Mục tiêu: ngày nay, nội soi niệu quản thận ngược dòng với máy soi mềm càng mở rộng các chỉ định hơn
nữa trong chẩn đoán và điều trị xâm hại tối thiểu cho nhiều bệnh lý khác nhau trên đường tiết niệu trên.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: trong một năm 2010, chúng tôi thực hiện được 23 trường hợp
nội soi mềm NQ- thận, tại khoa Nội soi Niệu bệnh viện Bình Dân. Trong đó, 2 bệnh nhân bị tiểu máu đại thể
chưa rõ nguyên nhân từ đường tiết niệu trên. 21 bệnh nhân còn lại có sỏi thận và sỏi niệu quản kết hợp. Tất cả
các TH sỏi niệu đều không phải là lần đầu điều trị ngoại khoa sỏi niệu cho BN. Tất cả các TH nội soi mềm, chúng
tôi đều sử dụng ống thông 9 Fr trong NQ làm giá đỡ máy soi mềm.
Kết quả: 23 BN, gồm 11 nam, 12 nữ. Tuổi trung bình là: 48,33 ± 11,45 (thấp nhất 30, cao nhất 71 tuổi).
Thời gian thực hiện nội soi là: 73,33 ± 21,56 phút. Kích thước sỏi trung bình là 11,05 ± 2,90 mm (từ 6-14mm).
Trong 21 TH sỏi niệu, chúng tôi có 9 TH sử dụng laser Holmium tán vỡ sỏi (42,86%) và 11 TH (52,38%) dùng
rọ bắt sỏi Dormia hình lê lôi các mảnh sỏi ra ngoài. Thời điểm tái khám BN (thường là từ 4 tuần sau nội soi),
chúng tôi ghi nhận tỉ lệ sạch sỏi sau 1 đợt NS mềm là 64,71%, còn tỉ lệ sót sỏi (≥ 4mm) sau 1 đợt NS mềm là
35,29 %. Ngoài ra, với 13 TH có sỏi thận đài dưới, tỉ lệ điều trị sỏi thành công là 60%. Chúng tôi ghi nhận
không có TH nào có biến chúng hậu phẫu nặng nề.
Kết luận: Nội soi mềm niệu quản thận ngược dòng là một phương pháp tiên tiến, giảm thiểu sang chấn
trong chẩn đoán cũng như trong điều trị các bệnh lý đường tiết niệu trên. Khi NS mềm NQ thận kết hợp với
laser Holmium, trở thành một kỹ thuật tán sỏi hiệu quả cao và an toàn cho các sỏi NQ lưng cao, cũng như các sỏi
trong thận.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nội soi mềm trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý đường tiết niệu trên tại Bệnh viện Bình Dân trong năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 24
NỘI SOI MỀM TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH LÝ
ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TRÊN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
TRONG NĂM 2010
Phan Trường Bảo*, Nguyễn Tuấn Vinh**, Nguyễn Minh Quang***, Vũ Lê Chuyên****
TÓM TẮT
Mục tiêu: ngày nay, nội soi niệu quản thận ngược dòng với máy soi mềm càng mở rộng các chỉ định hơn
nữa trong chẩn đoán và điều trị xâm hại tối thiểu cho nhiều bệnh lý khác nhau trên đường tiết niệu trên.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: trong một năm 2010, chúng tôi thực hiện được 23 trường hợp
nội soi mềm NQ- thận, tại khoa Nội soi Niệu bệnh viện Bình Dân. Trong đó, 2 bệnh nhân bị tiểu máu đại thể
chưa rõ nguyên nhân từ đường tiết niệu trên. 21 bệnh nhân còn lại có sỏi thận và sỏi niệu quản kết hợp. Tất cả
các TH sỏi niệu đều không phải là lần đầu điều trị ngoại khoa sỏi niệu cho BN. Tất cả các TH nội soi mềm, chúng
tôi đều sử dụng ống thông 9 Fr trong NQ làm giá đỡ máy soi mềm.
Kết quả: 23 BN, gồm 11 nam, 12 nữ. Tuổi trung bình là: 48,33 ± 11,45 (thấp nhất 30, cao nhất 71 tuổi).
Thời gian thực hiện nội soi là: 73,33 ± 21,56 phút. Kích thước sỏi trung bình là 11,05 ± 2,90 mm (từ 6-14mm).
Trong 21 TH sỏi niệu, chúng tôi có 9 TH sử dụng laser Holmium tán vỡ sỏi (42,86%) và 11 TH (52,38%) dùng
rọ bắt sỏi Dormia hình lê lôi các mảnh sỏi ra ngoài. Thời điểm tái khám BN (thường là từ 4 tuần sau nội soi),
chúng tôi ghi nhận tỉ lệ sạch sỏi sau 1 đợt NS mềm là 64,71%, còn tỉ lệ sót sỏi (≥ 4mm) sau 1 đợt NS mềm là
35,29 %. Ngoài ra, với 13 TH có sỏi thận đài dưới, tỉ lệ điều trị sỏi thành công là 60%. Chúng tôi ghi nhận
không có TH nào có biến chúng hậu phẫu nặng nề.
Kết luận: Nội soi mềm niệu quản thận ngược dòng là một phương pháp tiên tiến, giảm thiểu sang chấn
trong chẩn đoán cũng như trong điều trị các bệnh lý đường tiết niệu trên. Khi NS mềm NQ thận kết hợp với
laser Holmium, trở thành một kỹ thuật tán sỏi hiệu quả cao và an toàn cho các sỏi NQ lưng cao, cũng như các sỏi
trong thận.
Từ khóa: nội soi mềm, sỏi niệu quản, sỏi thận, tiểu máu đại thể
ABSTRACT
INITIAL USING FLEXIBLE URETERORENOSCOPY FOR DIAGNOSIS AND TREATMENT OF THE
UPPER URINARY TRACT DISEASES IN 2010 AT BINH DAN HOSPITAL
Phan Truong Bao, Nguyen Tuan Vinh, Nguyen Minh Quang, Vu Le Chuyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 24 - 30
Purpose: Retrograde flexible ureterorenoscopy has recently been broadened indications for use from
diagnostic to a variety of complex minimally invasive therapy.
Materials and methods: a total of 23 patients included 2 cases with idiopathic macrohematuria and 21
patients with ureteral and renal calculi participated in the study during a year 2010 at Binh Dan hospital. We
have performed the ureteral access sheath for all of patients before retrograde flexible URS.
Results: The average age per patient is 48.33 ± 11.45 (range: 30- 71) and the mean time for the procedure is
*Khoa Niệu B, BVBD ** Khoa Nội Tổng hợp, BVBD *** Khoa Nội soi Niệu, BVBD.
**** Khoa Niệu C, bệnh viện Bình Dân, TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: Ths.Bs. Ngô Đại Hải ĐT: 0903620979 Email: haingo68@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 25
73.33 ± 21.56 min. In all cases the stones could be reached after a single flexible URS procedure, the mean stone
size per patient of 11.05 ± 2.90 mm (range: 6- 14); 9 cases the stones (42.86%) were fragmented using Holmium
YAG laser and 11 cases (52.38%) the stones could be extracted using Dormia minimum baskets. Patients
(64.71%) were completely stone-free at follow- up and 35.29 % had residual fragments (≥ 4mm). Lower pole renal
calculi presented in 13 patients and can also be treated with a success rate of approximately 60%. There were no
major complications.
Conclusions: Retrograde flexible URS combined with Holmium laser is an effective, reproducible and
minimally traumatic diagnostic and therapeutic technique perfectly adapted to disease of the upper urinary tract.
Key words: flexible ureterorenoscopy, ureteral calculi, renal calculi, macrohematuria.
MỞ ĐẦU
Từ 25 năm qua, nội soi niệu quản (NSNQ)
kết hợp tán sỏi ngoài cơ thể (TSNCT) đã thực
hiện hơn 90% các trường hợp chỉ định chẩn
đoán và điều trị các bệnh lý sỏi đường tiết niệu,
thay vì phẫu thuật mổ mở(3,4). Hiện nay, TSNCT,
phẫu thuật lấy sỏi qua da (LSQD) và NSNQ là
các phương pháp ít xâm hại, đã giải quyết hầu
hết các TH bệnh đường tiết niệu trên. Tuy nhiên,
vẫn còn những TH bệnh lý khác thất bại điều trị
với 3 phương pháp trên, như là: sót sỏi sau mổ,
tiểu máu đại thể kéo dài chưa rõ nguyên nhân,
bướu niệu mạc tại chỗ hoặc bướu niệu mạc trên
thận độc nhất, thận dị dạng, vẫn cần nội soi
NQ- thận ngược dòng vào bên trong thận, đồng
thời kết hợp laser Holmium để điều trị các bệnh
lý này. Tại Khối Niệu Bệnh viện Bình Dân
(BVBD), chúng tôi bước đầu ứng dụng phương
pháp này trong chẩn đoán và điều trị các trường
hợp tiểu máu đại thể dai dẳng chưa tìm ra
nguyên nhân và chủ yếu cho các trường hợp sỏi
đường tiết niệu trên (còn sót sỏi, sỏi tái phát) ở
những bệnh nhân có tiền sử can thiệp điều trị
sỏi niệu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2010, tại Khoa
Nội soi Niệu, Bệnh viện Bình dân, chúng tôi đã
thưc hiện được 23 trường hợp (TH) nội soi mềm
NQ- thận, để chẩn đoán cho 2 TH tiểu máu từ
đường tiết niệu trên chưa tìm được nguyên
nhân sau khi đã thăm khám và làm đầy đủ các
xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh cần thiết, và
điều trị cho 21 TH sỏi đường tiết niệu trên.
Tổ chức thực hiện nội soi điều trị tại phòng
mổ của Khoa Nội soi niệu, trong đó các phương
tiện nghiên cứu như sau:
Máy soi mềm, hãng Olympus, 7.5 Fr, gập 1
lần ở đầu tận, góc 170°
Máy C- arm, từ hệ thống TSNCT chuyển đến
Máy soi cứng và hệ thống nguồn sáng của
hãng Stortz.
Máy tán sỏi laser holmium, Dornier hoặc
Sprinx.
Các dụng cụ nội soi khác, như: dây dẫn
(guide- wide), rọ bắt sỏi hình lê, dây dẫn laser
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu: 23 BN, gồm 11 nam, 12 nữ.
Tuổi trung bình: 48,33 ± 11,45 (30- 71 tuổi).
Tiền sử bệnh nhân (BN)
Tiền sử Số BN
PTNS sau phúc mạc 1
Mổ mở + TSNCT 1
LSQD 2
LSQD + TSNCT 1
Mổ mở sỏi thận 6
Có vết Mổ
Tổng số 11
TSNS sỏi NQ 2
NS nong NQ hẹp 1 Nội soi
Tổng số 3
TSNCT đơn thuần 7
Tổng số chung 21
Riêng về TSNCT (9 TH):
TSNCT 1 lần 2 lần 3 lần 4 lần
Số BN 2 4 2 1
vị trí sỏi đài dưới đài giữa nhiều đài
Số BN TSNCT 5 2 2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 26
Chẩn đoán
2/23 TH (8,70%) có tiểu máu đại thể từ
đường tiểu trên:
- 1 BN bị viêm xuất huyết niêm mạc đài bể
thận
- 1 BN bị tiểu máu do bướu thận, u cơ mỡ
mạch máu (AML) mọc bướu chồi vào hệ
đài bể thận, TH này sau đó được phẫu
thuật (PT) cắt bỏ thận mang bướu
21/23 TH (91,30%) có sỏi niệu, như sau:
Kích thước sỏi (6- 14mm), trung bình: 11,05±
2,90mm
Đặc Điểm Số BN
Phải 9
Trái 10 Bên
2 bên 2
1 viên 5
2 viên 7
3 viên 7
Số lượng
4 viên 2
Bể thận 1
Đài dưới 13
Đài giữa 3
Đài trên 3
Vị trí
Nhiều vị trí 1
Mạnh 2 (9,52%)
Vừa 16(76,19%) Độ cản quang
Yếu 3(14,29%)
< 45° 9
45- 70° 11
Góc bể thận –
trục đài dưới
>70° 1
Độ I 7
Độ II 7
Độ III 1
Không ứ nước 4
Độ ứ nước trên
siêu âm
Khu trú đài thận 2
Sỏi NQ chậu 2 Kết hợp sỏi NQ
cùng bên Sỏi NQ lưng 3
Vô cảm
Mê nội khí quản (NKQ): 22 TH (95,65%)
Mê mask thanh quản: 1 TH (4,35%)
Nội soi
Đặt thông JJ trước nội soi mềm (NSM)
12 /23 TH; 52,17%
Không đặt thông JJ trước NSM: 11/23TH;
47,83%.
NS hệ đài bể thận
Soi được đài trên: 22/23 TH 95,65%
Soi được đài giữa: 21/23 TH 91,30%
Soi được đài dưới: 21/23 TH 91,30%
Soi được bể thận: 23/23 TH 100%
NSM thấy được sỏi mục tiêu: 17/21TH;
80,85%.
NSM không thấy sỏi mục tiêu: 4/21 TH;
9,15%.
Sử dụng rọ bắt sỏi: 13/21 TH 61,90%
Dùng rọ bắt được sỏi thành công: 11/13 TH,
84,62%
Dùng rọ bắt sỏi lôi sỏi từ đài dưới: 5/13
TH, 38,46%
Đưa vào bể thận: 2/13 TH 15,38%
Đưa lên đài trên: 2/13 TH 15,38%
Lôi sỏi ra ngoài: 1/13 TH 7,69%
NSM tiếp cận được sỏi : 12/17 TH 70,59%
NSM không tiếp cận được sỏi: 9/21 TH
42,86%
Vậy, thấy sỏi mục tiêu nhưng không diều trị
được qua NSM: 5/12 TH (29,41%).
Lý do không tiếp cận được sỏi: 9 TH
4 TH soi không thấy sỏi: 1 TH sỏi đài giữa, 3
TH sỏi đài dưới
1 TH cổ đài thận trên hẹp bít 11,11%
4 TH sỏi đài dưới, máy NSM không vào
được nơi có sỏi (4/9 TH) 44,44%
Sử dụng laser Holmium tán sỏi: 9/12 TH
Kết hợp NSM với laser Holmium cho 9 TH
tán sỏi thận 75%, gồm: 4 TH sỏi đài trên, 4 TH
sỏi bể thận, 1 TH tán sỏi tại chỗ đài dưới
Kết hợp ống soi cứng tán sỏi
8 /12 TH: 66,67%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 27
5 TH sỏi NQ cùng bên sỏi thận, trước khi
dùng NSM.
3 TH tán sỏi bể thận tiếp theo sau khi dùng
NSM.
Bệnh lý hệ đài bể thận
hẹp bể thận (2/23 TH) 8,70%
hẹp bít đài trên có sỏi (1/23 TH) 4,35%
dãn rộng đài thận dưới (1/23 TH)
có dải xơ chắn ngang sỏi (1/23TH)
hẹp cổ đài dưới (1/23TH)
4,35%
Tính chất sỏi
17 TH soi thấy sỏi thận
sỏi bám dính sỏi di động
số BN(17) 6 (35,29%) 11(74,71%)
sỏi xù xì dễ vỡ sỏi trơn láng sỏi cứng
số BN(17) 12 (70,59%) 1 (5,88%) 4 (23,53%)
Tỉ lệ điều trị thành công
Thời gian nội soi trung bình: 73,33 ± 21,56
(45 - 110 phút).
Sỏi đài trên
5 TH gồm: 3 TH sỏi có sẵn, 2 TH sỏi từ đài
dưới lôi đưa lên trên tán sỏi laser thành công 4/5
TH (80%), 1 TH bít cổ đài trên.
Sỏi bể thận
4 TH gồm 1 TH có sẵn, 3 TH từ đài dưới lôi
vào, tán sỏi thành công 4/4 TH (100%).
Sỏi đài giữa
3 TH: 2 TH lôi sỏi ra ngoài (66,67%), 1 TH soi
không thấy sỏi.
Sỏi đài dưới
13 TH, gồm: 3 TH lôi sỏi vào bể thận, 2 TH
lôi sỏi lên đài trên, 1 TH tán sỏi và lôi được sỏi
ra ngoài, 1 TH hẹp cổ đài dưới, 1 TH có dải xơ
chắn ngang sỏi, 1 TH đài dưới dãn rộng, không
tán được sỏi, 1 TH sỏi bám dính mặt trần đài
dưới, 3 TH soi không tìm thấy sỏi mục tiêu. Vậy
điều trị thành công sỏi đài dưới: 6/10 TH (60%).
Điều trị sạch sỏi
11/17 TH (64,71%), còn sót sỏi tại chỗ: 6/17
TH (35,29%).
Hậu phẫu
Số ngày nằm viện trung bình: 3,76± 1,82 ( 1-
9 ngày).
Đặt thông NQ sau NS
100%, trong đó: đặt thông JJ: 19/23 TH
(82,61%); đặt thông NQ : 4/23TH (7,39%).
Dùng Kháng sinh
Đơn độc 1 loại Cephalosporine thế hệ 3:
Ceftazidime, hoặc cefoperazone): 5/23 TH:
21,74%.
Dùng phối hợp Cephalosporine thế hệ 3 và
Aminoglucoside (Netilmycine hoặc Amikacine):
18TH 88,26%.
Phối hợp KS cùng lúc hoặc sau NS: 15/18TH
(83,33%).
Phối hợp KS trước khi NS: 3/18 TH (6,67%)
Dùng đến khi xuất viện: 17/23 TH (73,91%)
Ngưng KS trước khi XV: 4/23 TH (26,09%)
Tai biến - biến chứng
Chảy máu
Chảy máu khi nội soi, làm mờ phẫu trường:
2/23TH (8,70%).
Chảy máu sau NS: 23/23TH 100%
Mức độ tiểu máu sau NS: thể nhẹ 100%
Rách niêm mạc đài thận: 1 TH (4,35%)
Nhiễm khuẩn niệu:
Nhiễm khuẩn niệu sau NS: 3/23TH: 13,04%
Theo dõi: sau 1 tháng tái khám
Rút thông NQ thường trước khi XV: 4/23 TH
Rút thông JJ lúc tái khám: 19/23TH
Chụp KUB sau NSM: 17/21TH
Siêu âm lúc tái khám: 16/21 TH
Tỉ lệ còn sỏi sót lúc tái khám: 8/13 TH
(61,54%).
Đánh giá
Về điều trị tiếp sau NSM lần 1:
Cần NSM lần 2: 2/13 TH 15,38%
Cần TSNCT thêm lần nữa: 4/17 TH (23,53%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 28
Điều trị nội khoa sau NSM lần 1: 9/21 TH,
42,86%.
Không cần điều trị gì thêm: 6 TH (6/21)
28,57%.
BÀN LUẬN
Sỏi niệu là bệnh lý hay gặp nhất của đường
tiết niệu. Trong đó, sỏi thận hiện là nỗi lo lắng
ngày càng lớn dần ở các nước phát triển cũng
như đang phát triển. Tại khối Liên hiệp Anh
(UK), tỉ lệ mắc bệnh cắt ngang bệnh sỏi thận
trong dân số chiếm đến 1,2%(9).
3 phương pháp điều trị chính bệnh sỏi niệu
là: TSNCT, NSNQ và LSQD. Srisubat (Thailand)
báo cáo qua 3 nghiên cứu gồm 214 BN, thực
hiện 3 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm
chứng, áp dụng cho 3 phương pháp điều trị:
TSNCT, NSNQ –thận tán sỏi trong thận và
LSQD. Cho thấy TSNCT có kết quả kém hơn so
LSQD nhưng không có khác biệt hiệu quả so với
NSNQ- thận ngược dòng(18).
TSNCT có tính tự nhiên là xâm hại tối thiểu,
và là một lựa chọn điều trị khá hấp dẫn cho cả
bệnh nhân và BS niệu(16). Sau TSNCT, các mảnh
sỏi nhỏ <5mm được xem như các vụn sỏi không
đáng kể, hầu hết các vụn sỏi này (clinically
insignificant residual fragments- CIRF) đều
thoát ra ngoài tự phát sau điều trị và không có
biến chứng gì. Loạt TH nghiên cứu của chúng
tôi có nhiều BN phải chịu TSNCT > 2 lần, trong
đó có 13 TH sỏi thận đài dưới nhưng TSNCT
không hiệu quả. Nhiều tác giả đưa ra lý thuyết
tại sao khó đào thải sỏi thận từ đài thận dưới so
với sỏi ở đài trên hoặc đài thận giữa. Turna và
CS đã làm một nghiên cứu so sánh kết quả
TSNCT sỏi đơn độc ở các đài thận, đánh giá
hiệu quả sau 3 tháng so đợt TSNCT sau chót, tần
suất sạch sỏi lần lượt cho sỏi thận ở đài trên,
giữa, dưới là 82,8%, 83,4%, 67,5% (19), trong khi
Sozen và CS thực hiện 153 BN có TSNCT cho các
sỏi bể thận không bế tắc, tỉ lệ sạch sỏi là 53,6%,
sót sỏi không nhận rõ trên lâm sàng ở bể thận là
18,9%, sót sỏi do rơi vào đài thận dưới là
32,6%(17).
Elbahnasy và CS, xác định rằng 3 yếu tố
chính khảo sát đài thận dưới là góc bể thận-
trục đài dưới (Infundibulopelvic angle- IPA),
chiều dài trục đài dưới (infundibular length)
và bề rộng cổ đài dưới. 3 yếu tố này có thể đo
dễ dàng trên phim X quang tiêu chuẩn chụp
hệ niệu có cản quang (UIV). IPA càng nhọn có
thể được xem có vai trò trong việc đào thải
sỏi, đặc biệt là các sỏi sót có kích thước càng
nhỏ càng dễ chui vào các đài thận ở thấp(5).
Khả năng sỏi thoát ra ngoài từ đài thận dưới
thấp hơn so các vị trí khác, dù là sỏi <4mm(13).
Skolarikos và CS thực hiện một báo cáo
quản lý chủ động bệnh sỏi niệu, với sỏi thận đài
dưới <10mm, nên được kiểm ta siêu âm tích cực,
hoặc có kết hợp CT Scan; các sỏi sót <4mm,
không có triệu chứng, không bi nhiễm khuẩn
huyết sau TSNCT hoặc các sỏi <2mm sau LSQD
nên được theo dõi hàng năm(15).
Khi các sỏi sót sau TSNCT thất bại, việc mở
rộng chỉ định nội soi niệu như là lựa chọn hàng
đầu cho các TH này(2).
Grasso và CS thực hiện 584 TH dùng NSM
tán sỏi trong thận và sỏi NQ lưng, tỉ lệ tán sỏi
thành công khi tán sỏi thận là 79%, tăng lên
91% sau lần 2 NSM tán sỏi. Biến chứng <1%,
không có TH xoắn, đứt NQ, nhiễm khuẩn
huyết hay tử vong(6).
Bagley và CS (2002), có tỉ lệ thành công tán
vỡ sỏi NQ lưng với NSM là >90% TH, trong
khi tỉ lệ tán sỏi trong thận, bao gồm sỏi đài
thận dưới là xấp xỉ 80%. Nhiều tác giả mở
rộng chỉ định NSM tán sỏi trong thận cho các
sỏi thận có kích thước ≥2cm, các sỏi san hô
đơn giản(1,7). Grasso(1998), báo cáo 51 TH tán
sỏi NSM các sỏi thận như vậy, có tỉ lệ tán sỏi
thành công kỳ đầu là 76%. Nội soi mềm tán
sỏi lần 2 (second look endoscopy), tán các sỏi
sót đến 53% TH, góp phần tăng tỉ lệ tán sỏi
thành công là 91%. Với định nghĩa, sạch sỏi là
sỏi bị tán vỡ thành bụi sỏi, hoặc các vụn sỏi
<2mm. Theo dõi sau 6 tháng, tỉ lệ sạch sỏi
hoàn toàn là 60%, có 24% TH còn sỏi sót và
16%TH các sỏi vụn tăng kích thước(6).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 29
NSM tán sỏi trong thận còn được chỉ định
cho sỏi thận và NQ ở trẻ em. Yeow và CS báo
cáo 26 TH tán sỏi cho trẻ em từ 8 tháng tuổi đến
15 tuổi, tại bệnh viện Princess Margaret, Tây
Australia từ 1997- 2006. Trong đó, 24 TH sỏi
niệu gồm 17 TH sỏi đài bể thận, 7 TH sỏi NQ
đoạn 1/3 giữa, còn có 2 TH bị kéo tụt thông JJ
niệu quản sau mổ tạo hình khúc nối NQ- bể
thận. Kết quả, tỉ lệ NS thành công là 88,5%, có 3
TH thất bại NS(21).
Các bệnh lý khác ở đường tiết niệu trên, như
bướu niệu mạc khu trú, bướu niệu mạc trên thận
độc nhất, trên thận dị dạng GPH, hẹp khúc nối
NQ- bể thận, hẹp lòng NQ, chẩn đoán các TH
tiểu máu đại thể nhiều đợt mà siêu âm, chụp
Xquang cắt lớp, ngay cả MSCT scan chưa chẩn
đoán ra nguyên nhân và vị trí tiểu máu là các
chỉ định dùng NSM điều trị.
Như vậy, NSM tán sỏi trong thận với laser
Holmium đã trở thành một phương pháp điều
trị hiệu quả cao, an toàn trong chẩn đoán và
điều trị bệnh đường tiết niệu trên. Vai trò NSM
điều trị các bệnh lý đường tiết niệu trên càng rõ
ràng hơn, vì những cải tiến các thế hệ máy NSM
làm tăng khả năng gập đầu tận ống soi, chất
lượng hình ảnh rõ nét hơn, các dụng cụ NS có
kích thước nhỏ hơn nữa(10).
Các thế hệ máy NSM sau này, với 2 lần
gập đầu tận ống soi, và thêm 1 lần gập thụ
động, giúp dễ dàng tiếp cận vị trí sang
thương cần điều trị(11). Do đó, các BS niệu
luôn đứng trước thực tế là các dụng cụ NSM
luôn đổi mới hàng năm, nên nội soi niệu vẫn
luôn là một nguồn điều trị rộng mở(14), khi
luôn được cập nhật những cải tiến máy NS,
nên NSM điều trị bệnh lý trong thận (RIRS) là
lựa chọn điều trị ít xâm hại, có hiệu quả và độ
an toàn cao ngày càng cao(12).
Mặc dù, NSM niệu quản- thận là phương
pháp có đường cong học tập ngắn một khi thiết
lập được phòng mổ có đủ các trang thiết bị
tương thích. Tuy nhiên, máy soi mềm có giá
thành khá đắt so mặt bằng điều trị chung tại
Việt Nam, nên chi phí cho 1 TH dùng máy soi
mềm cần được tính lại giá phù hợp. Hơn nữa,
việc bảo dưỡng máy (interval repair) là tối đa 30
TH nội soi thì cần 1 đợt ngắt quãng cho nhà sản
xuất duy tu máy NSM(6,12).
KẾT LUẬN
Nội soi mềm ngược dòng NQ- thận điều trị
các bệnh lý trong thận, hoặc rộng hơn cho cả
đường tiết niệu trên là một xu hướng tất yếu
phát triển nội soi NQ- thận, khi kết hợp với laser
holmium, đã trở thành một phương pháp nội
soi điều trị bên trong hệ đài- bể thận (
Retrograde IntraRenal Surgery- RIRS), là một
lựa chọn điều trị có tỉ lệ thành công, an toàn cao,
và là một phương pháp điều trị xâm hại tối
thiểu, góp phần nâng cao chất lượng điều trị.
Tuy vậy, trong năm 2010 chúng tôi thực hiện nội
soi mềm NQ- thận chỉ được 23 TH, mẫu nghiên
cứu chưa đủ lớn, nên kết quả bước đầu còn
tương đối khiêm tốn. Chúng tôi sẽ tiếp tục báo
cáo về đề tài này với số lượng bệnh nhân nhiều
hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bagley DH (2002):. Expanding role of ureteroscopy and laser
lithotripsy for treatment of proximal ureteral and intrarenal
calculi. Curr Opin Urol Jul;12(4): 277- 80
2. Bagley DH, Kuo RL, Zeltser IS. (2004): An update on
ureteroscopic instrumentation for the treatment of urolithiasis.
Curr Opin Urol Mar;14(2):99- 106
3. Basillote JB, Lee DI, Eichel L, Clayman RV. (2004):
Ureteroscopes: flexible, rigid and semi rigid. Uro Clin North Am
Feb;31(1):21- 32
4. Buscarini M, Conlin M. (2008): Update on flexible ureteroscopy.
Urol Int, Epub Jan 18;80(1):1- 7
5. Elbahnasy AM, Shalhav AL, Hoenig DM, Elashry OM, Smith
DS, Mc Dougall EM, Clayman RV. (1998): Lower caliceal stones
clearance after shock wave lithotripsy or ureteroscopy: the
impact of lower pole radiographic anatomy. J Urol
Mar;159(3):676- 82
6. Grasso M, Bagley D. (1998): Small diameter, actively deflectable,
flexible ureteropyeloscopy. J Urol, Nov;160(5): 1648- 53
7. Grasso M, Conlin M, Bagley DH. (1998): Retrograde
ureteropyeloscopic treatment of 2cm or greater upper urinary
tract and minor staghorn calculi. J Urol Aug; 180(2): 348- 51
8. Gross AJ, Bach T. (2008): Lower pole calculi larger than one
centimeter: Retrograde intrarenal surgery. Indian J Urol,
Oct;24(4):551- 4
9. Johri N, Cooper B, Robertson W, Choong S, Rickard D, Unwin
R. (2010): An update and practical guide to renal stone
management. Nephron Clin Pract. Epub Jul ;116(3):159-71