Đặt vấn đề: Cắt bán phần thận qua ngã nội soi là can thiệp ít xâm hại đang phát triển trong giai đoạn hiện nay. Mục tiêu: Chúng tôi mô tả quá trình thực hiện cắt bán phần thận nội soi qua ngã sau phúc mạc có khống chế mạch máu thận tại 1 trung tâm. Phương tiện và kỹ thuật: Bắt đầu từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 4 năm 2012, chúng tôi đã thực hiện phẫu phuật cắt bán phần thận qua ngã nội soi sau phúc mạc cho 40 bệnh nhân (1 bệnh nhân có thận độc nhất, 1 bệnh nhân có bướu thận 2 bên). Số lượng trocar sử dụng là từ 3 đến 4 cái. Động mạch thận được khống chế bởi dây thun. Bướu được cắt ra khỏi thận bằng kéo lạnh. Đài bể thận được khâu lại bằng Vicryl 3-0 hoặc 4-0 khi có gây thương tổn vả chủ mô thận được khâu lại bằng Vicryl 1-0, có sử dụng gối độn Surgicel bên dưới nếu chủ mô thận bị khiếm khuyết lớn. Toàn bộ các đường khâu được chốt lại bằng kẹp kim loại và Hem-O-lock. Kết quả: Kích thước trung bình của bướu 33,1mm (12mm - 68,2mm). Vị trí của bướu được phân bổ như sau: bên phải 21 trường hợp (52,5%), bên trái 19 (47,5%), cực trên 15 (38,6%), cực giữa 8 (20%), cực dưới 17 (42,5%). Thời gian mổ và thời gian thiếu máu nóng lần lượt là 145,25 phút (60 phút – 255 phút) và 23,8 phút (12 phút – 45 phút). Lượng máu mất trung bình là 84,4ml (2ml – 500ml). Có 24 (60%) bệnh nhân được khâu lại đài bể thận do có xâm phạm trong quá trình cắt bướu. 4 bệnh nhân được phát hiện dương tính trong mẫu thử giải phẫu bệnh bờ mặt cắt lành tính (bao gồm 1 trường hợp đáy bướu bị vỡ trong quá trình cắt bướu ra khỏi thận). Về mặt giải phẫu bệnh của mô bướu cho thấy có 24 (60%) trường hợp ung thư tế bào thận, 14 (35%) trường hợp là bướu cơ mỡ mạch máu và 2 (5%) trường hợp là mô bướu của tuyến thượng thận. 2 bệnh nhân cần phải truyền máu. 1 trường hợp chuyển mổ hở với lý do chảy máu. 1 trường hợp cắt thận sau 2 tháng. Kết luận: Tại các nước phát triển, phẫu thuật cắt bán phần thận qua ngã nội soi được áp dụng ngày càng nhiều và chiếm dần 1 số vị trí của mổ hở trong điều tri bướu thận nhỏ. Trong điều kiện hiện nay tại Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có thể thực hiện kỹ thuật này tương đối an toàn đối với phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực nội soi. Qua những kinh nghiệm của nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy sự lựa chọn bệnh nhân hợp lý (bướu < 4cm, khoảng cách từ bướu tới đài bể thận > 1cm) sẽ làm giảm đáng kể các tai biến và biến chứng.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt bán phần thận qua ngã nội soi trong điều trị bệnh lý bướu thận: Kinh nghiệm ban đầu về đường vào sau phúc mạc và có khống chế mạch máu thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 196
PHẪU THUẬT CẮT BÁN PHẦN THẬN QUA NGÃ NỘI SOI
TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ BƯỚU THẬN: KINH NGHIỆM BAN ĐẦU
VỀ ĐƯỜNG VÀO SAU PHÚC MẠC VÀ CÓ KHỐNG CHẾ MẠCH MÁU THẬN
Phạm Phú Phát*, Vũ Lê Chuyên*, Nguyễn Minh Quang*, Vĩnh Tuấn*, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng*,
Nguyễn Tế Kha*, Đỗ Hoàng Dũng*, Ngô Đại Hải*, Phan Trường Bảo*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cắt bán phần thận qua ngã nội soi là can thiệp ít xâm hại đang phát triển trong giai đoạn hiện
nay.
Mục tiêu: Chúng tôi mô tả quá trình thực hiện cắt bán phần thận nội soi qua ngã sau phúc mạc có khống
chế mạch máu thận tại 1 trung tâm.
Phương tiện và kỹ thuật: Bắt đầu từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 4 năm 2012, chúng tôi đã thực hiện
phẫu phuật cắt bán phần thận qua ngã nội soi sau phúc mạc cho 40 bệnh nhân (1 bệnh nhân có thận độc nhất, 1
bệnh nhân có bướu thận 2 bên). Số lượng trocar sử dụng là từ 3 đến 4 cái. Động mạch thận được khống chế bởi
dây thun. Bướu được cắt ra khỏi thận bằng kéo lạnh. Đài bể thận được khâu lại bằng Vicryl 3-0 hoặc 4-0 khi có
gây thương tổn vả chủ mô thận được khâu lại bằng Vicryl 1-0, có sử dụng gối độn Surgicel bên dưới nếu chủ mô
thận bị khiếm khuyết lớn. Toàn bộ các đường khâu được chốt lại bằng kẹp kim loại và Hem-O-lock.
Kết quả: Kích thước trung bình của bướu 33,1mm (12mm - 68,2mm). Vị trí của bướu được phân bổ như
sau: bên phải 21 trường hợp (52,5%), bên trái 19 (47,5%), cực trên 15 (38,6%), cực giữa 8 (20%), cực dưới 17
(42,5%). Thời gian mổ và thời gian thiếu máu nóng lần lượt là 145,25 phút (60 phút – 255 phút) và 23,8 phút
(12 phút – 45 phút). Lượng máu mất trung bình là 84,4ml (2ml – 500ml). Có 24 (60%) bệnh nhân được khâu lại
đài bể thận do có xâm phạm trong quá trình cắt bướu. 4 bệnh nhân được phát hiện dương tính trong mẫu thử
giải phẫu bệnh bờ mặt cắt lành tính (bao gồm 1 trường hợp đáy bướu bị vỡ trong quá trình cắt bướu ra khỏi
thận). Về mặt giải phẫu bệnh của mô bướu cho thấy có 24 (60%) trường hợp ung thư tế bào thận, 14 (35%)
trường hợp là bướu cơ mỡ mạch máu và 2 (5%) trường hợp là mô bướu của tuyến thượng thận. 2 bệnh nhân
cần phải truyền máu. 1 trường hợp chuyển mổ hở với lý do chảy máu. 1 trường hợp cắt thận sau 2 tháng.
Kết luận: Tại các nước phát triển, phẫu thuật cắt bán phần thận qua ngã nội soi được áp dụng ngày càng
nhiều và chiếm dần 1 số vị trí của mổ hở trong điều tri bướu thận nhỏ. Trong điều kiện hiện nay tại Việt Nam,
chúng tôi nhận thấy có thể thực hiện kỹ thuật này tương đối an toàn đối với phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm
trong lãnh vực nội soi. Qua những kinh nghiệm của nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy sự lựa chọn bệnh
nhân hợp lý (bướu 1cm) sẽ làm giảm đáng kể các tai biến và biến
chứng.
Từ khóa: Cắt bán phần thận.
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC PARTIAL NEPHRECTOMY FOR RENAL TUMOR:THE RETROPERITONEAL
APPROACHES WITH CONTROLING OF RENAL VASCULATURE, INITIAL EXPERIENCE
Pham Phu Phat , Vu Le Chuyen, Nguyen Minh Quang, Vinh Tuan, Nguyen Phuc Cam Hoang,
Nguyen Te Kha, Do Hoang Dung, Ngo Dai Hai, Phan Truong Bao.
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3- 2012: 197 - 203
* Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Phạm Phú Phát ĐT: 0913903232 Email: phatphm@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 197
Introduction: Laparoscopic partial nephrectomy is an emerging minimally invasive, nephron sparing
approach for renal tumor.
Objective: We describe our technique of single center with purely retroperitoneal laparoscopic partial
nephrectomy with controling of renal vessel.
Material and technique: From January 2009 to April 2012, the retroperitoneal approache for laparoscopic
partial nephrectomy has been performed in 40 patients (1 patient has solitary kidney and 1 patient has bilateral
renal tumor). This procedure was realized by 3 or 4 ports. The renal artery was controlled by the elastic string.
The tumor was removed by the cold cisor.The collecting system was closed by Vicryl 3-0 or 4-0, and renal
parenchyma closure by Vicryl 1-0 over Surgicel bolster for large defects. All sutures was locked by clip and Hem-
O-Lock.
Results: Mean tumor size was 33.1mm (range:12mm to 68.2mm ). The tumoral position was divided as
follow: right (21 patients, 52.5%), lelf (19 patients, 47.5%), upper pole(15patients, 38.6%), median (8 patients,
20%) lower pole (17 patients, 42.5%). The mean operating time and warm ischemia time was 145.25min (range:
60min to 255min) and 23.8min (range: 12min to 45min). The median estimated blood loss was 84.4ml (range:
2ml to 500ml). The pelvicaliceal system was entered and repaired in 24 patients (60%). Four patients were found
to have positive of the surgical margin, (including 1 cas the tumor base broken). Histopathologic examination
confirmed RCC in 24 patients (60%), AML in 14 patients (35%) and adrenal tumor in 2 patient (5%).
Transfusion was required in 2 patients. 1 case was convert cause hemorragie. 1case suffered a nephrectomy after 2
months.
Conclusion: Laparoscopic partial nephrectomy, in the developped country, is an attractive alternative to
open partial nephrectomy for traitment of small renal tumor. In Viet Nam condition, this technique is feasible and
safety by the hands of experienced laparoscopic surgeon. On the basic of our experience, the selection of patients
(the small tumor (1cm) seem to be required to reduce the risk of
complication.
Key words: Laparoscopic partial nephrectomy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới cắt bán phần thận đã được chỉ
định rộng rãi tại các trung tâm lớn đặc biệt là ở
những bướu thận có kích thước < 4cm giai đoạn
T1a, do đã có những nghiên cứu theo dõi trong
thời gian dài. Alizera Moinzadeh và cộng sự
(2006) theo dõi 3 năm trên 100 bệnh nhân kết
quả không phát hiện thấy tái phát bướu tại nơi
cắt hoặc nơi đặt trocar(7) Amr F Fergany và cộng
sự (2000). Tương tự Harry W. Herr (1999) theo
dõi 10 năm trên 70 bệnh nhân với kết quả 98,5%
không có tái phát tại chổ, 97% sống sót không có
di căn(5).
Một số tác giả đã thực hiện thành công phẫu
thuật nội soi cắt bán phần thận với một lỗ vào
(LESS) điển hình là Monish Aron và cộng sự đã
thực hiện thành công trên 4 bệnh nhân với thời
gian thiếu máu nóng trung bình là 20 phút
(2008)(7).
Nhìn chung phẫu thuật nội soi cắt bán phần
thận bướu thận nhỏ đã được áp dụng nhiều trên
thế giới. Tại Việt Nam đến năm 2007 mới có báo
cáo của C.Q. Thuận nhân hai trường hợp cắt
thận bán phần qua nội soi tại bệnh viện Chợ
Rẫy(1) Sau đó tại bệnh viện Bình Dân cũng đã
báo cáo 12 trường hợp N.P.C. Hoàng (2009)(8).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Loại hình nghiên cứu
-Nghiên cứu tiền cứu.
-Can thiệp lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 198
-Các bệnh nhân đến khám và điều trị tại
bệnh viện Bình Dân.
-Được chẩn đoán là bướu thận (lành tính
hoặc ác tính).
-Bướu còn khu trú trong thận (giai đoạn T1,
theo phân loại TNM 2002 nếu là bướu ác).
-Vị trí nằm cách rốn thận ít nhất 1cm.
Các bước tiến hành
Khám bệnh, chẩn đoán, làm bệnh án mẫu.
Tiến hành phẫu thuật.
Theo dõi hậu phẫu.
Ghi nhận thông tin cần nghiên cứu.
Thu thập xử lý số liệu.
Kỹ thuật mổ
-Chuẩn bị bệnh nhân tương tự như các cuộc
mổ khác, đặt thông tiểu.
-Gây mê nội khí quản.
-Bệnh nhân nằm tư thế nghiêng 90° bên dưới
hông được kê cao để làm rộng phẫu trường. Cố
định bệnh nhân để khi cần thay đổi tư thế bệnh
nhân trong lúc mổ không sợ bị rơi bệnh nhân.
Sát trùng rộng vùng hông lưng để có thể chuyển
mổ hở nếu cần.
-Vị trí kíp mổ: phẫu thuật viên đứng sau
bệnh nhân. Người phụ đứng bên cạnh phẫu
thuật viên (phía chân của bệnh nhân) điều
dưỡng dụng cụ đứng phía trước bệnh nhân đối
diện với phẫu thuật viên.
-Vị trí trang thiết bị: monitor và các thiết bị
nội soi đặt ở phía trước phẫu thuật viên và
người phụ.
-Các bước phẫu thuật nội soi ngoài phúc
mạc cắt bán phần thận:
+Rạch da dưới sườn 12 ngay đường nách
sau để tạo khoang sau phúc mạc. Đặt trocar thứ
2 ngay vị trí trên mào chậu đường nách giữa.
Đặt trocar thứ 3 ngay đường nách trước sau cho
tạo thành tam giác với 2 trocar còn lại. Lúc này
vị trí của trocar thứ 2 trên mào chậu được dùng
đặt ống soi ổ bụng 2 trocar còn lại dùng để thao
tác. Khi khó khăn có thể đặt thêm trocar thứ 4.
+Vén phúc mạc và mỡ lấy cơ psoas làm
chuẩn; phía bên phải đi theo tĩnh mạch chủ phía
bên trái đi theo động mạch chủ hướng lên trên
để tìm rốn thận, sau khi thấy rốn thận bóc tách
bộc lộ động mạch.
+Rạch da 2mm từ phía sau lưng dùng kim
lớn đưa dây thun khống chế mạch máu vào, đưa
đầu dây thun vào đến rốn thận quấn dây thun 2
vòng quanh động mạch ,vẫn để dây thun thả
lỏng để không làm thắt nghẽn mạch máu.
+Bóc tách mỡ Gerota quanh bướu nhằm bộc
lộ rõ ràng vị trí bướu.
+Kéo dây thun để khống chế mạch máu.
+Tiến hành cắt bỏ bướu bằng kéo, dao điện
hoặc siêu âm (Harmonic Scalpel).
+Lấy mẫu mô tại giường bướu.
+Dùng chỉ Vicryl 4.0 khâu đài bể thận nếu có
cắt đi 1 phần. Khâu tiếp lớp thứ 2 chủ mô thận
(có thể sử dụng gối độn Surgicel) và khóa chỉ
phía ngoài chủ mô thận bằng Hem-O-Lock và
kẹp kim loại.
+Ngưng khống chế mạch máu bằng cách thả
lỏng dây thun.
+Sau khi bảo đảm cầm máu tốt tháo dây
thun ra khỏi rốn thận.
+Cho bướu vào bao rồi lấy ra khỏi cơ thể.
+Đặt ống dẫn lưu.
+Đóng bụng khâu da cố định ống dẫn lưu.
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2009
đến tháng 4 năm 2012 chúng tôi đã can thiệp 40
trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán là bướu
thận giai đoạn T1 bằng phương pháp cắt bán
phần thận qua ngã nội soi sau phúc mạc, với số
tuổi bình quân là 47,8 tuổi ( từ 19 tuổi đến 74
tuổi), tỷ lệ giữa nam và nữ bằng nhau 20/20
trường hợp.
Lý do nhập viện đa số là đau hông lưng (35
trường hợp, bao gồm cả 3 trường hợp kèm theo
triệu chứng tiểu máu, sụt cân (1 trường hợp),
tình cờ phát hiện (4 trường hợp).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 199
Kích thước trung bình của bướu là 33,1mm
(12mm - 68,2mm). Vị trí của bướu được phân bổ
như sau: bên phải 21 trường hợp (52,5%), bên
trái 19 (47,5%), cực trên 15 (38,6%), cực giữa 8
(20%), cực dưới 17 (42,5%). Vị trí của bướu so
với chủ mô thận và đài thận được phân bổ như
sau: ngoại vi 11 trường hợp (27,5%), trung gian
23(57,5%), trung tâm 6(15%). Và khoảng cách
của bướu so với đài thận: >1cm và < 1cm mỗi
nhóm có 20 trường hợp (50%).
Có 2 bệnh nhân được xem là suy thận: 1
bệnh nhân suy thận thật sự và bệnh nhân còn lại
tiên lượng có khả năng suy thận trong tương lai,
vì bệnh nhân này có bướu thận 2 bên và dự định
sẽ cắt thận toàn phần cho bên còn lại do bướu
nằm sát rốn thận. Và có 1 trường hợp thận độc
nhất.
Một số bệnh nhânn có bệnh lý đi kèm như
cao huyết áp, thiểu năng vành, tiểu đường. 1
bệnh nhân có sỏi thận nhỏ đi kèm cùng bên với
bướu chúng tôi không thế lấy được sỏi, nên
quyết định sẽ tán sỏi ngoài cơ thể sau. 1 bệnh
nhân có thêm bướu tuyến thượng thận cùng bên
với bướu và đã được cắt bỏ cùng lúc với bướu
thận với kết quả giải phẫu bệnh là carcinome
tuyến thượng thận.
Thời gian mổ và thời gian thiếu máu nóng
lần lượt là 145,25 phút (60 phút – 255 phút) và
23,8 phút (12 phút – 45 phút). Lượng máu mất
trung bình là 84,4ml (2ml – 500ml).
Số lượng trocar sử dụng: 3 trocar (35 trường
hợp), 4 trocar (5 trường hợp). Trocar thứ 4
thường được sử dụng để vén làm rộng phẫu
trường hoặc hút máu làm sạch vùng chủ mô và
đài bể thận để thuận tiện cho việc khâu. Chúng
tôi chủ yếu dùng kéo cắt lạnh để cắt rời mô
bướu ra khỏi thận. Một trong những ca đầu tiên
chúng tôi có thử cắt chủ mô thận bằng dao cắt
laser (holmium) với mong muốn là cầm máu tốt
và không cần khống chế mạch máu thận.
Nhưng ngược lại chúng tôi buộc phải không chế
cuống thận do chảy máu.
Nhằm bảo đảm an toàn nhiều trường hợp
chúng tôi buộc phải cắt vào đài bể thận 24/40
trường hợp và may lại bằng Vicryl 3-0 hoặc 4-
0. Trong trường hợp nếu chủ mô bị khiếm
khuyết nhiều thì chúng tôi sử dụng gối độn
Surgicel (29/40 trường hợp). Toàn bộ các
đường chỉ may đều được khóa chỉ bằng kẹp
kim loại và Hemo-Lock.
Bờ mặt cắt lành tính sau khi cắt bướu
được quan sát bằng mắt của 32 trường hợp (8
trường hợp còn lại không có ghi nhận) cho kết
quả như sau: trung bình 4,9mm (1mm-10mm).
Chúng tôi thường lấy mặt đáy bướu từ 3 đến
6 mẫu mô để gởi xét nghiệm xem có còn tế
bào bướu hay không, số lượng trung bình
mẫu mô đáy bướu là 4,3 mẫu (30 bệnh nhân).
Kết quả giải phẫu bệnh của mô bướu cho thấy
có 24 (60%) trường hợp ung thư tế bào thận,
14 (35%) trường hợp là bướu cơ mỡ mạch máu
và 2 (5%) trường hợp là mô bướu của tuyến
thượng thận. 4 bệnh nhân được phát hiện
dương tính có tế bào bướu) trong mẫu thử
giải phẫu bệnh bờ mặt cắt lành tính (bao gồm
1 trường hợp đáy bướu bị vở trong quá trình
cắt bướu ra khỏi thận), trong đó có 3 trường
hợp là bướu lành tính, 1 trường hợp còn lại là
bướu ác (bướu dạng hình cầu có phân nhánh
không quan sát được trên MSCT trước mổ).
Thời gian trung bình dùng thuốc giảm đau
5,8 ngày, trung tiện 2,3 ngày, rút ống dẫn lưu 4,4
ngày và nằm viện 5 ngày. Kết quả siêu âm trước
khi xuất viện có 3 bệnh nhân tụ ít dịch hố thận
không cần phải can thiệp.
Trường hợp cần phải truyền máu có 2 bệnh
nhân. 1 trường hợp khác chuyển mổ hở với lý
do chảy máu không thể khâu cầm máu được
trên bệnh nhân có bướu thận 2 bên và dự kiến sẽ
cắt thận bên còn lại.1 trường hợp phình giả
động mạch tự khỏi không cần can thiệp. 1
trường hợp tụ dịch phải đặt lại dẫn lưu vào tuần
thứ 3. Và 1 trường hợp cắt thận sau 2 tháng do
kết quả MSCT nghi ngờ bướu thận xâm lấn cơ
thắt lưng chậu (kết quả giải phẫu bệnh sau đó
không có mô bướu), trước đó bệnh nhân này có
dò nước tiểu phải đặt JJ vào tuần thứ 2.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 200
BÀN LUẬN
Nhờ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật
nhất là việc phát minh ra máy soi và các dụng
cụ nội soi, nghành y đã có 1 bước chuyển biến
lớn trong việc ứng dụng kỹ thuật nội soi vào
trong các can thiệp ngoại khoa. Đây là hình thức
can thiệp ít xâm lấn với những lợi ích như là
giảm đau, thẩm mỹ, thời gian hồi phục sớm....
Vào cuối năm 1987 sau khi Philipe Mauret thực
hiện thành công phẫu thuật cắt túi mật qua ngã
nội soi ổ bụng, các phẫu thuật viên chuyên
ngành ngoại tổng quát đã bắt đầu thường xuyên
thực hiện các phẫu thuật qua ngã nội soi ổ bụng
như: cắt túi mật, cắt ruột thừa Đối với niệu
khoa và đặc biệt là phẫu thuật cắt thận đến năm
1991 mới được thực hiện thành công qua ngã
nội soi ổ bụng bởi Clayman(3) và cộng sự tại
bệnh viện Đại Học Washington. Với thời gian
mổ là 7 giờ cho bệnh nhân có kích thước bướu là
3cm.
Khởi đầu cắt thận nội soi được thực hiện ở
những bệnh nhân được chẩn đoán bướu lành
tính hoặc thận mất chức năng. Sau đó nhiều nơi
trên thế giới cũng bắt đầu can thiệp cắt thận qua
ngã nội soi cho các bệnh lý thận lành tính cũng
như ác tính. Kirbe và Clayman(6)đã thực hiện
được 20 trường hợp, với thời gian mổ trung
bình là 355 phút, sử dụng 5 lổ trocart,12% biến
chứng nặng và 19% biến chứng nhẹ.
Tại châu á Ono và cộng sự (1997)(9), cũng đã
sớm áp dụng kỹ thuật cắt thận qua ngã nội soi ổ
bụng, nhân 2 trường hợp.
Những ứng dụng đầu tiên kỹ thuật nội soi
để cắt thận trong giai đoạn đầu đã gây tranh cãi
và có nhiều ý kiến trái chiều nhau, nguyên nhân
là do lo sợ không thể kiểm soát được đầy đủ về
mặt ung thư học. Kinh nghiệm bên ngành phụ
khoa trước đó trong các y văn cũng đã chứng
minh là có hiện tượng gieo rác tế bào ung thư ở
các vị trí lổ trocart, không bảo đảm bờ cắt phẫu
thuật Quả thật vậy các nghiên cứu niệu khoa
về sau cũng đã cho thấy có tai biến này,
Iwamura (2004).
Trong giai đoạn đầu của phẫu thuật cắt thận
nội soi, có những bệnh nhân được lựa chọn là
những bệnh nhân có chỉ định mổ hở cắt bán
phần thận, nhằm giảm thương tật do cuộc mổ
hở gây ra.
Một thời gian sau các nghiên cứu so sánh
giữa cắt thận mổ hở và cắt thận nội soi cũng bắt
đầu xuất hiện, các nghiên cứu về cắt thận nội soi
ngày càng được báo cáo nhiều hơn và cũng xuất
hiện nhiều trường phái hơn.
Phẫu thuật cắt thận qua ngã nội soi bao gồm
2 đường vào: trong phúc mạc và ngoài phúc
mạc. Khởi đầu những người tiên phong chỉ sử
dụng đường trong phúc mạc, có lẽ đây là kế
thừa của các phẫu thuật viên ngoại tổng đã
quát. Vào năm 2003, Gaur tại Ấn Độ(4) báo cáo
trường hợp đầu tiên cắt thận nội soi qua ngã sau
phúc mạc. Đường vào trong hoặc ngoài phúc
mạc được lựa chọn tùy theo sở thích của phẫu
thuật viên, mỗi đường đều có thuận lợi và bất
lợi của chính nó.
-Đường vào phúc mạc giúp cho phẫu thuật
viên có được khoang làm việc rộng hơn, phẫu
trường dễ nhìn hơn vì nó quen thuộc với hình
ảnh giải phẫu học trong ổ bụng.
-Đường ngoài phúc mạc cho phép khống
chế động mạch thận nhanh và dễ dảng hơn do
tiếp cận từ mặt sau. Đồng thời cũng tránh được
hiện tượng dính nhau của các tạng ổ bụng sau
mổ.
Dựa vào các bài báo cáo trên các tạp chí y
văn thì chúng ta nhận thấy đa số các tác giả
chọn đường xuyên phúc mạc. Mặc dù các
nghiên cứu cho thấy kết quả của 2 lựa chọn
đường vào bên trên không khác nhau về thời
gian mổ, giá tiền, thời gian nằm viện, thời gian
hồi phục.
Ngoài ra còn có nội soi ổ bụng với bàn tay
hỗ trợ, đây xem như giai đoạn chuyển đổi từ mổ
hở sang nội soi. Vì khi thao tác có bàn tay cảm
giác bên trong phẫu thuật viên cảm thấy yên
tâm và tự tin hơn. Tuy nhiên phương pháp này
hiện nay ít dùng vì không đạt được hoàn hảo
yêu cầu thẩm mỹ của nội soi. Và nhất là kỹ năng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 201
thao tác của phẫu thuật viên đã được nâng lên
rất nhiều nên không còn cần bàn tay trợ giúp
nữa.
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn
đường ngoài phúc mạc vì phù hợp với giải
phẩu học của niệu khoa cơ quan ngoài phúc
mạc, không ảnh hưởng các tạng trong ổ bụng và
đồng thời tiếp cận động mạch thận nhanh
chóng hơn.
Tuy nhiên đối với can thiệp cắt bán phần
thận qua soi ngã nội là phẫu thuật tương đối
phức tạp bởi vì thận là tạng đặc chứa nhiều
máu, lượng máu đến 2 thận chiếm đến 20%
cung lượng tim mặc dù trọng lượng 2 quả thận
chiếm không quá 1% trọng lượng cơ thể.
Do đó xem xét các phương tiện và kỹ thuật
cầm máu sẽ bảo đảm cho khả năng thành công
của phẫu thuật có bảo tồn chủ mô thận nhất là
những can thiệp qua ngã nội soi.
Bởi vì yêu cầu của kỹ thuật cắt bán phần
thận là phải cắt ngang qua chủ mô thận nơi
chứa nhiều mạch máu, cho nên thao tác này
thường được xem là nguyên nhân chính của
chảy máu. Chảy máu ở đây chúng tôi muốn nói
đến tất cả các thời điểm chảy máu: trong lúc mổ,
ngay sau khi mổ, hoặc trể hơn là vài ngày sau
mổ, hoặc vài tuần Do đó để quá trình khống
chế mạch máu diễn ra thuận lợi và hoàn hảo,
trước khi mổ phẫu thuật viên cần phải nắm rõ
giải phẫu học mạch máu thận của chính bệnh
nhân thông qua các xét nghiệm như: chụp cắt
lớp nhiều lát cắt có dựng hình mạch máu, chụp
mạch máu, cộng hưởng từ Cũng như vị trí và
kích thước bướu phải được xác định xem có đe
dọa đến vấn đề chảy máu trong lúc mổ hay
không? Từ đó sẽ ra chiến lược khống chế mạch
mạch máu.
Có nhiều quan điểm kẹp rốn thận.
-Kẹp động mạch và tĩnh mạch riêng rẽ bảo
đảm kiểm soát tốt các mạch máu.
-Kẹp 1 khối chung động tĩnh mạch tránh bóc
tách gây tổn thương mạch máu.
-Kẹp động mạch dựa vào nguyên lý áp lực
bơm hơi vào ổ bụng lớn làm giảm chảy máu
tĩnh mạch.
Chúng tôi lựa chọn k