Đặt vấn đề: Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng về nhiễm trùng tiểu ở những bệnh nhân nằm viện tại
các khoa lâm sàng về khía cạnh vi khuẩn học và sự đề kháng kháng sinh với các kháng sinh đang dùng trong điều
trị hiện nay tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu số liệu trên các bệnh án có chẩn đoán ra viện liên quan đến nhiễm
trùng tiểu trong thời gian từ 2007‐2011 và kết quả lưu trữ trên máy tính tại khoa vi sinh học bệnh viện Chợ Rẫy
trong thời gian 5 năm từ 2007‐2011.
Kết quả: Khảo sát 16.106 mẫu nước tiểu trong thời gian 5 năm từ 2007‐2011 cho thấy tỉ lệ cấy nước tiểu
dương tính trung bình là 20,05% (3229/16106). Các vi khuẩn thường gặp trong nhiễm trùng tiểu tại bệnh viện
Chợ Rẫy chiếm tỉ lệ cao là E. coli, Enterococcus sp., Klebsiella sp, Pseudomonas aeruginosa và Acinetobacter
baumanii. Mức độ đề kháng kháng sinh của các tác nhân gây nhiễm trùng tiểu ngày càng gia tăng với các kháng
sinh đang sử dụng.
Kết luận: Việc sử dụng kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng tiểu cần thận trọng và theo hướng dẫn điều
trị để tránh tình trạng làm tăng mức độ đề kháng kháng sinh và duy trì tuổi thọ của các kháng sinh hiện có trong
khi chờ đợi các kháng sinh mới thay thế.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiễm trùng tiểu: Vi sinh học và tình hình đề kháng kháng sinh tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 2007-2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 122
NHIỄM TRÙNG TIỂU: VI SINH HỌC VÀ TÌNH HÌNH ĐỀ KHÁNG
KHÁNG SINH TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ 2007 ‐ 2011
Trần Quang Bính*, Trần Thị Thanh Nga**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng về nhiễm trùng tiểu ở những bệnh nhân nằm viện tại
các khoa lâm sàng về khía cạnh vi khuẩn học và sự đề kháng kháng sinh với các kháng sinh đang dùng trong điều
trị hiện nay tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu số liệu trên các bệnh án có chẩn đoán ra viện liên quan đến nhiễm
trùng tiểu trong thời gian từ 2007‐2011 và kết quả lưu trữ trên máy tính tại khoa vi sinh học bệnh viện Chợ Rẫy
trong thời gian 5 năm từ 2007‐2011.
Kết quả: Khảo sát 16.106 mẫu nước tiểu trong thời gian 5 năm từ 2007‐2011 cho thấy tỉ lệ cấy nước tiểu
dương tính trung bình là 20,05% (3229/16106). Các vi khuẩn thường gặp trong nhiễm trùng tiểu tại bệnh viện
Chợ Rẫy chiếm tỉ lệ cao là E. coli, Enterococcus sp., Klebsiella sp, Pseudomonas aeruginosa và Acinetobacter
baumanii. Mức độ đề kháng kháng sinh của các tác nhân gây nhiễm trùng tiểu ngày càng gia tăng với các kháng
sinh đang sử dụng.
Kết luận: Việc sử dụng kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng tiểu cần thận trọng và theo hướng dẫn điều
trị để tránh tình trạng làm tăng mức độ đề kháng kháng sinh và duy trì tuổi thọ của các kháng sinh hiện có trong
khi chờ đợi các kháng sinh mới thay thế.
Từ khóa: Nhiễm trùng tiểu, đề kháng kháng sinh.
ABSTRACT
URINARY TRACT INFECTION: MICROBIOLOGY AND ANTIMICROBIAL RESISTANCE
AT CHORAY HOSPITAL FROM 2007 TO 2011
Tran Quang Binh, Tran Thi Thanh Nga
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 122 ‐127
Background: A study was carried out in order to evaluate the situation of UTI of clinical wards in
microbiological aspect as well as the resistance to available antimicrobials which current used at Cho ray hospital.
Methods: Retrospective study design, the data of urinary tract infection (UTI) were collected from the
hospital discharged documentations relating with the diagnosis of urinary tract infection and the microbiological
data at the microbiology department from 2007 to 2011.
Results: The results of 16,106 urine samples showed that the average of positive urine culture rate was
20.05% (3,229/16,106). E. coli, Enterococcus sp., Klebsiella sp, Pseudomonas aeruginosa and Acinetobacter
baumanii are uropathogens were commonly seen at Cho ray hospital. The resistance to available antimicrobials of
these uropathogens increased day by day.
Conclusion: The antimicrobials in the treatment of UTI should be used prudently and followed the
treatment guideline to avoid the increasing the level of antimicrobial resistance and preserve the life of available
antimicrobials while waiting for the replacing of the new ones.
Key words: Urinary tract infection (UTI), Antimicrobial resistance.
* Khoa Khoa Bệnh Nhiệt Đới – BV Chợ Rẫy ** Khoa Vi sinh – BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Quang Bính ĐT: 0903841479 Email: binhtq@hcm.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 123
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng tiểu (NTT) là một bệnh lý
thường gặp ở bệnh viện cũng như trong cộng
đồng, NTT được định nghĩa là nước tiểu có vi
khuẩn (bacteriuria) với sự hiện diện của các triệu
chứng lâm sàng. NTT xảy ra cả trên những bệnh
nhân có cấu trúc giải phẫu bình thường (NTT
không biến chứng) và ở những bệnh nhân có
cấu trúc và chức năng bất thường của đường tiết
niệu (NTT có biến chứng). Về thuật ngữ còn có
thể phân loại NTT trở lại (recurrent urinary tract
infection), NTT tái phát (relapse urinary tract
infection), NTT tái nhiễm (reinfection urinary
tract infection) hoặc phân chia theo tuổi, giới. Có
nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến NTT: nghẽn
tắc đường tiểu, trào ngược bàng quang niệu
quản, đặt sonde tiểu lưu hoặc có tiến hành
những thủ thuật ở đường tiểu, có thai, tiểu
đường, Bệnh Lupus đỏ hệ thống, nghiện rượu,
điều trị corticosteroid, sỏi niệu, bệnh lý thần
kinh có tổn thương bàng quang(2,4). Về xuất độ
của nhiễm trùng tiểu thay đổi tùy theo tuổi và
giới tính. Trong môi trường bệnh viện nhiễm
trùng tiểu gặp trên bệnh nhân nội và ngoại
khoa, kể cả bệnh nhân nội trú và ngoại trú,
những bệnh nhân nằm viện dài ngày, đặc biệt là
những bệnh nhân được đặt sonde tiểu lưu rất dễ
bị nhiễm trùng. Chúng tôi trong nghiên cứu này
với mục đích đánh giá thực trạng về nhiễm
trùng tiểu ở những bệnh nhân nằm viện tại các
khoa lâm sàng về khía cạnh vi khuẩn học và sự
đề kháng kháng sinh với các kháng sinh đang
dùng trong điều trị hiện nay để nhằm xây dựng
một phác đồ điều trị thích hợp cho nhiễm trùng
tiểu tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tỉ lệ mẫu cấy nước tiểu dương tính
của các khoa lâm sàng tại Bệnh viện Chợ Rẫy
với chẩn đoán nhiễm trùng tiểu và tỉ lệ của các
loại vi khuẩn là tác nhân gây bệnh, đồng thời
đánh giá mức độ đề kháng kháng sinh của các vi
khuẩn này theo từng năm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp hồi cứu (retrospective study):
thu thập số liệu của các mẫu nước tiểu của 26
khoa lâm sàng và phòng khám từ năm 2007 ‐
2011 gửi đến khoa vi sinh có kết quả cấy dương
tính và được làm kháng sinh đồ kết hợp với các
dữ liệu có được từ lâm sàng. Thời gian thực hiện
12/2011 – 6/2012 tại khoa Bệnh nhiệt đới bệnh
viện Chợ Rẫy. Số liệu thu thập được trình bày
dưới dạng các bảng biểu và tỉ lệ phần trăm.
KẾT QUẢ
Trong thời gian 5 năm từ 2007‐2011 có tất cả
16106 mẫu nước tiểu được gửi đến khoa Vi sinh,
kết quả cấy dương tính 3229 mẫu với tỉ lệ trung
bình 20,05% (17‐21%). Về kết quả cấy theo từng
khoa lâm sàng như sau: khoa thận cấy (+) 13,2%,
khoa niệu cấy (+) 17,7%, khoa nội tiết cấy (+)
10,1%, khoa bệnh nhiệt đới cấy (+) 7,4%, khoa
thần kinh cấy (+) 5,8%, khoa tim mạch cấy (+)
5,3%, khoa ICU cấy (+) 5,1%, phòng khám cấy
(+) 11,1%, các khoa lâm sàng còn lại gồm 19 khoa
cấy (+) 24,3%. Kết quả khảo sát về các tác nhân
gây bệnh chính và mức độ đề kháng với các
kháng sinh đang dùng như sau:
Bảng 1: Các tác nhân gây bệnh chủ yếu trong nhiễm trùng tiểu từ 2007‐ 2011
Năm số ca (%)
Tác nhân
2007
(457) (%)
2008
(633) (%)
2009
(602) (%)
2010
(732) (%)
2011
(805) (%)
E. coli 212 (46,3) 233(36,8) 265(44) 363(49,6) 359 (44,6)
Enterococcus sp. 57(12,4) 117(18,4) 110(18,2) 97(13,2) 113(14,03)
Klebsiella sp. 66 (14,4) 85 (13,4) 66 (10,9) 83 (11,3) 54 (6,7)
Pseudomonas aeruginosa 32 (7) 51 (8) 55 (9,1) 62 (8,4) 66 (8,2)
Acinetobacter baumanii 27 (5,9) 37 (5,8) 31 (5,1) 40 (5,5) 37 (4,6)
Các vi khuẩn khác: Providencia, S. saprophyticus, S. epidermidis, S. coagulase negative, S. aureus, Stenotrophomonas
maltophilia, nấm Candida sp. < 5%:
Bảng 2: Đề kháng kháng sinh của E. coli trong các năm 2008 ‐ 2011
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 124
kháng sinh 2008 (%) 2010 (%) 2011(%)
Gentamycine 58,4 55 58,8
Amikacine 6 5,8
Ciprofloxacine 71,8 79 80,7
Levofloxacine 70,2 79 67,9
Ceftazidime 48,3 60 48,6
Ceftriaxone 67,3 62 62,4
Cefepim 59 58 66,5
Cefoperazone/sulb 23,9 54 30,8
Ticarcilline/clav 11,4 19 36,5
Netilmycine 12,2 10 8,8
Piperacilline/tazo 8,3 8 10,9
Nitrofurantoine 4,1 1,7
Ertapenem 0,6 3 3,6
Imipenem 0 1 0,6
Meropenem 1,7 1 1,1
Colistine 0 1 0
Co-trimoxazole 69,5
Bảng 3: Đề kháng kháng sinh của Klebsiella sp.
trong các năm 2008 ‐ 2011
kháng sinh 2007 (%) 2008
(%)
2010 (%) 2011 (%)
Gentamycine 60,75 60 59
Amikacine 27 47,6
Ciprofloxacine 48,5 49,1 76 84,6
Levofloxacine 49,6 41,9 48
Ceftazidime 57,5 54,2 54 54,7
Ceftriaxone 59,8 59,6 57 61,1
Cefepim 34,5 29,7 43 44,2
Cefoperazone/sulb 29,5 14,9 30 37,7
Ticarcilline/clav 2,15 8,20 42 49
Netilmycine 33,5 34,3 38 44,4
Piperacilline/tazo 40,1 35 28 46,3
Ertapenem 0,6 1,60 10 22,2
Imipenem 0 0,2 3 0
Meropenem 5 0
Colistine 0 0 0 0
E. coli đề kháng cao với Quinolone và các
cephalosporin thế hệ 3, 4. Vi khuẩn này còn
nhạy cảm tốt với nhóm Carbapenem,
nitrofurantoine, Piperacilline/Tazobactam,
amikacine, netilmycine. Klebsiella sp. đề kháng
cao với tất cả các loại kháng sinh đang dùng, chỉ
còn nhạy cảm với nhóm Carbapenem.
Bảng 4: Đề kháng kháng sinh của Enterococcus sp.
trong các năm 2007, 2008, 2010 và 2011
Kháng sinh 2007 (%) 2008 (%) 2010 (%) 2011 (%)
Gentamycine 36 24 72
Kháng sinh 2007 (%) 2008 (%) 2010 (%) 2011 (%)
Amikacine 32,5 27
Vancomycine 0,5 0 1 4,4
Doxycycline 38,5 42 36 45,5
Levofloxacine 47 45 82 79,6
Azithromycine 86,5 87 95 99,1
Teicoplanin 0,5 0 1,3
Fosfomycine 34 36,6
Nitrofurantoine 49 37,1
Penicilline 79 93,8
Enterococcus sp. đề kháng cao với tất cả các
loại kháng sinh đang dùng, chỉ còn nhạy cảm
duy nhất với Vancomycine và Teicoplanin.
Bảng 5: Đề kháng kháng sinh của Pseudomonas
aeruginosa trong các năm 2007, 2008, 2010 và 2011
Kháng sinh 2007 (%) 2008 (%) 2010 (%)2011 (%)
Gentamycine 69,23 60,98 75,8 78,2
Amikacine 60 50
Ciprofloxacine 42,01 51,61 74,2 73
Ceftazidime 61,96 53,61 72,6 68,2
Cefepim 59,6 43,7 69,4 67,2
Cefo/sulbactam 48,96 61,9 20 50
Ticar/clavu acid 13,4 16,16 62,9 68,8
Netilmycine 53 42,07 67,7 60,3
Piper/tazobactam 46,79 40,23 28
Imipenem 22,37 27,75 30,6 13,6
Meropenem 46,8 18,2
Colistine 0,68 0,21 6,5 0
Fosfomycine 67,6
Bảng 6: Đề kháng kháng sinh của Acinetobacter
baumanii trong các năm 2007, 2008, 2010 và 2011
Kháng sinh 2007 (%) 2008
(%)
2010 (%) 2011 (%)
Gentamycine 82,48 86,89 65 63,9
Amikacine 65 63,6
Ciprofloxacine 77,17 87,91 82 100
Ceftazidime 84,3 88,6 82 67,6
Ceftriaxone 85,24 89,58 90
Cefepim 70,63 89,26 82 72,7
Cefo/sulbactam 48,11 70,54 36
Ticar/clavu acid 52,34 65,76 65 48,6
Netilmycine 57,74 67,31 60 41,7
Piper/tazobactam 80,73 79,06 80
Doxycycline 40 25
Imipenem 45,32 59,47 45 48,6
Meropenem 47 51,4
Colistin 0,94 0,23 1 0
Pseudomonas aeruginosa đề kháng cao với tất
cả các loại kháng sinh đang dùng chỉ còn nhạy
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 125
cảm với Colistine và tương đối với imipenem và
meropenem ở thời điểm năm 2011. Acinetobacter
baumanii đề kháng cao với tất cả các loại kháng
sinh đang dùng, chỉ còn nhạy cảm duy nhất với
Colistin.
Bảng 7: Đề kháng kháng sinh của Staphylococcus
aureus và Coagulase negative Staphylococcus trong
các năm 2007, 2008
VK Kháng sinh 2007 (%) 2008 (%)
St
ap
hy
lo
co
cc
us
a
ur
eu
s
Gentamycine 68,05 65,4
Cefoxitine 66,45 62,2
CM 41,31 39,79
Rifampicine 1,45 1,2
Oxacilline 64,3 61,5
Vancomycine 0,05 0
Erythromycine 80,85 79,4
Azithromycine 80,7 79,4%
Teicoplanin 1 0,1
Ciprofloxacine 67,4 65,1
Co-trimoxazole 38,7 33,9
C
N
S
ta
ph
yl
oc
oc
cu
s
Gentamycine 47,87 49,61
Cefoxitine 73,13 74,92
CM 41,31 39,79
Rifampicine 15,08 8,75
Oxacilline 77,53 74,21
Vancomycine 0,12 0,26
Erythromycine 75,37 75,92
Azithromycine 75,32 75,92
Teicoplanin 3,46 0,79
Ciprofloxacine 40,01 52,23
Co-trimoxazole 50,1 52,49
Staphylococcus aureus và Staphylococcus
coagulase negative đề kháng cao với tất cả các
loại kháng sinh đang dùng, chỉ còn nhạy cảm
với Vancomycine, teicoplanin.
BÀN LUẬN
Hiện nay ở nước ta chưa có số liệu điều tra
dịch tễ học cũng như một nghiên cứu lớn để có
một số liệu chính xác về nhiễm trùng tiểu có
biến chứng. Kết quả của nghiên cứu hồi cứu tại
Bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy tỉ lệ cấy dương tính
của nước tiểu khoảng 20% trong số bệnh nhân
nhập viện với chẩn đoán là nhiễm trùng tiểu.
Kết quả của nghiên cứu từ năm 2007 ‐ 2011 với
kết quả cấy nước tiểu dương tính cho thấy các
tác nhân gây bệnh thường gặp nhất là:
Escherichia coli, Enterococcus sp. (E. faecalis và E.
faecium), Klebsiella sp., Pseudomonas aeruginosa và
Acinetobacter theo thứ tự. Citrobacter, Proteus
mirabilis và những tác nhân còn lại như
Staphylococcus saprophyticus, Staphylococcus
coagulase negative, Staphylococcus. aureus,
Stenotrophomonas maltophilia, Candida sp.... chiếm
tỉ lệ thấp khoảng 1% cho mỗi loại vi khuẩn. Các
khoa có tỉ lệ cấy nước tiểu dương tính cao > 10%
gồm có khoa thận, khoa tiết niệu, khoa nội tiết,
phản ánh tính chất đặc thù của bệnh lý tại các
khoa này. Các khoa lâm sàng còn lại có tỉ lệ cấy
dương tính thấp hơn (<5%).
Tình hình đề kháng kháng sinh của các vi
khuẩn Gram âm, đặc biệt là các vi khuẩn Gram
âm tiết men beta lactamase phổ rộng (ESBL) như
E. coli hoặc Klebsiella hoặc các vi khuẩn không
lên men kháng với các kháng sinh đang dùng
hiện nay làm kho dự trữ kháng sinh để điều trị
ngày càng giảm trong nhiễm trùng nói chung và
nhiễm trùng niệu nói riêng. Theo kết quả một số
nghiên cứu trong nước, và kết quả theo dõi giám
sát vi khuẩn trong nhiều năm qua của khoa vi
sinh bệnh viện Chợ Rẫy, tỉ lệ các vi khuẩn Gram
âm tiết ESBL khá cao từ 40‐60%, tỉ lệ này cũng
phù hợp với nghiên cứu SMART tại vùng châu
Á Thái Bình Dương.
Về tác nhân gây bệnh trong nhiễm trùng tiểu
chủ yếu là vi khuẩn Gram âm(2;4), trong nghiên
cứu của chúng tôi E. coli đứng hàng đầu chiếm tỉ
lệ > 40%, tỉ lệ này cũng phù hợp với báo cáo của
Hsueh PR. tại Hội nghị về nhiễm trùng tiểu có
biến chứng của Vùng Châu Á Thái Bình Dương
tổ chức tại thái Lan năm 2011(3) trong đó ghi
nhận E. coli chiếm tỉ lệ cao ở các nước Việt Nam,
Trung Quốc và Ấn Độ, một đặc điểm quan trọng
đối với E. coli trong nhiễm trùng tiểu là có sự đề
kháng cao với Fluoroquinolone. Trong nghiên
cứu của chúng tôi tỉ lệ đề kháng với
Ciprofloxacine tăng từ 71% (năm 2008) lên đến
81% (năm 2011).
Với các vi khuẩn khác thuộc nhóm
Enterobacteriaceae như Klebsiella cũng đề kháng
cao với các thuốc kháng sinh hiện có, chỉ có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 126
colistine và các kháng sinh thuộc nhóm
Carbapenem còn nhạy cảm cao với các vi khuẩn
thuộc nhóm này.
Báo cáo tại Hội nghị nhiễm trùng niệu vùng
Châu Á Thái bình Dương cũng cho thấy với các
vi khuẩn không lên men như Pseudomonas
aeruginosa và Acinetobacter baumanii không có
thuốc nào thuộc nhóm Carbapenem như
Imipenem, Meropenem có hiệu lực trên 80% và
trên 31% với Acinetobacter baumanii. (3) Trong
nghiên cứu của chúng tôi số liệu năm 2010 cho
thấy với Pseudomonas aeruginosa nhóm
Carbapenem chỉ còn hiệu lực từ 50% đến <70%,
tương đối giảm kháng vào năm 2011. Để giải
thích hiện tượng giảm kháng tương đối của
Pseudomonas aeruginosa, cần phải phân định các
chủng này bằng xác định gen. Với Acinetobacter
baumanii chỉ còn hiệu lực kháng sinh < 50%. Như
vậy đa kháng thuốc (multidrug resistance) trong
nhiễm trùng tiểu đang là một vấn đề giống như
các nhiễm trùng khác cho khu vực châu Á(3;6;1).
Tỉ lệ nhiễm trùng tiểu do nhóm cầu khuẩn
Gram dương có tỉ lệ thấp và thường liên quan
đến vấn đề thủ thuật, thường gặp là do
Enterococcus sp và Staphylococcus aureus cũng
như Coagulase negative Staphylococcus, tuy
nhiên hiện nay nhiễm trùng với nhóm vi khuẩn
Gram dương này cũng trở nên quan trọng trước
hết là vì vi khuẩn chỉ nhạy chủ yếu với
Vancomycine và Teicoplanin, thứ hai có khả
năng chuyển di vật liệu di truyền kháng
Vancomycine từ Enterococcus cho Staphylococcus
làm cho nguy cơ xuất hiện nhóm VRSA càng
ngày càng cao, vì vậy chỉ định thuốc kháng sinh
cho nhóm này cần thận trọng và chỉ nên dùng
trong thời gian ngắn như các phác đồ đã đề ra.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ cấy dương tính của tổng số mẫu nước
tiểu gửi đến khoa vi sinh khoảng 20% liên tục
trong 5 năm từ 2007‐2011. Các tác nhân gây
bệnh được xác định là E. coli, Enterococcus sp.,
Klebsiella, Pseudomonas aeruginosa, và
Acinetobacter baumanii; thứ tự của các vi khuẩn
này có thể thay đổi theo từng năm nhưng đứng
đầu trong nhiễm trùng tiểu vẫn là E. coli chiếm
khoảng
> 45%, các vi khuẩn khác ít gặp hơn chiếm tỉ lệ
thấp hơn khoảng 1%. Các vi khuẩn đường ruột
họ Enterobacteriacea (E. coli, Klebsiella, Proteus
mirabilis) tiết men Beta Lactamase phổ rộng
(ESBL) và các vi khuẩn không lên men như
Pseudomonas sp.; Acinetobacter baumanii hiện tại là
những vi khuẩn đa kháng, đề kháng cao với các
kháng sinh đang dùng, nhất là các kháng sinh
họ Quinolone, họ Beta lactams, họ Carbapenem
cũng có khuynh hướng bị tăng đề kháng trong
những năm gần đây. Đặc biệt với Acinetobacter
baumanii kháng với tất cả kháng sinh hiện có, chỉ
còn nhạy cảm duy nhất với Colistine. Nhiễm
trùng tiểu với nhóm vi khuẩn Gram dương như
Enterococcus, Staphylococcus aureus hoặc
coagulase negative staphylococcus cũng không
có nhiều lựa chọn trong điều trị, chủ yếu chỉ còn
Vancomycine, Teicoplanin và Rifampicine, nên
việc sử dụng các thuốc này cũng cần thận trọng
để tránh làm gia tăng nhóm MRSA trở thành
nhóm VRSA.
Trước tình hình kháng kháng sinh ngày
càng gia tăng, vấn đề đặt ra cho các bác sĩ lâm
sàng là làm thế nào kéo dài tuổi thọ của các
kháng sinh còn đang hiệu lực. Vì vậy việc điều
trị nhiễm trùng tiểu hiện tại cần chú ý theo đúng
các hướng dẫn điều trị để tránh làm gia tăng
mức độ kháng thuốc. Không điều trị kháng sinh
cho những trường hợp nước tiểu có vi khuẩn
nhưng không có biểu hiện lâm sàng. Những
trường hợp nhiễm trùng tiểu có biến chứng có
những bất thường về giải phẫu hay chức năng
cần xem xét kết hợp với các biện pháp khác như
siêu âm tán sỏi, mở bàng quang ra da, mở thận
ra da để có thể đạt được kết quả điều trị tối
ưu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burke JP, Yeo TW. (2004). Nosocomial urinary tract infections.
In: Mayhall CG, ed. Hospital Epidemiology and Infection
Control. 3rd ed. Philadelphia, PA: Lippincott Williams &
Wilkins,:267–286.
2. Clarkson MR, Brenner BM (2005), Urinary tract infection,
pyelonephritis, and reflux nephropathy. The Kidney 7th
edition Elsevier. P253‐272.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – Bệnh Viện Chợ Rẫy ‐ Năm 2013 127
3. Concensus review of the epidemiology and appropriate
antimicrobial therapy of complicated urinary tract infections
inAsia‐Pacific region (2011). Journal of Infection; 63(2) p. 114‐
123.
4. Cunha BA (2010) Urosepsis in critical care. Infectious diseases
in Critical care p.288‐294.
5. Curcio D. (2008). Treatment of recurrent urosepsis with
tigecycline: a pharmacological perspective. J Clin Microbiol;
46:1892–1893.
6. Koomanachai P, Tiengrim S, Kiratisin P, et al. (2007) Efficacy
and safety of colistin (colistimethate sodium) for therapy of
infections caused by multidrug‐resistant Pseudomonas
aeruginosa and Acinetobacter baumannii in Siriraj Hospital,
Bangkok, Thailand. Int J Infect Dis; 11:402–406.
Ngày nhận bài báo: 18/04/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 6/05/2013
Ngày bài báo được đ