồ sóng. 
Mỗi đỉnh tín hiệu (peak) là sản phẩm của một 
đoạn dò. Kích thước của mỗi đỉnh tín hiệu được 
xác định nhờ so sánh với thang kích thước chuẩn 
và mẫu đối chứng để tính ra tỉ lệ DQ (Dosage 
quotients). Chiều cao của đỉnh tín hiệu thay đổi 
cho thấy sự thay đổi số bản sao của đoạn DNA 
có trình tự bổ sung với đoạn dò(7). 
KẾT QUẢ 
Bệnh nhân nam 4 tuổi, với triệu chứng lâm 
sàng phì đại cẳng chân 2 bên và hơi khó khăn 
khi đi lên xuống cầu thang, nồng độ creatin 
kinase trong huyết thanh là 33.480 U/L. Chẩn 
đoán lâm sàng là bị bệnh loạn dưỡng cơ 
Duchenne. 
Bệnh nhân này được xét nghiệm phân tích 
gen bằng kỹ thuật MLPA tại Trung tâm Y sinh 
học phân tử - Đại học Y Dược TP Hồ Chí 
Minh, với kết quả là bị đột biến mất đoạn gen 
dystrophin tại exon 8 và 9. Kết quả từ hình 1 
cho thấy, không xuất hiện đỉnh tín hiệu của 
các đoạn dò tương ứng với exon 8 và 9 (DQ = 
0), chứng tỏ bệnh nhân này bị mất đoạn gen 
đồng exon 8 và 9(8). 
Chúng tôi đã tiến hành phân tích gen của các 
thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân, bao 
gồm: bà ngoại, mẹ bệnh nhân, 3 dì và 1 em gái 
con dì. Kết quả trình bày trong hình 2. 
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy, đỉnh tín hiệu của 
các đoạn dò (probe) tương ứng với exon 8 và 9 
của các thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân 
(bà ngoại, mẹ, dì 1, dì 2, dì 3 và con gái của dì 3) 
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
216
bằng khoảng ½ so với mẫu đối chứng nữ (DQ 
tương ứng trong khoảng 0,441 đến 0,598), chứng 
tỏ các thành viên nữ bị mất đoạn dị hợp tử ở 
exon 8 và 9. 
Theo Hwa H.L. (2007), khi đỉnh tín hiệu của 
exon bị đột biến ở người nữ bằng ½ so với 
chứng nữ thì người nữ xem như bị đột biến mất 
đoạn dị hợp tử(3). 
Hình 1. Đột biến mất đoạn exon 8 và 9 của bệnh nhân 
 Bà ngoại Người mẹ 
Dì thứ 1 Dì thứ2 
Dì thứ 3 Con dì thứ 3 
Hình 2. Đột biến mất đoạn exon 8 và 9 của các thành viên khác 
8 9
Mẫu của 
bệnh nhân 
Mẫu 
chứng 
YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013 NghiêncứuYhọc
217
Bảng 1: Tín hiệu đoạn dò trong đột biến mất đoạn của các thành viên nữ trong gia đình bệnh nhân 
STT Probe 
Name 
Bin Size Bà ngoại Mẹ Dì thứ 1 Dì thứ 2 Dì thứ 3 Con Dì thứ 3 
Theo Lai K.K. và cộng sự (2006), khi chiều 
cao đỉnh tín hiệu của người mẹ giảm từ 35 – 
50% so với mẫu chứng nữ thì người mẹ này bị 
đột biến mất đoạn exon tương ứng với đỉnh tín 
hiệu đó(5). 
Khi phân tích phả hệ của gia đình, chúng tôi 
ghi nhận bệnh nhân này có 1 người cậu mắc 
bệnh DMD đã chết lúc 26 tuổi (được chẩn đoán 
tại Bệnh viện Trung ương Huế) và 1 người cậu 
18 tuổi đang mắc bệnh DMD hiện không đi lại 
được (cũng được chẩn đoán tại Bệnh viện Trung 
ương Huế), vì hiện tại bệnh nhân này cũng 
không đi lại được nên chúng tôi không lấy được 
mẫu để làm xét nghiệm di truyền. Điều này 
chứng tỏ đã có yếu tố di truyền trong gia đình 
này (thể hiện qua sơ đồ 1). 
Như vậy, bà ngoại và mẹ của bệnh nhân là 
dị hợp tử bắt buộc và gen bệnh của con trai họ là 
do di truyền từ người mẹ, điều này hoàn toàn 
phù hợp khi phân tích gen của bà ngoại và mẹ 
bệnh nhân. 
Trong gia đình này còn có 1 thành viên nữ 
nhỏ tuổi nhất (9 tháng tuổi lúc tiến hành nghiên 
cứu, con của dì thứ 3) được phát hiện có mang 
NghiêncứuYhọc YHọcTP.HồChíMinh*Tập17*Số4*2013
218
gen đột biến mất đoạn trên gen dystrophin và 
mẹ của bé là dì thứ 3 của bệnh nhân trên cũng bị 
đột biến tương tự, như thế, bé gái này đã mang 
exon đột biến do thừa hưởng từ người mẹ. 
Ngoài ra, khi phân tích gen của 2 người dì còn 
lại cũng phát hiện đột biến mất đoạn trên exon 8 
và 9 tương tự của bệnh nhân và các thành viên 
nữ khác trong gia đình. 
Sơ đồ 1: Nam bình thường Nam đồng hợp tử Nam đồng hợp tử đã chết 
 Nữ bình thường ●Nữ dị hợp tử 
Như vậy, trong gia đình bệnh nhân này thì 
tất cả 6 thành viên nữ đều là người mang gen 
bệnh, riêng đối với bà ngoại thì 100% các con 
hiện có của bà đều mang gen bệnh do bà truyền 
cho (gồm 2 trai và 4 gái). 
Bệnh DMD là bệnh di truyền lặn liên kết 
NST giới tính X mà không có allen tương ứng 
trên NST Y, trên lý thuyết thì người mẹ mang 
gen bệnh kết hôn với người chồng khỏe mạnh sẽ 
có khả năng truyền gen bệnh cho 50% số con trai 
và 50% số con gái của họ(1,9). Tuy nhiên, ở gia 
đình này thì 100% số con trai của bà ngoại bị 
bệnh và 100% số con gái của bà cũng mang gen 
dị hợp tử. Điều này cho thấy khả năng lan 
truyền gen bệnh của người mẹ mang gen dị hợp 
tử là khá cao và khá nhanh trong cộng đồng. Gia 
đình này rất cần được tư vấn di truyền một cách 
kỹ lưỡng và chi tiết, nhất là tư vấn về công tác 
chẩn đoán trước sinh khi các dì lập gia đình và 
có ý định sinh con (vì các dì còn trong lứa tuổi 
sinh sản) để tránh sinh ra những đứa trẻ tiếp tục 
bị bệnh hoặc mang gen bệnh, nhằm làm giảm 
gánh nặng cho gia đình và xã hội. 
KẾT LUẬN 
Đây là một trường hợp hiếm gặp và kỹ thuật 
MLPA đã cho thấy những ưu điểm trong phát 
hiện đột biến mất đoạn, lặp đoạn gen dystrophin 
và phát hiện người nữ mang gen bệnh, giúp cho 
công tác tư vấn di truyền và là cơ sở cho chẩn 
đoán trước sinh ở thai phụ, nhằm giảm gánh 
nặng cho gia đình và xã hội, góp phần nâng cao 
chất lượng cuộc sống cho người dân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Emery AEH (2002), “The muscular dystrophies”, Lancet, 359, 
pp. 687 – 695. 
2. Harvey B.S. (1996), “Neuromuscular Disorders”, Nelson 
textbook of pediatrics, 15th edition, Vol 2, pp. 1746 – 1748. 
3. Hwa HL, Chang YY, Chen CH et al. (2007), “Multiplex 
Ligation-dependent Probe Amplification identification of 
deletions and duplications of the Duchenne muscular 
dystrophy gene in Taiwanese subjects”, J Formos Med Assoc, 
106, pp. 339 – 346. 
4. Kneppers ALJ, Ginjaar IB, Bakker E (2004), “Duchenne and 
Becker muscular dystrophy”, Molecular diagnosis of genetic 
diseases, Humana Press, New Jersey,2nd edition, pp. 311 – 342. 
5. Lai KK., Lo I.F., Tong T.M. et al (2006), “Detecting exon 
deletions and duplications of the DMD gene using Multiplex 
Ligation-dependent Probe Amplification (MLPA)”, Clin 
Biochem, 39, pp. 367 – 372. 
6. Patterson V., Morrison O., Hicks E. (1991), “Mode of death in 
Duchenne muscular dystrophy”, Lancet, 337, pp. 801 – 802. 
7. Prior T.W. and Bridgeman S.J. (2005), “Experience and 
Strategy for the Molecular Testing of Duchenne Muscular 
Dystrophy”, Journal of Molecular Diagnostics, 7(3), pp. 317 – 
326. 
8. Schwartz M. and Duo M. (2004), “Multiplex ligation-
dependent probe amplification is superior for detecting 
deletions/duplications in Duchenne muscular dystrophy”, 
Clin Genet., 67, pp. 189 – 191. 
9. Tạ Thành Văn (2011), “Bệnh loạn dưỡng cơ Duchene và 
Becker”, Bệnh học phân tử, Nhà xuất bản Y học, tr. 152 – 169.