Một trong những vấn đề đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
hiện nay là tình trạng rủi ro tín dụng (RRTD) dẫn đến nợ xấu bởi
trình độ quản trị còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp, thông tin thiếu
minh bạch và không đầy đủ. Vì vậy, để quản trị RRTD có hiệu quả
cần phải xây dựng một mô hình quản trị theo chuẩn mực quốc tế.
Các nguyên tắc Basel về quản trị RRTD chính là nền tảng xây dựng
mô hình quản trị RRTD tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đã đề ra một lộ
trình áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM thông qua việc ban
hành Công văn số 1601/NHNN- TTGSNH ngày 17/3/2014. Theo đó,
lộ trình thực hiện Basel II được đưa ra từ năm 2015 đến 2018 với 10
NHTM được lựa chọn thí điểm. Dự kiến đến cuối năm 2018, 10 ngân
hàng thí điểm sẽ hoàn thành triển khai Basel II, sau đó sẽ mở rộng áp
dụng với các NHTM khác trong cả nước, đến năm 2020 cơ bản các
NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực Basel II, trong đó có ít nhất
12- 15 NHTM áp dụng thành công Basel II. Trong bối cảnh Việt Nam
hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, các NHTM của Việt Nam
cần thúc đẩy việc nghiên cứu và kịp thời áp dụng các tiêu chuẩn của
Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro
tín dụng nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn đó, bài viết tập trung vào
các nội dung: (i) Các yêu cầu về quản trị RRTD theo Basel II; (ii)
Đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại 10 ngân hàng thí điểm triển
khai Basel II; (iii) Đánh giá và đưa ra những vấn đề cần quan tâm
nhằm thúc đẩy việc triển khai quản trị RRTD theo Basel II trong hệ
thống NHTM Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề quan tâm để triển khai Basel II trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 197- Tháng 10. 2018
Những vấn đề quan tâm để triển khai Basel II
trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Tô Ngọc Hưng
Phạm Quỳnh Trang
Ngày nhận: 21/09/2018 Ngày nhận bản sửa: 17/10/2018 Ngày duyệt đăng: 23/10/2018
Một trong những vấn đề đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam
hiện nay là tình trạng rủi ro tín dụng (RRTD) dẫn đến nợ xấu bởi
trình độ quản trị còn hạn chế, thiếu chuyên nghiệp, thông tin thiếu
minh bạch và không đầy đủ. Vì vậy, để quản trị RRTD có hiệu quả
cần phải xây dựng một mô hình quản trị theo chuẩn mực quốc tế.
Các nguyên tắc Basel về quản trị RRTD chính là nền tảng xây dựng
mô hình quản trị RRTD tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đã đề ra một lộ
trình áp dụng Basel II đối với hệ thống NHTM thông qua việc ban
hành Công văn số 1601/NHNN- TTGSNH ngày 17/3/2014. Theo đó,
lộ trình thực hiện Basel II được đưa ra từ năm 2015 đến 2018 với 10
NHTM được lựa chọn thí điểm. Dự kiến đến cuối năm 2018, 10 ngân
hàng thí điểm sẽ hoàn thành triển khai Basel II, sau đó sẽ mở rộng áp
dụng với các NHTM khác trong cả nước, đến năm 2020 cơ bản các
NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực Basel II, trong đó có ít nhất
12- 15 NHTM áp dụng thành công Basel II. Trong bối cảnh Việt Nam
hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay, các NHTM của Việt Nam
cần thúc đẩy việc nghiên cứu và kịp thời áp dụng các tiêu chuẩn của
Basel II trong quản trị rủi ro ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro
tín dụng nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn đó, bài viết tập trung vào
các nội dung: (i) Các yêu cầu về quản trị RRTD theo Basel II; (ii)
Đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại 10 ngân hàng thí điểm triển
khai Basel II; (iii) Đánh giá và đưa ra những vấn đề cần quan tâm
nhằm thúc đẩy việc triển khai quản trị RRTD theo Basel II trong hệ
thống NHTM Việt Nam.
Từ khóa: Rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, basel II
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018
1. Những yêu cầu của Basel
II trong quản trị rủi ro tín
dụng ngân hàng thương mại
ăm 1988,
BCBS (Ủy
ban Basel
về Giám sát
ngân hàng) đã
giới thiệu một khung RRTD
(Basel I) xác định các tiêu
chuẩn về vốn để hạn chế rủi
ro kinh doanh của các ngân
hàng và tăng cường hệ thống
tài chính. Để đáp ứng các yêu
cầu phát triển liên tục trong
ngành ngân hàng, các quy
định này đã được sửa đổi vào
quý 4/2003, một hiệp ước về
vốn mới (Basel II) được ban
hành. Những quy định về
quản trị RRTD của Basel II
bao gồm các nội dung: (i) Yêu
cầu về vốn tối thiểu; (ii) Yêu
cầu về phương pháp tiếp cận;
(iii) Yêu cầu về xây dựng các
hệ thống.
Thứ nhất, với nội dung yêu
cầu về vốn tối thiểu: Basel II
yêu cầu sử dụng trọng số tín
dụng tương ứng với mỗi loại
tài sản. Để đo lường mức độ
rủi ro tương ứng của mỗi loại
tài sản có, mỗi danh mục tài
sản có của NHTM được gán
một trọng số rủi ro nhất định
để tính tài sản có theo mức
độ rủi ro. Việc áp dụng trọng
số rủi ro trong tính toán tỷ lệ
an toàn vốn sẽ công bằng hơn
trong so sánh tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu của hệ thống
các NHTM tại các nước khác
nhau; đồng thời khích lệ ngân
hàng nắm giữ các tài sản có
thanh khoản cao. Basel II chia
tài sản có của ngân hàng thành
5 nhóm với quy định một cách
tương đối về trọng số rủi ro.
Tổng tài sản có rủi ro của
NHTM tính bằng công thức:
TCRA= ∑ WiAi, trong đó: Wi
là trọng số rủi ro, Ai là loại tài
sản có, TCRA là tổng tài sản
có theo rủi ro.
Thứ hai, với nội dung yêu
cầu về phương pháp tiếp cận.
Theo Basel II, ngân hàng có
thể lựa chọn một trong các
cách tiếp cận sau: (i) Phương
pháp tiêu chuẩn; (ii) Phương
pháp xếp hạng nội bộ.
Phương pháp tiêu chuẩn (SA)
yêu cầu các ngân hàng phân
loại các rủi ro thành các hạng
mục giám sát dựa trên các đặc
điểm có thể quan sát được
và sau đó thiết lập trọng số
rủi ro cố định theo mỗi hạng
mục giám sát. Phương pháp
tiêu chuẩn cho phép sử dụng
đánh giá tín dụng bên ngoài
để nâng cao độ nhạy cảm rủi
ro so với Basel I. Nếu không
có trọng số rủi ro bên ngoài,
phương pháp này yêu cầu
trong hầu hết trường hợp, sử
dụng trọng số rủi ro 100%.
Phương pháp xếp hạng nội
bộ (Internal Ratings Basel-
IRB) là phương pháp trong đó
các NHTM tự mình đánh giá
các thành phần rủi ro và mức
độ rủi ro của danh mục tài
sản có của mình để xác định
mức vốn tín dụng an toàn tối
thiểu. Phương pháp IRB về
xác định tài sản có rủi ro dựa
trên các tham số rủi ro của
ngân hàng, bao gồm: PD (xác
suất không trả nợ), LGD (tỷ
trọng tổn thất ước tính), EAD
(rủi ro không trả nợ), M (kỳ
hạn), ρ (tương quan tài sản),
CI (khoảng tin cậy). IRB được
chia thành hai phương pháp:
(i) IRB cơ bản (FIRB) và (ii)
IRB nâng cao (AIRB). Theo
cả hai phương pháp FIRB và
AIRB, các ngân hàng cung
cấp cho cơ quan thanh tra,
giám sát ước tính nội bộ về
PD. Đối với các ngân hàng
áp dụng phương pháp FIRB,
các thông số khác sẽ được xác
định bởi cơ quan thanh tra,
giám sát. Các ngân hàng sử
dụng phương pháp AIRB sẽ
tính toán tất cả các thông số
rủi ro (PD, LGD, EAD và thời
hạn hiệu lực (M) bằng cách sử
dụng mô hình nội bộ của họ).
Khi tính PD, LGD, EAD và
M, một ngân hàng có thể dựa
vào dữ liệu dài hạn có được từ
kinh nghiệm của họ, hoặc từ
các nguồn khác bên ngoài nếu
ngân hàng có thể chứng minh
nguồn dữ liệu đó phù hợp với
hoạt động của mình. Phương
pháp cơ bản và nâng cao IRB
khác nhau chủ yếu ở đầu vào
được cung cấp bởi một ngân
hàng dựa trên ước lượng của
ngân hàng đó và dựa trên
những yếu tố được các cơ
quan giám sát xác định.
Thứ ba, yêu cầu về xây dựng
các hệ thống. Basel II yêu cầu
có một sự chuẩn hóa, hay còn
gọi là sự thống nhất chung
về kết cấu dữ liệu thể hiện
trong việc thu thập dữ liệu,
tổng hợp và hợp chuẩn dữ liệu
liên quan đến hoạt động tín
dụng. Một số yêu cầu đối với
dữ liệu tín dụng, bao gồm: (i)
Thông tin về sản phẩm: Hệ
thống kiến trúc dữ liệu phải
đảm bảo cung cấp được thông
tin về tất cả các loại sản phẩm
mà ngân hàng đang áp dụng;
(ii) xây dựng dữ liệu: cơ sở
dữ liệu phải đảm bảo cho việc
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018
tính toán chính xác các chỉ số
xác suất vỡ nợ (PD), mất vốn
do vỡ nợ (LGD), rủi ro vỡ nợ
(EAD); (iii) dữ liệu phải cung
cấp được quá trình lịch sử: dữ
liệu liên quan đến rủi ro, đánh
giá phân loại, xác suất vỡ nợ,
khả năng mất vốn và thu hồi
nợ ngoại bảng.
2. Thực trạng quản trị rủi
ro tín dụng tại 10 ngân hàng
thí điểm triển khai Basel II
Thứ nhất, yêu cầu về vốn tối
thiểu.
Có thể thấy, tỷ lệ an toàn vốn
của 10 ngân hàng trên luôn
cao hơn mức 9% từ năm 2014
đến nay, ngoại trừ BIDV năm
2016. Dù giữ mức đủ vốn
an toàn theo đúng quy định
nhưng nhìn chung tỷ lệ CAR
của 10 ngân hàng đang có xu
hướng giảm dần từ 2014 đến
nay. Để tăng vốn tự có, các
ngân hàng Việt Nam đã cố
gắng tăng cả vốn cấp 1 và vốn
cấp 2. Tuy nhiên, các ngân
hàng đang gặp khó khăn trong
việc tăng vốn cấp 1 vì ngành
Ngân hàng không còn dễ thu
hút vốn đầu tư như trước. Đa
số các ngân hàng hiện nay
đang phụ thuộc nhiều vào biện
pháp ngắn hạn là tăng vốn
cấp 2 thông qua phát hành trái
phiếu. Thiếu vốn đang là vấn
đề mà tất cả các ngân hàng
khi triển khai Basel II phải đối
mặt.
Thứ hai, về phương pháp
tiếp cận. 10 NHTM thuộc
diện triển khai thí điểm Basel
II đều đã có hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ triển
khai từ trước năm 2013 cho
danh mục khách hàng doanh
nghiệp. Do vậy, yêu cầu về
5 năm dữ liệu đối với nhóm
khách hàng doanh nghiệp là
khả thi. Tuy nhiên, rất nhiều
ngân hàng chưa triển khai hệ
thống xếp hạng tín dụng nội
bộ cho nhóm khách hàng cá
nhân. Hơn nữa, trước đây các
NHTM xây dựng hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ chủ
yếu phục vụ mục tiêu tuân thủ
quy định của NHNN nên chất
lượng dữ liệu lưu trữ trong hệ
thống thường không đảm bảo
chất lượng cần thiết. Điều này
dẫn tới việc có đủ 5 năm dữ
liệu trước năm 2018 đối với
một số danh mục đòi hỏi việc
thu thập dữ liệu bằng thủ công
đối với một số phân khúc
khách hàng, tối thiểu là từ
năm 2013 đến khi có hệ thống
lưu trữ các dữ liệu này một
cách tập trung.
Mặc dù đã có bước chuẩn
bị về dữ liệu nói trên, các
NHTM phần lớn đều chưa
có cơ cấu tổ chức phù hợp
để quản trị dữ liệu. Phần lớn
các dữ liệu cho quản lý rủi ro
hiện nay là sản phẩm của quá
trình kinh doanh thay vì xuất
phát từ nhu cầu quản lý rủi
ro. Việt Nam cũng chưa có
tổ chức chuyên xếp hạng tín
dụng doanh nghiệp một cách
chuyên nghiệp và đáng tin cậy
để cung cấp thông tin hữu ích
cho việc đo lường rủi ro ở các
NHTM.
Thứ ba, về yêu cầu xây dựng
hệ thống. Để có thể áp dụng
được phương pháp chuẩn hóa
(SA) và tiến tới là phương
pháp nội bộ (IRB), các ngân
hàng cần có hạ tầng kỹ thuật
phát triển và cơ sở dữ liệu đầy
đủ, chính xác. Vì vậy, nhiều
ngân hàng đã thực hiện nâng
cấp hoặc thay mới hệ thống kỹ
thuật từ năm 2014. Tuy nhiên,
việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ
tầng kỹ thuật không phải dễ
dàng đối với các ngân hàng
Việt Nam nói chung vì chi phí
cao. Mặt bằng cơ sở kỹ thuật
hiện nay của các ngân hàng
Việt Nam vẫn chưa đồng bộ
và cần cải thiện hơn nữa. Hạ
tầng công nghệ thông tin của
các NHTM chưa phát triển,
chủ yếu mới chỉ hỗ trợ các ghi
nhận về giao dịch và kế toán,
Bảng 1. Tỷ lệ an toàn vốn của 10 ngân hàng thí điểm áp dụng Basel II giai đoạn 2014- 2017
Đơn vị: %
Ngân hàng CTG VCB BID SCB TCB ACB MBB MSB VIB VPB
2014 10,40 11,61 9,27 9,39 15,65 14,08 10,07 15,73 17,7 11,03
2015 10,50 11,04 9,01 9,95 14,74 12,80 11,70 25,53 18,00 12,20
2016 9,70 10,57 8,80 9,70 13,10 13,90 12,90 14,00 13,50 13,03
2017 10,00 11,63 10,91 - 12,68 11,49 12,00 19,48 13,07 12,60
Nguồn: Báo cáo thường niên của các ngân hàng
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018
việc đầu tư các giải pháp công
nghệ thông tin mới nhằm hỗ
trợ luồng công việc và ghi
nhận thêm các dữ liệu về rủi
ro sẽ yêu cầu rất nhiều thời
gian, nguồn lực và chi phí của
các ngân hàng. Chi phí liên
quan cũng là một thách thức
không nhỏ.
Bên cạnh đó, về hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ tại các
NHTM còn khá nhiều khe
hở. Việc đo lường rủi ro tín
dụng, các NHTM đang triển
khai theo phương pháp xếp
hạng tín dụng nội bộ mà bản
chất của phương pháp này đó
là phương pháp chuyên gia,
dựa vào số liệu quá khứ kết
hợp với kinh nghiệm của ngân
hàng, hầu như không sử dụng
phương pháp định lượng cho
nên không đảm bảo tính khách
quan và minh bạch.
3. Những vấn đề cần quan
tâm nhằm thúc đẩy việc
triển khai quản trị rủi ro tín
dụng theo Basel II trong hệ
thống ngân hàng thương mại
Việt Nam
Thứ nhất, giải quyết vấn đề
thiếu vốn trong dài hạn. Để
giải quyết vấn đề thiếu vốn
trong dài hạn, một số ngân
hàng đã nghiên cứu và đề cập
đến việc chuyển đổi mô hình
hoạt động từ “capital heavy”
sang “capital light” (từ mô
hình kinh doanh sử dụng
nhiều vốn sang mô hình kinh
doanh dựa ít vào vốn). Một số
giải pháp đưa ra để thực hiện
việc chuyển đổi trên:
(i) Tối thiểu hóa RWA (tổng
tài sản tính theo RRTD). Để
tối thiểu hóa RWA, các ngân
hàng thường có xu hướng nỗ
lực tính chính xác hơn RWA.
Nguyên lý là trong những
phương pháp tính RWA,
thường những phương pháp
có mức độ phức tạp thấp hơn,
điển hình là phương pháp
chuẩn hóa, sẽ cho RWA cao
hơn so với phương pháp có độ
phức tạp cao hơn (do nguyên
tắc thận trọng của Basel).
Theo đó việc thực hiện tính
toán rủi ro theo phương pháp
nâng cao, sử dụng các mô
hình định lượng nội bộ sẽ cho
phép tính toán RWA chính
xác và qua đó nhiều khả năng
kết quả RWA sẽ là thấp nhất.
Việc tính chính xác hơn RWA
có thể được thực hiện ở mọi
hoạt động, trong đó tập trung
vào 2 khâu gồm: (1) Thực
hiện thông tin đầy đủ hơn về
RWA tại bộ phận kinh doanh
trực tiếp; và (2) Hạn chế hao
hụt thông tin khi truyền tải
giữa bộ phận kinh doanh trực
tiếp và bộ phận tính toán
RWA trong ngân hàng.
(ii) Các giải pháp mang tính
kinh doanh, bao gồm: (1) Tập
trung vào việc tinh chỉnh lại
thiết kế, chính sách sản phẩm,
điều khoản trong hợp đồng để
làm sao việc cung cấp các sản
phẩm này có hiệu quả hơn về
mặt vốn, hay nói cách khác là
RWA thu được từ việc cung
cấp các sản phẩm này là thấp
nhất. Theo đó, Ban khách
hàng có chức năng thiết kế
sản phẩm sẽ ngồi lại với các
đơn vị tính toán CAR, thanh
khoản để cùng nhau tìm ra
cách điều chỉnh hay thiết kế
các sản phẩm có hiệu quả về
vốn hơn. (2) Nâng cao hiệu
quả khách hàng: Nhóm giải
pháp này nhằm cơ cấu lại
khách hàng, giúp ngân hàng
thoát khỏi những khách hàng
có lợi nhuận không tương
xứng và cũng đồng nghĩa với
việc không đáp ứng yêu cầu
về vốn. Các NHTM cần có
những chính sách quyết liệt
về việc cơ cấu lại khách hàng,
sàng lọc những khách hàng
yếu kém.
Thứ hai, xây dựng hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ.
Trước thực tế Việt Nam thiếu
hụt những tổ chức xếp hạng
tín nhiệm chuyên nghiệp như
hiện nay, các NHTM cần chủ
động trong việc xây dựng một
hệ thống xếp hạng tín nhiệm
cho từng nhóm đối tượng
khách hàng. Cụ thể:
(i) Nâng cao chất lượng đánh
giá, đo lường rủi ro hoạt
động cấp tín dụng cho khách
hàng doanh nghiệp, trong đó
tập trung hơn vào các nhân
tố sau: (1) Các nhân tố vỡ
nợ tài chính bao gồm: khả
năng sinh lời, khả năng thanh
khoản, hiệu quả hoạt động,
đòn bẩy tài chính, cấu trúc tài
sản và nguồn vốn, khả năng
thanh toán và các chỉ tiêu
tăng trưởng. (2) Các nhân tố
vỡ nợ phi tài chính bao gồm:
trình độ và chất lượng nhân sự
cấp quản lý (chất lượng, kinh
nghiệm, trình độ,); môi
trường nội bộ (nhân sự nội bộ,
quy chế hoạt động, kế hoạch
kinh doanh,); đặc điểm hoạt
động kinh doanh (nguồn cung
cấp đầu vào, thị trường đầu
ra,); mối quan hệ với các tổ
chức tín dụng (hành vi trả nợ
trong quá khứ, mức độ hợp
tác trong việc cung cấp thông
tin); khả năng tiếp cận nguồn
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 197- Tháng 10. 2018
vốn của doanh nghiệp, các
nhân tố ngành (chu kỳ ngành,
hỗ trợ từ Chính phủ,); mức
độ nhạy cảm với biến động
của thị trường (mức độ ảnh
hưởng đến doanh thu, thu
nhập và dòng tiền của doanh
nghiệp trước những biến động
của giá nguyên liệu đầu vào,
đầu ra và tỷ giá); thông tin tín
dụng (CIC).
(ii) Thành lập các bộ phận
chuyên trách thực hiện kiểm
soát kết quả và đánh giá xếp
hạng tín dụng. Ít nhất mỗi
năm một lần, hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ phải
được xem xét, sửa đổi, bổ
sung trên cơ sở số liệu, thông
tin khách hàng thu thập được
trong năm.
Thứ ba, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống công nghệ
thông tin. Hai nội dung quan
trọng cần phải giải quyết đối
với hệ thống công nghệ thông
tin (CNTT) tạo cơ sở cho việc
áp dụng Basel II gồm: (1)
Phát triển hạ tầng CNTT; và
(2) hoàn thiện hệ thống cơ sở
dữ liệu.
(1) Phát triển hạ tầng CNTT:
Việc ứng dụng và triển khai
Basel II đòi hỏi một hạ tầng
CNTT hiện đại, vì vậy các
NHTM cần phải phát triển
hơn nữa hạ tầng CNTT nhằm
góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình triển khai Basel II và
minh bạch hóa thông tin, quản
lý thông tin một cách hiệu
quả, an toàn. Các nội dung
của giải pháp này bao gồm:
- Đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT
tạo nền tảng cho phát triển
ngân hàng số, trong đó: (i)
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển
ứng dụng công nghệ vào các
dịch vụ ngân hàng điện tử,
dịch vụ thẻ,... nhằm nâng cao
giá trị, khả năng thích ứng và
đổi mới sản phẩm, dịch vụ
ngân hàng trên nền tảng công
nghệ hiện đại.
(ii) Các dự án, cấu phần công
nghệ cần được nâng cấp
như: Core Banking, Digital
Banking Tích hợp, thiết
kế phát triển phần mềm, hệ
thống, phát triển quy trình,
nâng cao sự tiện dụng, tiện
lợi, bảo mật và các trải
nghiệm mới về công nghệ cho
khách hàng.
- Phát triển hệ thống CNTT
tiên tiến gắn với chiến lược
kinh doanh, trong đó: (i) Phát
triển hệ thống CNTT để đưa
ra các sản phẩm, dịch vụ gắn
chặt với chiến lược và định
hướng kinh doanh của ngân
hàng. Thực hiện triển khai các
dự án tự động hóa các hoạt
động kinh doanh cốt lõi như
tín dụng, phát hành và thanh
toán LC, chuyển tiền và kiều
hối nhằm rút ngắn thời gian
tác nghiệp, nâng cao hiệu
quả công việc của nhân viên
và giảm thiểu rủi ro lỗi tác
nghiệp trong hoạt động. (ii)
Triển khai hệ thống quản lý
khách hàng hiện đại để giúp
các nhân viên có thể chăm
sóc khách hàng chu đáo và
đảm bảo tính bảo mật, hiệu
quả trong khai thác sử dụng
thông tin cũng như cảnh báo
kịp thời về các khả năng rủi ro
có thể xảy ra. (iii) Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin
phục vụ công tác quản lý rủi
ro, quản trị nguồn lực để nâng
cao chất lượng quản trị ngân
hàng. Tăng cường các biện
pháp đảm bảo an ninh, an toàn
và hoạt động liên tục cho hệ
thống CNTT của tổ chức tín
dụng. Tuân thủ các tiêu chuẩn
về an ninh thông tin quốc tế
như PCI DSS trong lĩnh vực
thanh toán thẻ, hay ứng dụng
công nghệ xác thực nhiều
yếu tố của công ty bảo mật
hàng đầu thế giới như RSA.
(iv) Xây dựng kho lưu trữ dữ
liệu bằng thiết bị điện tử Data
Warehouse để hỗ trợ việc
phân tích dữ liệu và lập báo
cáo phân tích, đưa ra quyết
định phù hợp nhất đối với
người sử dụng.
(2) Hoàn thiện hệ thống cơ sở
dữ liệu. Các NHTM phải xây
dựng được hệ thống cơ sở dữ
liệu theo thời gian thực. Điều
này cho phép các NHTM có
thể thu thập được thông tin
và dữ liệu cần thiết cho hoạt
động phân tích ở bất kỳ thời
điểm nào. Tuy nhiên, việc xây
dựng được hệ thống trên theo
thời gian thực không hề đơn
giản. Trên thực tế, để phát
triển hệ thống trên cần đảm
bảo các điều kiện: (i) thống
nhất chế độ báo cáo; (ii) hệ
thống phân tích báo cáo tự
động; (iii) nâng cao khả năng
tìm kiếm dữ liệu và chia sẻ
thông tin giữa các NHTM.
Đối với RRTD, các NHTM
cần có hệ thống thông tin và
kỹ thuật phân tích có khả năng
đo lường được rủi ro trong tất
cả các hoạt động nội bảng và
ngoại bảng của bảng cân đối
tài sản. Hiệu quả của quy trình
đo lường RRTD phụ thuộc
nhiều vào chất lượng của hệ
thống thông tin quản lý. Khi
xây dựng một thệ thống thông
tin phục vụ việc quản trị
RRTD, các NHTM phải đáp
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 197- Tháng 10. 2018
ứng được một số yêu cầu cơ
bản như sau:
- Hệ thống này phải hỗ trợ
được việc tính toán giá trị rủi
ro VaR;
- Thông tin lưu trữ giúp thực
hiện phân tích chuỗi sự kiện
theo trình tự thời gian, từ
những sự kiện đơn lẻ;
- Có khả năng đo lường được
giá trị hoạt động hiện tại và
tương lai với từng đối tác
khác nhau;
- Đáp ứng được cả ba yêu cầu
trên với nhiều cấp độ quy mô
hoạt động ngân hàng khác
nhau, nhiều nhóm rủi ro khác
nhau, nhiều loại sản phẩm
khác nhau và nhiều đối tác
khác nhau.
Một vấn đề thường gặp phải
khi xây dựng hệ thống thông
tin phục vụ quản trị RRTD
đó chính là tính tương thích
của hệ thống. Thuật ngữ “tính
tương thích” này muốn nói
đến các thông tin giao dịch
đơn lẻ không dễ dàng gì tích
hợp được với hệ thống quản
trị rủi ro trung tâm. Các nhà
quản trị rủi ro cũng cần thiết
lập được một cấu trúc dữ liệu
thông minh hỗ trợ cho quá
trình phân tích, xử lý rủi ro.
Đây là một thử thách lớn đối
với các nhà quản trị rủi ro của
các ngân hàng trong việc hoàn
thiện hệ thống thông tin phục
vụ nhu cầu của ngân hàng.
Thứ tư, nâng cao chất lượng
nguồn nhân