Đặt vấn đề: Kích thước và hình dạng của KTV có thể là yếu tố nguy cơ trong hội chứng chèn ép TK trên vai. Mục tiêu: Xác định các biến thể của KTV. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả, cắt ngang, nghiên cứu giải phẫu học. Phương pháp: 192 xương bả vai được khảo sát với 2 tham số: đường kính dọc và đường kính ngang lớn nhất. Kết quả: Có 5 loại KTV (theo Natsis) được ghi nhận: loại I, không có KTV, 63 (32,8%); loại II, KTV có đường kính ngang dài hơn, 92 (47,9%); loại III, KTV có đường kính dọc dài hơn, 33 (17,2%); loại IV, có lỗ xương, 4 (2,1%); loại V, có KTV và lỗ xương, không có. Kết luận: Phân loại đơn giản này bao gồm tất cả các biến thể giải phẫu của KTV. Bằng phương pháp này, các nhà lâm sàng có thể xác định dễ dàng và nhanh chóng loại KTV trên phim X quang không sửa soạn, và có thể liên hệ hội chứng chèn ép TK trên vai với một loại KTV đặc hiệu.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân loại khuyết trên vai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 155
PHÂN LOẠI KHUYẾT TRÊN VAI
Dương Văn Hải*, Lê Nguyễn Yên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Kích thước và hình dạng của KTV có thể là yếu tố nguy cơ trong hội chứng chèn ép TK trên
vai.
Mục tiêu: Xác định các biến thể của KTV.
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả, cắt ngang, nghiên cứu giải phẫu học.
Phương pháp: 192 xương bả vai được khảo sát với 2 tham số: đường kính dọc và đường kính ngang lớn
nhất.
Kết quả: Có 5 loại KTV (theo Natsis) được ghi nhận: loại I, không có KTV, 63 (32,8%); loại II, KTV có
đường kính ngang dài hơn, 92 (47,9%); loại III, KTV có đường kính dọc dài hơn, 33 (17,2%); loại IV, có lỗ
xương, 4 (2,1%); loại V, có KTV và lỗ xương, không có.
Kết luận: Phân loại đơn giản này bao gồm tất cả các biến thể giải phẫu của KTV. Bằng phương pháp này,
các nhà lâm sàng có thể xác định dễ dàng và nhanh chóng loại KTV trên phim X quang không sửa soạn, và có thể
liên hệ hội chứng chèn ép TK trên vai với một loại KTV đặc hiệu.
Từ khóa: xương vai, khuyết trên vai.
ABSTRACT
CLASSIFICATION OF THE SUPRASCAPULAR NOTCH
Duong Van Hai, Le Nguyen Yen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 155 - 159
Background: The size and shape of the suprascapular notch (SSN) may be a risk factor in suprascapular
nerve entrapment.
Objectives: to determine the variations of the SSN.
Design: cross – sectional, anatomical study.
Method: 192 human scapulae were included in the study. Two measurements were defined and collected for
every SSN: maximal vertical diameter, maximal transverse diameter.
Results: 5 types (after Natsis) of SSN were observed: type I, without a discret notch, 63 (32.8%); type II, a
notch that was longer in its transverse diameter, 92 (47.9%); type III, a notch that was longer in its vertical
diameter, 33 (17.2%); type IV, a bony foramen, 4 (2,1%); type V, a notch and a bony foramen, zero.
Conclusion: This simple classification included all the anatomical variations of the SSN. Using this method,
the clinician will be able to define easily and quickly the notch type on a plain radiograph, and perhaps be able to
correlate suprascapular nerve entrapment with a specific type of SSN.
Keywords: scapula, suprascapular notch.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khuyết trên vai (KTV) nằm ở bờ trên xương
vai, ngay bên trong rễ của mỏm quạ, là vị trí chủ
yếu trong hội chứng chèn ép TK trên vai
(TKTV). Kopell và Thompson(12) đầu tiên mô tả
hội chứng này. Có nhiều nguyên nhân khác,
như gãy xương vai(8,3), chấn thương kín vùng
vai(3), nang hạch(3), bướu mỡ(10) và các bướu
* Bộ môn Giải Phẫu học, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS Dương Văn Hải ĐT: 0919669192, Email: haiduong99@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 156
khác(9), đã được báo cáo. Cũng có các tường
trình về lộ trình bất thường của ĐM trên vai qua
KTV(18), cơ dưới vai phì đại che phủ mặt trước
KTV(4), sự thay đổi của dây chằng vai ngang trên
(DCVNT) do cơ vai móng bám vào gân này(4), và
sự tăng áp lực lên TKTV do sự co kéo băng gân
xoay (rotator cuff) sau một chấn thương nặng(1).
Bệnh lý TKTV có thể từ các hoạt động thể thao,
do các động tác tay qua đầu và/hoặc khép chéo
và/hoặc dangmạnh và lập đi lập lại, như trong
bóng rỗ, bóng ném, bóng bầu dục, bóng chuyền,
tennis, bơi, ballet, cử tạ và thể hình(3,17).
Rengachary và cs (1979) đề nghị “tác động
vòng” (sling effect) để giải thích tổn thương
TKTG do tì bờ dưới vào DCVNT, vì nguyên ủy
và tận cùng của TK ở cơ trên gai ở mặt phẳng
cao hơn KTV.
Hình thái học của KTV được coi như là 1
yếu tố nguy cơ của chèn ép TKTV do kết hợp
với bất thường của DCVNT(4,2) hoặc khuyết
vai hẹp(15). Một DCVNT bất thường làm hẹp
KTV và nhất là khi khuyết này tự thân đã hẹp,
khoảng cách còn lại dành cho TKTV giảm
nhiều, dẫn đến chèn ép TK. Các dạng DCVNT
này được tìm thấy ở trên xác(16) và trên các
bệnh nhân có hội chứng chèn ép TKTV(2). Hơn
nữa, hình thái học của KTV cũng quan trọng
để tránh các tổn thương TKTV do phẫu thuật
nội soi (PT Bankart) và các phẫu thuật hở
khác khi bóc tách sau cổ ổ chảo xương vai(19).
Nghiên cứu này nhằm mục đích phân loại
về hình thái học KTV một cách đơn giản dựa
vào các chỉ số hình học. Phân loại này cũng
nhằm liên hệ hình thái với hội chứng chèn ép
TK, như là 1 yếu tố để góp phần chẩn đoán
hội chứng này.
PHƯƠNG TIỆN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Các mẫu xương vai khô của bộ môn Giải
phẫu học, khoa Y, Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh.
Khảo sát tập trung vào các dạng thay đổi ở
phần xương của KTV, có thể thấy ở phim X
quang không sửa soạn. Đường kính dọc (D1) và
ngang (D2) được so sánh bằng compa, 2 thước
trong suốt và thước kẹp (sai số 0,1mm). Với D1,
đo đường kính tối đa bắt đầu từ đường tưởng
tượng nối các góc trên của khuyết (L1). Với D2,
đo đường giữa thẳng góc với D1. Điểm quan
trọng là D1 thẳng góc với L1 và không nhất thiết
phải song song với trục dọc của thân.
Trước hết, chia các xương vai thành các
nhóm: nhóm không có KTV rõ, nhóm có lỗ
xương, và nhóm có cả khuyết và lỗ xương ở vị
trí KTV. Xương vai có DCVNT cốt hóa 1 phần
được xếp cùng với loại không cốt hóa, theo hình
dạng, vì vùng không cốt hóa của dây chằng vẫn
là khuyết, không là lỗ xương. Sau đó, phân loại
các xương vai còn lại bằng cách so sánh D1 và
D2 của KTV. Xương vai được đặt trên bàn, mặt
trước lên trên. Hai đầu compa đặt trên 2 góc trên
của khuyết, khoảng cách này là L1. Ở hầu hết
xương vai, gai nhỏ ở điểm bám DCVNT giúp dễ
xác định L1. Sau đó, 1 thước trong suốt đặt
thẳng góc với L1 qua điểm sâu nhất của KTV.
Khoảng cách này chính là D1 và được đo bằng
thước kẹp. Một thước trong suốt khác đặt thẳng
góc với thước trên qua trung điểm của D1,
khoảng cách này là D2 và được đo bằng thước
kẹp.
Khi L1 được định vị, D2 sẽ tùy thuộc vào
hướng của D1. Ví dụ, nếu L1 ở cao, D1 sẽ tăng
và D2 sẽ lên trên khi thẳng góc với trung điểm
của D1. Các bờ của KTV hơi tách ra ở trên,
nên D2 cũng tăng theo. Xương vai có D1 và
D2 bằng nhau được đo lại lần thứ 2 để đảm
bảo chính xác.
Chúng tôi chia 5 loại KTV theo Natsis và
cộng sự(14) (Hình 1, 2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 157
Hình 1: Các kích thước của khuyết trên vai
KẾT QUẢ
Mẫu có 192 xương vai khô, gồm 103 (53,6%)
xương vai phải và 89 (46,4%) xương vai trái
(Bảng 1).
Loại I: Không có KTV, có 63 (32,8%) xương,
gồm 37 (19,3%) xương phải và 26 (13,5%) xương
trái.
Loại II: KTV có đường kính ngang lớn hơn
đường kính dọc, có 92 (47,9%) xương, gồm 47
(24,5%) xương phải và 45 (23,4%) xương trái.
Loại III: KTV có đường kính dọc lớn hơn
đường kính ngang, có 33 (17,2%) xương, gồm 16
(8,3%) xương phải và 17 (8,9%) xương trái.
Loại IV: có lỗ xương, có 4 (2,1%) xương, gồm
gồm 3 (1,6%) xương phải và 1 (0,5%) xương trái.
(hình 3).
Loại V: có lỗ xương và KTV, không hiện
diện trong mẫu này.
Bảng 1: Phân phối các dạng khuyết trên vai
Phải Trái Tổng số
Loại I 37 (19,3%) 26 (13,5%) 63 (32,8%)
Loại II 47 (24,5%) 45 (23,4%) 92 (47,9%)
Loại III 16 (8,3%) 17 (8,9%) 33 (17,2%)
Loại IV 3 (1,6%) 1 (0,5%) 4 (2,1%)
Kích thước đường kính dọc và đường kính
ngang chung của mẫu và riêng cho loại II và
loại III được trình bày ở bảng 2, 3 và 4. Nhìn
chung, đường kính ngang lớn hơn đường kính
dọc.
Hình 3: Loại I Hình 4: Loại II
Hình 5: Loại III Hình 6: Loại IV
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 158
Bảng 2: Kích thước các đường kính dọc và ngang của
mẫu
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhỏ nhất Lớn nhất
ĐK dọc (mm) 7,02 2,92 2,2 19,3
ĐK ngang (mm) 8,8 3,05 2,5 25,7
Bảng 3: Kích thước các đường kính dọc và ngang của
loại II
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhỏ nhất Lớn nhất
ĐK dọc (mm) 6,36 2,71 2,2 19,3
ĐK ngang 9,32 3,1 3,4 25,7
Bảng 4: Kích thước các đường kính dọc và ngang của
loại III
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhỏ nhất Lớn nhất
ĐK dọc (mm) 8,87 2,73 2,7 14,2
ĐK ngang (mm) 7,34 2,36 2,5 11,8
BÀN LUẬN
Sự phân loại KTV, ngoài các lợi ích về giải
phẫu, còn có ý nghĩa lâm sàng trong hội chứng
chèn ép TKTV (HCCE) (được Kopell và
Thompson(12) mô tả, đau vùng sau ngoài của vai,
teo các cơ trên gai và dưới gai, yếu động tác
xoay ngoài và dang cánh tay). Một KTV hẹp có
thể gặp ở bệnh nhân có hội chứng này(15). Một
KTV hẹp kết hợp với DCVNT bất thường gây
chít hẹp được coi là yếu tố nguy cơ trong HCCE.
Các bất thường này là dây chằng chẻ đôi(2,16,4)
dây chằng chẻ 3(16) và dây chằng quạ - vai
trước(4).
Tuy nhiên, các bất thường của DCVNT
không làm thay đổi phân loại KTV, do phân loại
này dựa trên các biến đổi của xương, do đó có
thể khảo sát bằng X quang không sửa soạn. Vì
vậy, chúng tôi phân loại xương vai có khuyết và
lỗ ở vị trí KTV thành 1 loại riêng. Trong y văn,
loại này chỉ có 2 trong 2.792 (0,036%) trong công
trình của Hrdlicka(11), 1 trong 79 (1,3%) trong
nghiên cứu của Ticker(16), 3 trong 423 (0,7%)
trong nghiên cứu của Natsis(13). Chúng tôi có 4
trường hợp, chiếm 2,1%.
Như vậy, cả hình dạng và kích thước của
KTV đều có thể là 1 yếu tố nguy cơ của HCCE
TKTV. Không có KTV (loại I) có thể là nguyên
nhân của hôi chứng này(14). Rengachary(15) xác
định rằng kích thước của KTV có vai trò trong
HCCE, vì KTV nhỏ có nguy cơ cao hơn KTV
lớn. Dunkelgrun(6) xác định rằng KTV dạng U có
diện tích rộng hơn dạng V, dẫn đến giả định
rằng dạng V dễ chèn ép thần kinh hơn. Nghiên
cứu của Duparc(7) được lưu ý đặc biệt. Các tác
giả lần đầu tiên nhận xét chính xác rằng vị trí
dưới mạc của TKTV giữa KTV và khuyết vai - ổ
chảo có thể được coi như là lộ trình ống xương –
xơ, và sự chèn ép thần kinh trong lộ trình này là
có thể được coi như là 1 hội chứng ống.
Trong y văn, suất độ cốt hóa hoàn toàn
DCVNT thay đổi từ 3.7 đến 12,5%(15,4). Tuy
nhiên, ý nghĩa lâm sàng của sự cốt hóa này
không rõ.
Hơn nữa, hình dạng của KTV có thể thay
đổi khoảng cách giữa KTV và củ trên ổ chảo.
Điều này quan trọng cho việc xác định vùng
an toàn nhằm giảm tối đa nguy cơ gây tổn
thương TKTV trong thủ thuật nội soi khớp
(Bankart) và các thủ thuật mổ mở khác đòi hỏi
bóc tách sau cổ ổ chảo(5,19). Bigliani(5) xác định
điểm trong của khoảng cách này là điểm
ngoài cùng của KTV, trong khi Urguden(19)
cho là điểm sâu nhất của KTV. Urguden dựa
trên phân loại của Rengachary, có khác biệt về
khoảng cách giữa các loại khuyết, nhưng
không có ý nghĩa thống kê.
Hrdlicka (1942)(11) là người đầu tiên chia KTV
thành 5 loại. Sau đó, Rengachary (1979)(15) chia
KTV làm 6 loại. Loại I không có KTV (giống loại
I của chúng tôi), loại II dạng chữ V, loại III dạng
chữ U gần như song song với bờ ngoài, loại IV
có dạng chữ V rất nhỏ, loại V dạng chữ U có cốt
hóa 1 phần ở phần trong DCVNT, loại VI có lỗ
xương với DCVNT cốt hóa hoàn toàn (giống
loại IV của chúng tôi).
Rengachary phân biệt các loại này bằng mắt
thường. Sau đó, trên các loại II, III, IV, tác giả đo
các kích thước: đườnh kính dọc tối đa (D1),
đường kính ngang tối đa (D2), và đường kính
dọc theo bờ trên xương vai (D3). Dựa vào các
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 159
kích thước này, tác giả phát triển các phương
trình phân loại cho 3 loại này.
Với loại II, (0,32010)D1 + (0,32642)D2 +
(0,83305)D3 – 11.90146 = K
Với loại III, (0,61227)D1 + (0,19228)D2 +
(0,39448)D3 – 7,4908 = K
Với loại IV, (0,63542)D1 + (0,34377)D2 +
(0,62234)D3 – 5,44500 = K
Các tác giả kết luận rằng xương vai thuộc về
loại cho trị số K cao nhất. Mặc dù phường pháp
này phân biệt tốt các loại KTV, nhưng đòi hỏi
tính toán phức tạp, mất thời gian, khó nhớ, khó
xử dụng.
Ticker(16) và Bayramoglu(4) cải biên phân loại
của Rengachary và chỉ bao gồm dạng U, dạng V
và dạng KTV có cốt hóa DCVNT. Ticker xét
hình dạng KTV và sự cốt hóa DCVNT riêng biệt.
Phương pháp này đơn giản nhưng bất lợi vì
không dựa vào các tham số hình học.
Phân loại của Natsis đơn giản vì chỉ cần 2
tham số, dễ đo trên phim, do đó dễ nhớ và dễ
sử dụng.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi có phân
loại cụ thể các dạng KTV, làm tư liệu trong
giảng dạy và nghiên cứu giải phẫu. Đồng thời,
các nhà lâm sàng có thể xác định nhanh chóng
và dễ dàng các loại KTV trên phim, có thể xác
định loại nào có nguy cơ cao hơn ở các bệnh
nhân có HCCE TKTV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albritton M, Graham RD (2003), An anatomic study of the
effects on thesuprascapular nerve due to retraction of the
supraspinatus muscle after a rotator cuff tear. J Shoulder Elbow
Surg, 12: p. 497-500.
2. Alon M, et al (1988), Bilateral suprascapular nerve entrapment
syndrome due to an anomalous transverse scapular ligament.
Clin Orthop Relat Res, (234): p. 31-3.
3. Antoniadis G, et al. (1996), Suprascapular nerve entrapment:
experience with 28 cases. J Neurosurg. 85(6): p. 1020-5.
4. Bayramoglu A, et al (2003), Variations in anatomy at the
suprascapular notch possibly causing suprascapular nerve
entrapment: an anatomical study. Knee Surg Sports Traumatol
Arthrosc, 11(6): p. 393-8.
5. Bigliani L, Dalsey RM, (1990), An anatomical study of the
suprascapular nerve. Arthroscopy, 6: p. 301-305.
6. Dunkelgrun M, Iessaka K (2003), Interobserver reliability and
intraobserver reproducibility in suprascapular notch typing. Bull
Hosp Joint Dis, 61: p. 118-122.
7. Duparc F, et al (2010), Anatomical basis of the suprascapular
nerve entrapment, and clinical relevance of the supraspinatus
fascia. Surg Radiol Anat, 32(3): p. 277-84.
8. Edeland H, Zachrisson BE (1975), Fracture of the scapular notch
associated with lesion of the suprascapular nerve. Acta Orthop
Scand. 46: p. 758-763.
9. Fritz RC, et al (1992), Suprascapular nerve entrapment:
evaluation with MR imaging. Radiology, 182(2): p. 437-44.
10. Hazrati Y, et al (2003), Suprascapular nerve entrapment
secondary to a lipoma. Clin Orthop Relat Res, (411): p. 124-8.
11. Hrdlicka, A.(1942), The adult scapula: visual observations. Am J
Phys Anthropol. 29: p. 73-94.
12. Kopell H, Thompson WAL (1959), Pain and the frozen shoulder.
Surg Gynecol Obstet. 109: p. 92-96.
13. Natsis K, Totlis T (2007), Proposal for classification of the
suprascapular notch. Clinical Anatomy. 20: p. 135-139.
14. Ofusori DA, et al (2008), Complete absence of the suprascapular
notch in a Nigerian scapula: A possible cause of suprascapular
nerve entrapment. Int J Shoulder Surg. 2(4): p. 85-6.
15. Rengachary S, Burr D (1979), Suprascapular entrapment
neuropathy: A clinical, anatomical, and comparative study. Part
2: anatomical study. Neurosurgery. 5: p. 447-451.
16. Ticker J, Djurasovic M (1998), The incidence of ganglion cysts
and other variations in anatomy along the course of the
suprascapular nerve. J Shoulder Elbow Surg, 7: p. 472-478.
17. Tsur A. and ShahinR. (Suprascapular nerve entrapment in a
basketball player). Harefuah, 1997. 133(5-6): p. 190-2, 247.
18. Tubbs R, Smyth MD (2003), Anomalous traversement of the
suprascapular artery through the suprascapular notch: A
possible mechanism for undiagnosed shoulder pain? Med Sci
Monit. 9: p. BR116-BR119.
19. Urguden M, Ozdemia H (2004), Is there any effect of
suprascapular notch type in iatrogenic suprascapular nerve
lesions? An anatomical study. Knee Surg Sports Traumatol
Arthrosc. 12: p. 241-245.