Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 103
PHẪU THUẬT ALTEMEIER ĐIỀU TRỊ SA TRỰC TRÀNG 
Nguyễn Trung Tín* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Điều trị sa toàn bộ thành trực tràng vẫn chưa thống nhất, có rất nhiều phương pháp phẫu thuật 
khác nhau đã được mô tả trong các sách phẫu thuật. Nói chung, điều trị sa trực tràng cần phải cân nhắc giữa tỉ 
lệ tái phát và biến chứng. Phẫu thuật Altemeier cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng qua ngã tầng sinh 
môn có tỉ lệ tái phát thấp, biến chứng không nặng nề và là phương pháp điều trị duy nhất cho các trường hợp 
hoại tử niêm mạc trực tràng sa ra ngoài. 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật Altemeier điều trị sa toàn bộ thành trực tràng. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca. 
Kết quả: Tổng cộng có 10 bệnh nhân được điều trị cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng điều trị sa 
trực tràng. Trong đó có 5 bệnh nhân nam và 5 bệnh nhân nữ. Có 3 trường hợp hoại tử niêm mạc trực tràng sa 
ra ngoài. Phương pháp vô cảm là gây tê tủy sống. Không có các biến chứng nặng nề: 1 trường hợp mót rặn và đi 
cầu gấp, 3 trường hợp rỉ dịch hậu môn sau phẫu thuật. Không có trường hợp đi cầu không tự chủ. Tỉ lệ thành 
công và bệnh nhân hài lòng 100%. 
Kết luận: Phẫu thuật Altemeier điều trị sa trực tràng là phẫu thuật an toàn, hiệu quả và không có biến 
chứng nặng nề. Phương pháp vô cảm là gây tê tủy sống. 
Từ khóa: Sa trực tràng, Phẫu thuật Altemeier, Incontinence, Levator plasty. 
ABSTRACT 
RESULTS OF ALTEMEIER OPERATION FOR TREATMENT OF RECTAL PROLAPSE 
Nguyen Trung Tin* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 103 - 107 
Background: Treatment for the full thickness of rectal plapse is still debated. There are variety of operation 
in surgical. Generally, It is balanced between the reduction of post-op complication and the recurrent rate. The 
Altemeier procedure has the low recurrent rate, no severe complication and the only surgical treatment for the 
rectal prolapse with mucosal necrosis. 
Objective: To evaluate the early results of the rectosigmoidectomy with perineal approach for treatment of 
rectal prolapse. 
Methods: Data of consecutive cases were collected and analyzed. 
Results: There were total 10 patients with rectosigmoidectomy for treatment of rectal prolapse. Among them 
the male and female ration was 1/1. 3 cases had mucosal necrosis. The local anaesthesia was spinal block. There 
was no severe complication, 1 temporary tenesmus and emergency defecation, 3 temporary soilage of anus. The 
successful rate and satisfied rate were 100%. 
Conclusions: Altemeier repair of rectal prolapse is safe, produces minimal discomfort, and does not require a 
general anesthetic. 
Key words: Rectal prolapse, Altemeier operation, Incontinence, Levator plasty. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Điều trị sa toàn bộ thành trực tràng vẫn chưa 
thống nhất, có rất nhiều phương pháp phẫu 
thuật khác nhau đã được mô tả trong các sách 
* Bộ Môn Ngọai, khoa Y– Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Trung Tín ĐT: (08)39525388, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 104 
phẫu thuật. Nói chung, điều trị sa trực tràng cần 
phải cân nhắc giữa tỉ lệ tái phát và biến chứng. 
Các phẫu thuật vùng tầng sinh môn có vẻ có tỉ lệ 
biến chứng thấp nhất, trong khi đó các phẫu 
thuật cố định qua ngã bụng có tỉ lệ tái phát 
thấp(1). Nguy cơ tái phát và các biến chứng tăng 
cao là do bệnh sa trực tràng thường xuất hiện ở 
người cao tuổi, và tần suất mới mắc cao nhất ở 
tuổi 70. Người cao tuổi dễ có các biến chứng chu 
phẫu, liên quan đến gây mê và tim mạch, hô hấp 
và các bệnh nhiễm trùng(4). 
Tại Việt Nam, nhiều trường hợp sa trực 
tràng lâu ngày, không được đẩy vào trong 
lòng ống hậu môn trực tràng hay được thoa 
thuốc đông y để điều trị, gây hoại tử khô đoạn 
ruột sa ra ngoài không thể đẩy trở vào được. 
Các trường hợp này không thể thực hiện phẫu 
thuật cố định trực tràng ngã bụng bằng phẫu 
thuật nội soi. Nhiều bệnh nhân trung niên hay 
trẻ tuổi sau khi được phẫu thuật cố định trực 
tràng qua phẫu thuật nội soi có biến chứng 
xuất tinh ngược sau mổ, dù biến chứng có thể 
là tạm thời, nhưng cũng gây khó chịu về tâm 
lý cho bệnh nhân. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện 
trong nghiên cứu này là phẫu thuật nhiều 
trường hợp (nghiên cứu nhiều trường hợp). 
Mục tiêu 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lượng giá 
các kết quả cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực 
tràng qua ngã tầng sinh môn (phẫu thuật 
Altermeier) cho những bệnh nhân sa trực tràng 
có hay không có hoại tử đoạn trực tràng sa ra 
ngoài. Thời gian đánh giá kết quả sớm sau mổ là 
3 tháng. 
Ngoài ra, chúng tôi cũng lượng giá sự tự chủ 
của hậu môn và các biến chứng sớm (30 ngày 
sau mổ). Ở bệnh nhân nam chúng tôi còn đánh 
giá thêm tình trạng xuất tinh ngược của bệnh 
nhân sau mổ. 
Đánh giá sự tự chủ của hậu môn 
Đánh giá tiêu không kiểm soát bằng bảng 
điểm CCIS (Cleveland Clinic Incontinence 
Score). 
Bảng điểm đánh giá tiêu không kiểm soát của 
Cleveland Clinic 
 Hơi Phân lỏng Phân chặt Mang tã 
Thỉnh thoảng 1 4 7 1 
> 1 /tuần 2 5 8 2 
Mỗi ngày 3 6 9 3 
CCIS 0 Kiểm soát hoàn hảo. 
CCIS 1 – 7 Kiểm soát tốt. 
CCIS 8 – 14 Mất tự chủ một phần. 
CCIS 15 – 20 Mất tự chủ nặng. 
CCIS 21 Hoàn toàn mất tự chủ. 
Phương pháp phẫu thuật 
Tất cả bệnh nhân đều được gây tê tủy sống 
để phẫu thuật cắt đoạn đại tràng chậu hông và 
trực tràng. Bệnh nhân được đặt ở tư thế phụ 
khoa khi phẫu thuật. Khi tiến hành phẫu thuật, 
chích dưới niêm mạc trên đường lược 2 cm, 
epinephrine pha loãng 1/100000. Sau đó tiến 
hành cắt vòng toàn bộ thành trực tràng bằng 
dao đốt điện hay siêu âm. Mạc treo trực tràng và 
đại tràng chậu hông được kẹp cắt lần lượt cho 
đến khi không thể di động thêm đại tràng chậu 
hông. Cơ nâng lỏng lẻo được khâu tạo hình 
bằng các mũi chữ I với chỉ vicryl. Sau đó khâu 
nối đại tràng chậu hông hai lớp (khâu tay) hay 
bằng máy bấm. 
Thời gian và chăm sóc hậu phẫu 
Sau mổ bệnh nhân được nuôi ăn hoàn toàn 
bằng đường tĩnh mạch từ 3-4 ngày và xuất viện 
từ 4-5 ngày sau mổ. Do vết khâu nối nằm sâu 
trong ống hậu môn nên bệnh nhân không cần 
phải thay băng hay chăm sóc vết thương hàng 
ngày. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng 10 bệnh nhân sa trực tràng có 
hoại tử hay không hoại tử được phẫu thuật 
Altemeier và thu thập dữ liệu đưa vào nghiên 
cứu. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 105
Dịch tễ học 
Tuổi trung bình của bệnh nhân 47,30 ± 22,85. 
Tuổi nhỏ nhất là 15 và cao nhất là 82 tuổi. 
Trong số 10 bệnh nhân được thực hiện phẫu 
thuật cắt đoạn đại tràng chậu hông và trực tràng 
để điều trị sa trực tràng, có 5 bệnh nhân phái 
nam và 5 bệnh nhân là nữ, tỉ lệ nam/nữ là 1. 
Trong đó tuổi trung bình của bệnh nhân nam là 
40,20 ± 5,89, tuổi trung bình của nữ là 54,40 ± 
31,85. 
Bảng 1: Tuổi của bệnh nhân 
Tuổi trung 
bình 
Số bệnh 
nhân 
Trung bình Độ lệch 
chuẩn 
Chung 10 47,30 22,85 
Nam 5 40,20 5,89 
Nữ 5 54,40 31,85 
Thời gian mắc bệnh sa trực tràng trung bình 
của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu 10,90 
± 5,40 năm. Trong, đó bệnh nhân có thời gian 
mắc bệnh ngắn nhất là 5 năm và thời gian mắc 
bệnh dài nhất là 20 năm. 
Có 2 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có 
tiền sử bệnh tâm thần. 
Đặc điểm sa trực tràng 
Chiều dài khối sa trực tràng trung bình là 
9,50 ± 2,50 cm, trong đó trực tràng sa ngắn 
nhất là 5 cm và bệnh nhân có trực tràng sa dài 
nhất là 15cm. 
Có 6 trường hợp sa toàn bộ trực tràng và 
ống hậu môn, 4 trường hợp chỉ sa toàn bộ thành 
trực tràng đơn thuần. Có 3 trường hợp hoại tử 
niêm mạc khối sa trực tràng ra ngoài, trong đó 2 
trường hợp do đắp thuốc đông y, 1 trường hợp 
do ngâm phèn chua và thuốc tím lâu ngày. 
Bảng 2: Đặc điểm sa trực tràng. 
Đặc điểm Giá trị 
Thời gian bệnh 10,90 ± 5,40 năm 
Chiều dài khối sa 9,50 ± 2,50 cm 
Sa trực tràng đơn thuần 4 trường hợp 
Sa hậu môn-trực tràng 6 trường hợp 
Hoại tử niêm mạc 3 trường hợp 
Niêm mạc bình thường 7 trường hợp 
Kỹ thuật mổ 
Tất cả bệnh nhân đều được cắt đoạn đại trực 
tràng và khâu cơ nâng qua ngã tầng sinh môn. 
1/10 bệnh nhân được khâu nối đại tràng chậu 
hông bằng máy khâu bấm, 9 bệnh nhân còn lại 
được khâu nối bằng tay với chỉ vicryl 000, khâu 
2 lớp. 
Bảng 3: Phân bố bệnh nhân theo kỹ thuật mổ. 
Kỹ thuật mổ Số bệnh nhân 
Khâu cơ nâng 10 
Không khâu cơ nâng 0 
Khâu nối máy 1 
Khâu nối tay 9 
Biến chứng và tái phát sau mổ 
Gần như không có biến chứng gì đáng kể 
sau mổ. Có 3 bệnh nhân rỉ dịch sau mổ đến ngày 
thứ 4, 1 bệnh nhân mót rặn sau mổ kéo dài đến 
10 ngày. Bệnh nhân được khâu nối bằng máy có 
cảm giác mót rặn và đi cầu gấp. 
Sau 3 tháng theo dõi, chúng tôi nhận thấy 
không có trường hợp nào tái phát, đi cầu tự chủ 
hoàn toàn và 100% bệnh nhân hoàn toàn hài 
lòng với phẫu thuật. Tất cả bệnh nhân nam đều 
xuất tinh bình thường khi giao hợp, không có 
trường hợp nào có triệu chứng xuất tinh ngược. 
Bảng 4: Biến chứng sau mổ 
Biến chứng Số BN 
Đau nhiều 0 
Chảy máu 0 
Rỉ dịch hậu môn 3 
Mót rặn 1 
BÀN LUẬN 
Chẩn đoán sa trực tràng 
Khối sa ở hậu môn, lúc đầu thường nhỏ 
ngắn, xuất hiện khi đi cầu. Kèm theo là thỉnh 
thoảng có triệu chứng chảy máu khi đi tiêu làm 
bệnh nhân lầm tưởng với bệnh trĩ. Nếu thầy 
thuốc không thăm khám lâm sàng cẩn thận thì 
cũng dễ dàng chẩn đoán lầm với bệnh trĩ. Bởi vì 
khi thăm khám bằng ngón tay trực tràng không 
phát hiện được triệu chứng thực thể nào đặc 
hiệu nếu khối sa trực tràng tụt lên được. Chỉ khi 
cho bệnh nhân ngồi ở tư thế ngồi xổm thì mới 
phát hiện được sa trực tràng(2). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 106 
Chẩn đoán có thể có được một cách rõ ràng 
và khách quan khi cho thực hiện chụp 
videoproctoscopy. Biện pháp này giúp chẩn 
đoán phân biệt giữa bệnh trĩ và sa trực tràng 
cũng như chẩn đoán chính xác mức độ sa của trĩ 
hay sa trực tràng. Một số bệnh nhân đã được 
chẩn đoán lầm giữa sa trực tràng và trĩ. Hậu quả 
là hoại tử trực tràng sa do đắp thuốc. 
Dịch tễ học 
Phần lớn các trường hợp sa trực tràng 
thường gặp ở người cao tuổi và ở phái nữ. 
Trong nghiên cứu của Mark và cs (1), có 63 bệnh 
nhân được phẫu thuật Altemeier điều trị sa trực 
tràng thì có đến 61 bệnh nhân là nữ. Tuổi trung 
bình của bệnh nhân là 79 tuổi. 
Một nghiên cứu khác cũng nhận thấy có đến 
90% bệnh nhân là phái nữ(6), tần suất hiện mắc 
thường gặp ở trẻ con và người lớn tuổi. Tiền sử 
bệnh nhân có bệnh tâm thần chiếm đến 50% các 
trường hợp(7). 
Trong nghiên cứu này, tuy mẫu còn nhỏ 
nhưng chúng tôi nhận thấy sa trực tràng có thễ 
xảy ra ở những bệnh nhân rất trẻ (15 tuổi). Và 
tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu 
là 47,30 tuổi. Phân bố bệnh nhân theo giới, 
chúng tôi nhận thấy tỉ lệ về giới là ngang nhau. 
Bảng 5. Tuổi và giới của bệnh nhân sa trực tràng. 
Tác giả (năm) Số BN Tuổi (TB) Giới 
(Nam/Nữ) 
Mark (2001) 63 79,20 2/61 
Nghiên cứu này 10 47,30 5/5 
Chiều dài khối sa trực tràng 
Trong 10 bệnh nhân được nghiên cứu, chiều 
dài khối sa trực tràng trung bình là 9,50 ± 2,50 
cm (ngắn nhất 5 cm và dài nhất là 15 cm). Chiều 
dài khối sa trực tràng phụ thuộc vào thời gian 
bệnh và nhóm bệnh nhân nghiên cứu. 
Mark nhận thấy chiều dài trung bình của 
đoạn ruột đại trực tràng được cắt đoạn vào 
khoảng 12 cm(1). 
Phương pháp vô cảm 
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều 
được thực hiện vô cảm bằng gây tê tủy sống 
thành công, không có bệnh nhân nào phải 
chuyển sang gây mê toàn thân. Kết luận này 
cũng được ủng hộ của Mark và cs(1). Tác giả 
nhận thấy trong nhóm nghiên cứu của mình có 
70% bệnh nhân được thực hiện vô cảm vùng 
hay gây tê tủy sống. 
Kỹ thuật mổ 
Khiếm khuyết giải phẫu có thể có trong sa 
trực tràng bao gồm: 
Khiếm khuyết trên cơ sàn chậu với sự dãn 
rộng của cơ nâng hậu môn và sự suy yếu của các 
mạc vùng chậu. 
Túi cùng Douglas xuống thấp một cách bất 
thường. 
Đại tràng chậu hông dài. 
Cơ vòng hậu môn bị yếu. 
Mất vị thế nằm ngang của trực tràng do sự 
gắn kết lỏng lẻo của trực tràng vào xương cùng 
và vách chậu. 
Không phải tất cả các bệnh nhân đều có tất 
cả các khiếm khuyết giải phẫu nói trên. Cũng 
như không có một phương pháp mổ nào khắc 
phục được cùng một lúc tất cả cả các khiếm 
khuyết này. Do vậy có rất nhiều loại phẫu thuật 
để điều trị sa trực tràng, có hơn 100 phẫu thuật 
khác nhau để điều trị sa trực tràng(2,5). 
Cắt trực tràng đại tràng chậu hông ngã tầng 
sinh môn được Mikulicz đề xướng đầu tiên vào 
năm 1893. Miles là người ủng hộ mạnh mẽ cho 
phẫu thuật này vào năm 1933 và trong suốt 
những năm sau đó phương pháp này là một 
chọn lựa ưa thích của các phẫu thuật viên ở 
Anh. Năm 1971, Altemeier là người báo cáo kết 
quả tốt nhất của phẫu thuật này và làm cho nó 
trở nên phổ biến ở Mỹ. Từ đó trở đi, phẫu thuật 
này gắn liền với tên Altemeier (3). 
Thời gian hậu phẫu 
Đây là nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên, 
chúng tôi thực hiện phẫu thuật Altemeier để 
điều trị cho bệnh nhân sa toàn bộ thành trực 
tràng. Do đó, bệnh nhân phải nhịn ăn từ 3-4 
ngày sau mổ, bệnh nhân chỉ được xuất viện vào 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 107
ngày hậu phẫu thứ 5. Tuy nhiên, có tác giả thực 
hiện thành công phẫu thuật ngoại trú hay trong 
ngày cho bệnh nhân mà không có tử vong hay 
biến chứng gì đáng kể, 80% bệnh nhân có thể 
xuất viện trong vòng 24 giờ sau mổ(1). 
Tái phát 
Theo dõi bệnh nhân với thời gian trung vị 
gần 21 tháng, Mark nhận thấy tỉ lệ tái phát là 
6,4% và bệnh nhân có thể được phẫu thuật lại 
bằng phương pháp Altemeier. Tất cả bệnh nhân 
sau mổ đều trở lại bình thường khi thăm khám, 
87% bệnh nhân hài lòng hoàn toàn với phẫu 
thuật(1). Các tác giả khác tỉ lệ tái phát từ 3-16%. 
Do thời gian theo dõi ngắn, chỉ 3 tháng sau 
mổ, chúng tôi chưa phát hiện trường hợp nào tái 
phát khi tái khám. Toàn bộ bệnh nhân đều hài 
lòng với kết quả phẫu thuật, không có trường 
hợp nào đi cầu không tự chủ. 
Bảng 6: Tỉ lệ tái phát. 
Tác giả Số BN Tái phát (%) Theo dõi 
Altemeier 106 3 28 tháng 
Kim (1999) 183 16 47 tháng 
Zbar (2002) 80 4 22 tháng 
Mark (2009) 63 6,4 21 tháng 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật Altemeier điều trị sa trực tràng là 
một phẫu thuật khả thi, an toàn, hiệu quả ít biến 
chứng và tỉ lệ tái phát không cao. Bệnh nhân có 
thể được phẫu thuật trong ngày. Phẫu thuật 
không gây biến chứng liệt dương và xuất tinh 
ngược như có thể gặp trong phẫu thuật cố định 
trực tràng qua ngã bụng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Mark KH, Brent EK, John Isler, Richard B (2001). The 
Altemeier repair: Outpatient treatment of rectal prolapse. Dis 
Col Rect: 565-579. 
2 Nguyễn Đình Hối (2002). Sa trực tràng. Hậu môn học. Nhà 
xuất bản Y học Tp Hồ Chí Minh. 
3 Madiba TE, Baig MK, Wexner SD (2005). Surgical 
management of rectal prolapse. Arch Surg, 140 (1): 63-73. 
4 Carditello A, Milone A, Stilo F (2003). Surgical treatment of 
rectal prolapse with transanal resection according to 
Altemeier. Experience and results. Chir Ital, 55 (5): 687-92. 
5 Philip HG (2007). Rectal Procidentia. In Principles and Practice 
of Surgery of the colon, rectum and anus. 
6 Corman ML (2004). Rectal prolapse, solitary rectal ulcer, 
syndrome of the descending perineum, and rectocele. Colon 
and rectal surgery. 5th ed, 1408. Lippincott Williams and 
Wilkins, Philadelphia, PA. 
7 Marceau C, Parc Y, Debroux E, Tiret E, Parc R (2005). 
Complete rectal prolapse in young patients: psychatric disease 
a risk factor of poor outcome. Colorectal Dis, 7: 360-364.