Mục tiêu: Khảo sát nguyên nhân gây bít tắc ngách trán sau phẫu thuật nội soi mũi xoang (PTNSMX), và đưa ra phương pháp mở ngách trán qua nội soi với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều (IGS). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện trên 31 ngách trán (20 bệnh nhân) bị tắc ngách trán gây viêm xoang trán mạn tính sau PTNSMX. Bênh nhân được phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều, thực hiện tại bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM từ 3/2008 đến tháng 12/2010. Kết quả: Có 31 ngách trán (20 bệnh nhân) bị tắc do PTNSMX trước đó, được phẫu thuật mở thông ngách trán qua nội soi với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều (IGS). Tất cả các trường hợp đều mở được ngách trán mà không có biến chứng ổ mắt hay nội sọ. Nguyên nhân gây tắc xoang trán bao gồm: sẹo dính (54,8%), còn tế bào sàng trước (58,1%), còn tế bào Agger nasi (70,9%), có tế bào ngách trán (58,1%), xương tân tạo vùng ngách trán (51,6%), cuốn giữa đi ra ngoài (41,9%), bệnh lý niêm mạc/polyp (61,3%). Đa số trường hợp có nhiều hơn 1 nguyên nhân kể trên, trung bình là 3,6. Theo dõi sau mổ thời gian trung bình 6 tháng: 27 TH (87,1%) ngách trán thông thoáng, 3 TH (9,7%) có polyp nhỏ ở ngách trán, có 1 TH (3,2%) tắc ngách trán hoàn toàn sau mổ 1 tháng cần phải phẫu thuật lại. Kết luận: Phẫu thuật mở lại ngách trán qua nội soi là một trong những phẫu thuật khó nhất đối với phẫu thuật viên mũi xoang. Hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba chiều giúp cho phẫu thuật được hiệu quả và an toàn hơn. Phương pháp mổ phù hợp và chăm sóc sau mổ cẩn thận đóng vai trò quan trọng trong thành công điều trị và giảm thiểu tỉ lệ tái phát.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật điều trị tắc ngách trán sau phẫu thuật nội soi mũi xoang với hệ thống hướng dẫn hình ảnh (IGS), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 169
PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ TẮC NGÁCH TRÁN SAU PHẪU THUẬT NỘI SOI
MŨI XOANG VỚI HỆ THỐNG HƯỚNG DẪN HÌNH ẢNH (IGS)
Trần Viết Luân*, Nguyễn Thị Ngọc Dung**, Nhan Trừng Sơn*
TÓM TẮT:
Mục tiêu: Khảo sát nguyên nhân gây bít tắc ngách trán sau phẫu thuật nội soi mũi xoang (PTNSMX), và
đưa ra phương pháp mở ngách trán qua nội soi với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều (IGS).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực hiện trên 31 ngách trán (20 bệnh nhân) bị tắc ngách
trán gây viêm xoang trán mạn tính sau PTNSMX. Bênh nhân được phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống
hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều, thực hiện tại bệnh viện Tai Mũi Họng TPHCM từ 3/2008 đến tháng
12/2010.
Kết quả: Có 31 ngách trán (20 bệnh nhân) bị tắc do PTNSMX trước đó, được phẫu thuật mở thông ngách
trán qua nội soi với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị 3 chiều (IGS). Tất cả các trường hợp đều mở được
ngách trán mà không có biến chứng ổ mắt hay nội sọ. Nguyên nhân gây tắc xoang trán bao gồm: sẹo dính
(54,8%), còn tế bào sàng trước (58,1%), còn tế bào Agger nasi (70,9%), có tế bào ngách trán (58,1%), xương tân
tạo vùng ngách trán (51,6%), cuốn giữa đi ra ngoài (41,9%), bệnh lý niêm mạc/polyp (61,3%). Đa số trường
hợp có nhiều hơn 1 nguyên nhân kể trên, trung bình là 3,6. Theo dõi sau mổ thời gian trung bình 6 tháng: 27
TH (87,1%) ngách trán thông thoáng, 3 TH (9,7%) có polyp nhỏ ở ngách trán, có 1 TH (3,2%) tắc ngách trán
hoàn toàn sau mổ 1 tháng cần phải phẫu thuật lại.
Kết luận: Phẫu thuật mở lại ngách trán qua nội soi là một trong những phẫu thuật khó nhất đối với phẫu
thuật viên mũi xoang. Hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba chiều giúp cho phẫu thuật được hiệu quả và an
toàn hơn. Phương pháp mổ phù hợp và chăm sóc sau mổ cẩn thận đóng vai trò quan trọng trong thành công điều
trị và giảm thiểu tỉ lệ tái phát.
Từ khóa: Hệ thống hướng dẫn hình ảnh, phẫu thuật mở lại ngách trán qua nội soi.
ABSTRACT
REVISION ENDOSCOPIC FRONTAL SINUS SURGERY WITH IGS
Tran Viet Luan, Nguyen Thi Ngoc Dung, Nhan Trung Son
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 169 - 174
Objectives: To explore the causes of frontal recess obstruction after previous endoscopic sinus surgery; and
perform revision endoscopic frontal recess surgery with an image guidance sytem (IGS).
Methods: A prospective study 31 frontal recesses (20 patients), with the past history of endoscopic sinus
surgery, undergoing revision endoscopic frontal recess surgery with an image guidance system at ENT Hospital-
Ho Chi Minh city, Vietnam between March 2008 and December 2010.
Results: The surgery was successfully completed in all 31 frontal recesses (20 patients) without orbital or
intracranial complications. The causes were identified: synechia (54.8), retained ethmoid cells (58.1%), retained
Agger nasi cell (70.9%), frontal recess cells (58.1%), frontal recess neoosteogenesis (51.6%), lateralized middle
turbinates (41.9%), and mucosal disease/polyp (61.3%). The mean follow-up duration was 6 months.
* Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP. HCM, ** Bộ môn TMH Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS BS. Trần Viết Luân ĐT: 0908137755 Email: luantranviet@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 170
Postoperatively, 27 cases (87.1%) had patent frontal recess; 3 cases (9.7%) had small polyp at frontal recess, 1 case
(3.2%) had recurrent frontal recess obstrution and needed second revision surgery.
Conclusion Revision endoscopic surgery of the frontal recess remains one of the most difficult operations for
the endoscopic surgeon. Image guidance system helps to obtain an effective and safe surgery. The proper surgical
technique and good post operative care are very important in order to get good results and to prevent the
reccurrence.
Key words: Image guidance system, revision endoscopic surgery of the frontal recess.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật nội soi mũi xoang ngày càng
phát triển rộng rãi, tuy nhiên cũng dẫn đến xuất
hiện tần suất ngày càng nhiều các biến chứng
của PTNSMX. Tại bệnh viện Tai Mũi Họng
TPHCM, chúng tôi tiếp nhận ngày càng nhiều
các trường hợp bít tắc ngách trán có tiền căn
phẫu thuật nội soi mũi xoang ở các bệnh viện
khác, đây là biến chứng muộn rất khó điều trị.
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm khảo sát các
gây nguyên nhân bít tắc ngách trán trên bệnh
nhân có tiền căn phẫu thuật nội soi mũi xoang,
có hay không có động chạm trực tiếp đến cấu
trúc ngách trán và xoang trán, và đưa ra phương
pháp điều trị phẫu thuật nội soi ngách trán với
IGS có hiệu quả.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân 16 tuổi đến khám tại bệnh viện
Tai Mũi Họng TP.HCM có tiền căn phẫu thuật
nội soi mũi xoang trước đó, bị viêm xoang trán
mạn tính, không đáp ứng với điều trị nội khoa
và có chỉ định phẫu thuật mở ngách trán qua
nội soi.
Mẫu nghiên cứu là 31 ngách trán của 20
bệnh nhân được phẫu thuật mở ngách trán qua
nội soi với IGS.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tiến cứu mô tả -
ứng dụng kỹ thuật mới.
Các bước tiến hành nghiên cứu
Chọn bệnh nghiên cứu.
Ghi nhận các nguyên nhân có thể gây tắc
ngách trán sau phẫu thuật nội soi.
Tiến hành phẫu thuật ngách trán với hệ
thống hướng dẫn hình ảnh IGS.
Theo dõi và đánh giá sự thông thoáng ngách
trán sau mổ.
Thu thập và phân tích số liệu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số ngách trán được mổ: 31
Số lần phẫu thuật NSMX trước đó: 24 trường
hợp mổ 1 lần (77,4%), 1 trường hợp mổ 2 lần
(3,2%), 4 trường hợp mổ 3 lần (12,9%) và 2
trường hợp mổ 4 lần (6,5%).
Triệu chứng cơ năng nổi bật trước mổ là
nhức đầu vùng trán: 20/20 bệnh nhân (100%).
Nguyên nhân có thể gây bít tắc ngách trán
bao gồm: 17 TH (54,8%) có sẹo dính vùng sàng
trước (trong đó 12 TH ngách trán bị sẹo dính bít
tắc hoàn toàn), 18 TH (58,1%) còn tế bào sàng
trước, 22 TH (70,9%) còn tế bào Agger nasi , 18
TH (58,1%) trường hợp có tế bào ngách trán, 13
TH (41,9%) cuốn giữa bị đẩy ra ngoài (trong đó
6 TH cuốn giữa bị cắt cụt không hoàn toàn), 16
TH (51,6%) có xương tân tạo vùng ngách trán, 19
TH (61,3%) do bệnh lý niêm mạc/polyp. Đa số
trường hợp có nhiều hơn 1 nguyên nhân kể trên,
trung bình là 3,6.
Trong 18 trường hợp có tế bào ngách trán:
Có 15 trường hợp có 1 loại tế bào ngách trán bao
gồm: 2 trường hợp có tế bào K1, 2 trường hợp có
tế bào K2, 1 trường hợp có tế bào K3, 7 trường
hợp có tế bào trên bóng, 3 trường hợp có tế bào
bóng trán; Và 3 trường hợp có cả 2 loại tế bào
ngách trán bao gồm: 1 trường hợp có tế bào trên
ổ mắt và tế bào trên bóng, 1 trường hợp có tế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 171
bào trên ổ mắt và tế bào bóng trán, 1 TH có tế
bào K1 và tế bào trên bóng.
Trong 13 TH cuốn giữa bị đẩy ra ngoài, có 6
TH cuốn giữa bị cắt cụt không hoàn toàn. Cuốn
giữa bị cắt cụt không hoàn toàn có khuynh
hướng đi ra ngoài và dính vào vách mũi xoang
gây bít tắc ngách trán.
CT scan trước mổ của xoang trán: 13 TH mờ
không hoàn toàn (41,9%), 18 TH mờ hoàn toàn
(58,1%).
Tất cả 31 trường hợp đều mở được ngách
trán. Có 4 TH có tạo vạt niêm mạc vùng Agger
nasi-chân bám cuốn giữa; 6 trường hợp được tạo
dính chủ động cuốn giữa- vách ngăn nhằm
ngừa dính cuốn giữa vách mũi xoang tái phát
gây hẹp ngách trán.
Theo dõi sau mổ đến 6 tháng: Có 27 trường
hợp ngách trán thông thoáng, 3 trường hợp có
polyp nhỏ ở ngách trán được lấy bỏ tại phòng
soi dưới gây tê sau đó cho kết quả tốt không cần
phẫu thuật lại, có 1 trường hợp tắc ngách trán
hoàn toàn sau mổ 1 tháng phải phẫu thuật lại.
BÀN LUẬN
Nguyên nhân gây bít tắc ngách trán, xoang
trán sau phẫu thuật nội soi mũi xoang
Theo Kuhn: Ba nguyên nhân chính gây sẹo
hẹp bít tắc ngách trán sau phẫu thuật nội soi
xoang trán là : (1) không lấy đủ tế bào Agger
nasi và các tế bào sàng trán; (2) lột bỏ niêm mạc
nhiều hay phẫu tích thô bạo dẫn tới tạo mô sẹo,
viêm xương, và tạo xương mới; (3) cuốn giữa bị
đẩy ra ngoài về phía vách mũi xoang hoặc bị cắt
cụt một phần nên gây dính bít tắc ngách trán.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các
bệnh nhân có tiền căn PTNSMX ở nơi khác và
trong giấy xuất viện không ghi rõ có được phẫu
thuật ngách trán hay không, nên chúng tôi dựa
vào bệnh tích, tình trạng sẹo hẹp qua nội soi và
hình ảnh CT scan trước mổ và bệnh tích trong
khi mổ để phỏng đoán bệnh nhân có được phẫu
thuật liên quan đến ngách trán hay chưa. Các
nguyên nhân có thể gây ra bít tắc ngách trán
trong lô nghiên cứu của chúng tôi bao gồm:
Dính cuốn giữa và vách mũi xoang có hay
không kèm cuốn giữa bị cắt cụt không hoàn
toàn:
Dính cuốn giữa vào vách mũi xoang có thể
do các nguyên nhân sau: phẫu thuật gây xây sát
nhiều ở cuốn giữa và vách mũi xoang, đặt bấc
mũi không đúng kỹ thuật đẩy cuốn giữa ra
ngoài, không phát hiện và tách dính sớm sau
mổ, hoặc do cấu trúc tự nhiên của cuốn giữa
cong ngược, dễ gây dính vào vách mũi xoang
sau mổ (5). Nếu phát hiện sớm sau mổ có thể tách
dính dưới gây tê tại phòng soi, có thể kết hợp
bôi mytomicin chống dính. Trong trường hợp
dính mức độ nhiều, mô sẹo dày chắc gây bít tắc
cần phải mổ lại. Khi phẫu thuật lại, cần lấy bỏ
mô sẹo, xương tân tạo, các tế bào sàng còn sót ở
khe giữa để làm rộng hố sàng. Một trong những
nguyên nhân gây dính cuốn giữa-vách mũi
xoang thường gặp là cuốn giữa bị cắt cụt không
hoàn toàn, khiến phần còn lại của cuốn giữa có
khuynh hướng đi ra ngoài gây dính làm bít tắc
ngách trán. Khi mổ lại chúng tôi gây dính chủ
động cuốn giữa và vách ngăn để ngăn ngừa tái
phát. Trong trường hợp bắt buộc phải cắt bỏ
cuốn giữa như trong phẫu thuật bệnh lý khối u
thì cần cắt sát đến chỗ bám của nó. Cần tránh tối
đa cắt cuốn giữa khi PTNSMX vì dễ gây dính,
cũng như gây rất nhiều khó khăn cho phẫu
thuật viên khi phải mổ lại vì mất mốc giải phẫu
quan trọng là cuốn giữa.
Dính cuốn giữa – vách mũi xoang có thể gây
viêm xoang trán sau mổ do bít tắc ngách trán
cho dù trước đó phẫu thuật nội soi không động
chạm đến ngách trán và bệnh nhân không bị
viêm xoang trán. Đây là nguyên nhân gây tắc
xoang trán do thầy thuốc gây ra nếu trước khi
mổ bệnh nhân không bị viêm xoang trán.
Phẫu thuật nạo sàng trước còn sót tế bào
sàng: Đây cũng là nguyên nhân khá thường gặp
gây tắc ngách trán: do hố nạo sàng hẹp dễ bị bít
tắc và tạo mô sẹo và xương tân tạo
Phẫu thuật ngách trán thô bạo, lột bỏ niêm
mạc gây sẹo hẹp, xương tân tạo:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 172
Hình 1: Cuốn giữa đi ra ngoài và dính vào vách mũi
xoang làm bít tắc ngách trán do cắt bán phần cuốn
giữa.
Nếu lột bỏ niêm mạc nhiều, sẽ gây viêm
xương do không có niêm mạc che phủ dẫn đến
hình thành sẹo dính và xương tân tạo. Phẫu
thuật mở lại xoang trán trong các trường hợp
này thường gặp nhiều khó khăn do xương tân
tạo dày và cứng, dễ chảy máu, đồng thời các cấu
trúc giải phẫu bị biến dạng hay bị mất như
Agger nasi, phần cao mỏm móc. Trường hợp bị
bít tắc ngách trán hoàn toàn, khi thăm dò sẽ
không tìm được đường lên xoang trán, khả năng
gây tai biến chảy dịch não tủy hay vỡ xương
giấy cao. Hệ thống hướng dẫn hình ảnh (IGS)
trong trường hợp này rât hữu ích, giúp tìm ra
đường vào ngách trán và xoang trán được an
toàn, nhất là khi cần đột phá qua một lớp xương
cứng để vào được xoang trán.
(A) (B)
Hình 2: Ngách trán bị tắc hoàn toàn (A) và được mở rộng với với hệ thống hướng dẫn định vi ba chiều IGS (B).
Phẫu thuật mở ngách trán không đủ rộng,
không lấy hết tế bào Agger nasi, không lấy bỏ
các tế bào vùng ngách trán (5,6): Đây là lỗi thường
gặp nếu phẫu thuật viên không được huấn
luyện mổ ngách trán đúng cách, không đủ trang
thiết bị cần thiết. Ngách trán nằm cao và ra
trước, khó thao tác khi phẫu thuật, nhất là khi có
sử hiện diện của các tế bào nằm cao trong ngách
trán như tế bào K3, tế bào bóng trán, đòi hỏi
phải sử dụng các dụng cụ gập góc thích hợp
như J currette, kềm Giraffe, Do đó cần đánh
giá kỹ cấu trúc ngách trán trên CT scan trước mổ
để tiên lượng mức độ khó của phẫu thuật, để có
kế hoạch mổ thích hợp. IGS trong trường hợp
này đặc biệt hữu ích giúp lấy hết các tế bào gây
tắc nghẽn ngách trán. Phẫu thuật mở ngách trán
còn sót Agger nasi và các tế bào ngách trán gây
viêm xoang trán tái phát là nguyên nhân khá
thường gặp trong lô nghiên cứu của chúng tôi.
Động chạm đến lỗ thông tự nhiên xoang
trán mà không mở rộng nó : lỗ thông xoáng trán
là phần cao nhất của ngách trán, khi bị tổn
thương niêm mạc ở vùng này sẽ rất dễ gây sẹo
hẹp bít tắc xoang trán và sẽ rất khó khi mổ lại,
và ngay cả khi mổ lại được ngách trán rộng, tỷ
lệ tái phát vẫn rất cao (9).
Trong lô nghiên cứu, có 1 bệnh nhân tái phát
do phẫu thuật trước lột bỏ niêm mạc nhiều và
động chạm đến lỗ thông tự nhiên của xoang
trán, đồng thời bệnh nhân có cơ địa sẹo hẹp. Khi
mổ lại chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn do mô
sẹo nhiều, xương tân tạo bít toàn bộ ngách trán
rất dày và cứng, hốc sàng gần như không còn.
Với hướng dẫn của IGS, chúng tôi đã mở được
ngách trán khá rộng sau khi đã lấy bỏ xương tân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 173
tạo, nhưng lại không có niêm mạc che phủ.
Bệnh nhân này hoàn toàn sau mổ 1 tháng bị bít
tắc ngách trán do mô hạt viêm và mô sẹo, dù
được chăm sóc tích cực và chấm mytomicin và
dùng corticoid uống và xịt mũi. Khi mổ lại
chúng tôi phải dùng khoan để mở rộng sàn
xoang trán.
Do lỗ thông xoang trán rất dễ bị sẹo hẹp,
nhất là khi tổn thương niêm mạc trên toàn bộ
chu vi lỗ thông, nên khi phẫu thuật ngách trán
tuyệt đối không đụng chạm đến lỗ thông tự
nhiên của nó. Trong trường hợp bắt buộc phải
mở rộng lỗ thông thì phải mở rộng tối đa bằng
khoan để tránh bít tắc sau mổ.
Bệnh lý niêm mạc: bệnh tái phát do bệnh lý
niêm mạc hay polyp mũi: dấu hiệu thường gặp
là dày và thoái hóa niêm mạc, hay polyp ở
ngách trán và xoang trán (6). Trong trường hợp
này, nếu phẫu thuật viên đưa được ống hút
cong đường kính 3mm qua được polyp hay
niêm mạc phù nề ở ngách trán vào xoang trán
(chứng tỏ không có tắc nghẽn do các cấu trúc
xương) thì không cần phẫu thuật lại mà chỉ cần
lấy polyp dưới gây tê tại phòng soi, và có thể
thực hiện nhiều lần kèm theo nên điều trị nội
khoa tích cực. Nguyên nhân tái phát trong
trường hợp này không phải do lỗi của phẫu
thuật viên, mà do cơ địa của bệnh nhân.
Mổ lại trong những trường hợp này (khi có
chỉ định) tương đối đơn giản vì cấu trúc xương
của ngách trán đã được mở đủ rộng, chỉ cần lấy
bỏ polyp và và làm mỏng niêm mạc dày thoái
hóa là có thể phục hồi lại sự thông thoáng của
ngách trán (8).Tuy nhiên vẫn cần phải bảo tồn
niêm mạc để tránh gây sẹo hẹp. Sau mổ cần điều
trị nội khoa tích cực bệnh lý niêm mạc.
Các bệnh nhân trong lô nghiên cứu đa số có
nhiều hơn 1 trong số các nguyên nhân kể trên,
trung bình là 3,6.
Như vậy phẫu thuật ngách trán không đúng
mức hoặc quá mức đều dẫn đến kết quả không
mong muốn. Không có quan điểm phẫu thuật
“nửa vời” hay phẫu thuật ngách trán bán phần
hay từng phần, nếu đã phẫu thuật ngách trán thì
phải lấy sạch các tế bào; vì nếu không lấy hết các
tế bào dễ gây hẹp tái phát do không đủ rộng, tạo
mô sẹo (9).
Phẫu thuật mở lại ngách trán với IGS
Phẫu thuật viên cần đánh giá kỹ phim CT
scan trước mổ: có còn sót tế bào Agger nasi , còn
sót phần cao mỏm móc, còn các tế bào ngách
trán, mức độ thông khí của xoang trán, đường
kính trước sau của ngách trán, có xương tân tạo
hay không để tiên lượng mức độ khó của phẫu
thuật trước khi quyết định phẫu thuật lại cho
bênh nhân.
Do là phẫu thuật mổ lại nên các mốc giải
phẫu thường mất hoặc bị biến dạng, cuốn giữa
có thể không còn hoặc bị cắt cụt một phần gây
khó khăn cho cuộc mổ. Xương tân tạo sẽ gây bít
tắc và dễ chảy máu, gây khó khăn cho việc tìm
đường đi vào xoang trán. Cần lưu ý sàn sọ có
khuynh hướng thấp dần về phía trong, về phía
chỗ bám cuốn giữa, ở nơi đi ra của động mạch
sàng trước: sàn sọ chỗ này mỏng, dễ bị tổn
thương gây chảy dịch não tủy (1,3,5).
IGS giúp xác định các mốc quan trọng: sàn
sọ, xương giấy, động mạch sàn trước, vị trí đi
vào ngách trán an toàn. IGS giúp xác định và lấy
bỏ các tế bào ngách trán hiệu quả và an toàn (4).
Tại bệnh viện Tai Mũi Họng TP.HCM, hiện nay
đối với đa số các trường hợp phẫu thuật mở lại
ngách trán, chúng tôi đều sử dụng IGS.
Nếu có dính cuốn giữa vào vách mũi xoang
thi tách dính và lấy bỏ toàn bộ xương tân tạo và
tế bào sàng trước còn sót lại nhằm tránh dính tái
phát. Lấy sạch các tế bào sàng trước còn lại,
thăm dò và lấy phần còn lại của Agger nasi, các
tế bào ngách trán nếu có, bảo tồn tối đa niêm
mạc, tránh động chạm đến lỗ thông tự nhiên của
xoang trán.
Trong trường hợp có xương tân tạo, cần
thao tác cẩn thận, có khi phải dùng khoan. Nếu
có sẹo hẹp bít tắc ở vùng ostium xoang trán thì
cần phải mở rộng ostium xoang trán, lấy bỏ sàn
xoang trán theo Draft IIA hay Draf IIB. Trường
hợp đã phẫu thuật Draft IIB thất bại thì xem xét
phẫu thuật Draft III (2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 174
Trương hợp cuốn giữa đã bị cắt cụt một
phần, cần tạo dính cuốn giữa vào vách ngăn để
tránh cuốn giữa đi ra ngoài làm bít tắc ngách
trán.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật lại ngách trán qua nội soi xoang
trán là phẫu thuật rất khó, còn nhiều thách thức
với các phẫu thuật viên mũi xoang. Những tiến
bộ về phương tiện, dụng cụ mổ và đặc biệt là hệ
thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba chiều
giúp cho phẫu thuật được hiệu quả và an toàn
hơn. Phẫu thuật viên cần có chỉ định và phương
pháp mổ phù hợp với mức độ và nguyên nhân
gây tắc ngách trán do PTNSMX, và chăm sóc
sau mổ tỉ mỉ, chu đáo để giảm thiểu tỉ lệ tái
phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chiu AG., Kennedy DW (2005), “Revision endoscopic
frontal sinus surgery’”. The Frontal Sinus, Springer, Thieme
Medical, pp191-199.
2. Draft W (2005), “Endonasal Frontal Sinus Drainage Type I-
III According to Draf”. The Frontal Sinus, Thieme Medical,
pp 219-232.
3. Loehrl TA. et al. (2000), "Use of computer-aided surgery for
frontal sinus ventilation", Laryngoscope110: November 2000,
pp 1962-1967.
4. Metson R, Ung F (2005) “ Image guidance in frontal sinus
surgery” The Frontal Sinus, Thieme Medical, pp202-209.
5. Orlandi RR, Kennedy DW (2001) “Revision endoscopic
frontal sinus surgery” Current Opinion Otolaryngol Head
Neck Surgery, Lippincott Williams & Wilkins, Inc.9:77–90
6. Otto KJ, DelGau dio JM (2010) “Operative findings in the
frontal recess at time of revision surgery”Am J Otolaryngol.
May-Jun 2010;31(3).
7. Smith TL. et al (2001), “Surgical management of frontal
sinusitis”. Current Opinion Otolaryngol Head Neck
Surgery, Lippincott Williams & Wilkins, Inc.9:42–47
8. Stankiewicz JA, Chow JM. (2005) “The frontal sinus and
nasal polyps”, The Frontal Sinus, Springer, pp 87-93
9. Wormald (2008), “Surgical approach to the frontal sinus and
frontal recess”, Endoscopic Sinus Surgery- Antomy, three-
dimensional reconstruction, and surgical technique. Elvisier,
82-100.