Mục tiêu nghiên cứu: góp phần đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận –niệu quản kiểu cắt rời ở trẻ em. Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 12 năm 2011, tại khoa Niệu bệnh viện Bình Dân, có 96 bệnh nhân hẹp khúc nối bể thận niệu quản nguyên phát được phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình, trong đó có 16 bệnh nhi tuổi từ 16 trở xuống. Chúng tôi dùng bộ dụng cụ nội soi của Storz với ống kính 10mm, các trocar 5 và 10mm, đặt 3 hoặc 4 trocar ở vùng hông lưng sau khi đã bơm hơi bằng bong bóng để tạo khoang làm việc sau phúc mạc, tạo hình khúc nối kiểu cắt rời, khâu nối bểthận – niệu quản bằng chỉ Vicryl 4.0, có đặt thông JJ lưu trong lúc mổ, chuyển vị khúc nối khi có mạch máu bất thường chèn ép. Bệnh nhân được rút thông JJ sau 4 – 6 tuần, sau 3 – 6 tháng hoặc 12 tháng thì siêu âm, chụp UIV hoặc xạ hình thận. Chúng tôi ghi nhận và phân tích các dữ liệu của loạt ca bệnh nhi này trước mổ, trong mổ và sau mổ. Kết quả: Tất cả 16 ca bệnh nhi đều được phẫu thuật thành công qua ngã nội soi sau phúc mạc. Thời gian mổ trung bình là 123,13 phút (90 – 195). Lượng máu mất trung bình là 8,94 ml (3 – 30). Thời gian dùng thuốc giảm đau trung bình là 5,19 ngày (4 – 7). Thời gian nằm viện trung bình là 5,38 ngày (4 – 7). Mạch máu bất thường cực dưới được phát hiện trong 4 trường hợp (25%). Có 9 trường hợp bị tràn khí dưới da nhưng ở mức độ nhẹ không cần xử trí đặc hiệu. Không có biến chứng hậu phẫu. Sau thời gian theo dõi trung bình là 29,5 tháng (7 – 72) có 15 ca có cải thiện trên lâm sàng và cận lâm sàng (93,8%), 1 ca thất bại được nội soi niệu quản xẻ hẹp bằng dao điện cho kết quả tốt. Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản kiểu cắt rời là một phẫu thuật an toàn, hiệu quả có thể áp dụng trong điều trị ở trẻ em.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận - niệu quản kiểu cắt rời ở trẻ em: Những kinh nghiệm ban đầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
200
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC TẠO HÌNH KHÚC NỐI
BỂ THẬN – NIỆU QUẢN KIỂU CẮT RỜI Ở TRẺ EM:
NHỮNG KINH NGHIỆM BAN ĐẦU
Ngô Đại Hải*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Vũ Lê Chuyên*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: góp phần đánh giá tính khả thi, an toàn và hiệu quả của phẫu thuật nội soi sau phúc
mạc tạo hình khúc nối bể thận –niệu quản kiểu cắt rời ở trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 5 năm 2006 đến tháng 12 năm 2011, tại khoa Niệu
bệnh viện Bình Dân, có 96 bệnh nhân hẹp khúc nối bể thận niệu quản nguyên phát được phẫu thuật nội soi sau
phúc mạc tạo hình, trong đó có 16 bệnh nhi tuổi từ 16 trở xuống. Chúng tôi dùng bộ dụng cụ nội soi của Storz
với ống kính 10mm, các trocar 5 và 10mm, đặt 3 hoặc 4 trocar ở vùng hông lưng sau khi đã bơm hơi bằng bong
bóng để tạo khoang làm việc sau phúc mạc, tạo hình khúc nối kiểu cắt rời, khâu nối bểthận – niệu quản bằng chỉ
Vicryl 4.0, có đặt thông JJ lưu trong lúc mổ, chuyển vị khúc nối khi có mạch máu bất thường chèn ép. Bệnh nhân
được rút thông JJ sau 4 – 6 tuần, sau 3 – 6 tháng hoặc 12 tháng thì siêu âm, chụp UIV hoặc xạ hình thận. Chúng
tôi ghi nhận và phân tích các dữ liệu của loạt ca bệnh nhi này trước mổ, trong mổ và sau mổ.
Kết quả: Tất cả 16 ca bệnh nhi đều được phẫu thuật thành công qua ngã nội soi sau phúc mạc. Thời gian
mổ trung bình là 123,13 phút (90 – 195). Lượng máu mất trung bình là 8,94 ml (3 – 30). Thời gian dùng thuốc
giảm đau trung bình là 5,19 ngày (4 – 7). Thời gian nằm viện trung bình là 5,38 ngày (4 – 7). Mạch máu bất
thường cực dưới được phát hiện trong 4 trường hợp (25%). Có 9 trường hợp bị tràn khí dưới da nhưng ở mức
độ nhẹ không cần xử trí đặc hiệu. Không có biến chứng hậu phẫu. Sau thời gian theo dõi trung bình là 29,5 tháng
(7 – 72) có 15 ca có cải thiện trên lâm sàng và cận lâm sàng (93,8%), 1 ca thất bại được nội soi niệu quản xẻ hẹp
bằng dao điện cho kết quả tốt.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản kiểu cắt rời là một phẫu
thuật an toàn, hiệu quả có thể áp dụng trong điều trị ở trẻ em.
Từ khóa: hẹp khúc nối bể thận – niệu quản, phẫu thuật nội soi sau phúc mạc.
ABSTRACT
RETROPERITONEAL LAPAROSCOPIC DISMEMBERED PYELOPLASTY IN CHILDREN:
PRELIMINARY EXPERIENCES.
Ngo Dai Hai, Nguyen Tuan Vinh, Vu Le Chuyen * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No 4– 2012: 200 - 205
Objectives: to assess the feasibility, safety and efficacy of retroperitoneal laparoscopic dismembered
pyeloplasty for treating ureteropelvic junction (UPJ) obstruction in children.
Materials and Methods: From May 2006 to December 2011, at Urology Departments of Binh Dan
Hospital, 96 patients with primary UPJ obstruction underwent retroperitoneal laparoscopic pyeloplasty, in which
there were 16 children. We used laparoscopic instruments of Storz with 10mm laparoscope, 5 -10mm trocars. A
three to four – port, balloon – dissecting technique was used. The type of UPJ repair performed was dismembered
Anderson – Hynes. All anastomoses were completed intracorporally with 4.0 Vicryl sutures. Ureteral
transposition was performed as needed. The JJ stent was removed after 4 to 6 weeks and ultrasonography, IVP or
* Khoa Niệu, Bệnh viện Bình Dân, TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Ngô Đại Hải ĐT: 0903620979 Email: haingo68@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
201
diuretic renal scan were performed at 3 to 6 months or 12 months as indicated. The outcome of 16 pediatric
patients was assessed during intraoperative and postoperative period.
Results: All laparoscopical operations were successfully completed. Mean operating time was 123.13
minutes (90 – 195). Mean estimated blood loss was 8.94 ml (3 – 30). Mean hospital stay was 5.38 days (4 – 7). A
crossing vessel was found in 4 patients (25%). No remarkable intraoperative complication occurred, There were 9
cases of mild subcutaneous emphysema. No postoperative complications. Mean following up period was 29.5
months (7 – 72). Fifteen patients (93,8%) were asymptomatic and had improved hydronephrosis on IVP or UPJ
drainage in diuretic renal scan. One patient underwent retrograde endopyelotomy due to recurrent
hydronephrosis at 20 months.
Conclusions: In our condition, retroperitoneal laparoscopic dismembered pyeloplasty is a safe and effective
alternative treatment for UPJ obstruction in children.
Key words: ureteropelvic junction obstruction, dismembered pyeloplasty, retroperitoneal laparoscopy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong các phương pháp điều trị
bệnh lý hẹp khúc nối bể thận niệu quản, phẫu
thuật nội soi ổ bụng tạo hình khúc nối được
xem là phẫu thuật tiêu chuẩn với kết quả thành
công cao tương đương phẫu thuật mở xác nhận
qua thời gian theo dõi lâu dài(19).
Trường hợp phẫu thuật nội soi tạo hình
khúc nối đầu tiên ở trẻ em được thực hiện bởi
Peters và cs vào năm 1995 qua đường trong
phúc mạc(15). Đến năm 2001, Yeung và cs thực
hiện phẫu thuật nội soi tạo hình khúc nối qua
đường sau phúc mạc(22). Từ đó đến nay, nhiều
phẫu thuật viên Nhi khoa đã áp dụng rộng rãi
phương pháp này qua cả 2 đường trong và sau
phúc mạc(2,4). Đồng thời, kỹ thuật tạo hình kiểu
cắt rời Anderson-Hynes cũng được đa số tác giả
thực hiện trong phẫu thuật(8,23).
Ở nước ta, phẫu thuật mở tạo hình khúc nối
vẫn còn chiếm đa số trong điều trị ở trẻ em. Do
đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này để góp
phần đánh giá tính an toàn và hiệu quả của
phương pháp phẫu thuật này trong điều kiện
hiện nay, từ đó có thể áp dụng rộng rãi tại các
trung tâm y khoa trên toàn quốc.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chọn mẫu
Các bệnh nhân từ 16 tuổi trở xuống, chẩn
đoán hẹp khúc nối bể thận niệu quản nguyên
phát (qua lâm sàng, siêu âm, UIV/CT scan và xạ
hình thận có chích furosemide) có chỉ định phẫu
thuật tạo hình.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản tái phát.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản thứ phát
sau mổ sỏi.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản với thận ứ
nước nhẹ, chức năng thận không suy giảm qua
theo dõi bằng xạ hình thận.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản mà chức
năng thận còn dưới 10% trên xạ hình thận.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản có nhiễm
khuẩn niệu.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản kết hợp
với hẹp niệu quản lưng hoặc chậu.
- Hẹp khúc nối bể thận niệu quản với bể
thận nội xoang.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, báo cáo hàng loạt ca.
Nội dung nghiên cứu
Chẩn đoán
Dựa trên triệu chứng lâm sàng, siêu âm, UIV
hoặc CT scan, xạ hình thận có chích furosemide.
Phương pháp mổ
- Vô cảm: mê nội khí quản.
- Tư thế bệnh nhân: nằm nghiêng bên đối
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
202
diện, có đội vùng hông như mổ mở.
- Các bước phẫu thuật:
+ Đặt 3 trocar vùng hông lưng: 2 trocar
10mm, 1 trocar 5mm, có thể thêm trocar thứ tư
5mm khi cần.
+ Bộc lộ niệu quản, bóc tách theo niệu
quản lên bể thận.
+ Cắt rời khúc nối hẹp gởi giải phẫu bệnh
lý, lấy nước tiểu cấy kháng sinh đồ nếu nước
tiểu đục mủ, xén bớt bể thận nếu bể thận giãn to,
xẻ rộng đầu trên niệu quản.
+ Chuyển vị niệu quản ra trước mạch
máu cực dưới bất thường, nếu có.
+ Khâu nối niệu quản-bể thận bằng vicryl
4.0 mũi rời, đặt thông JJ qua niệu quản xuống
bàng quang, khâu kín bể thận bằng vicryl 4.0
mũi liên tục.
+ Đặt dẫn lưu hốc thận sau phúc mạc
bằng thông O2 16 Fr.
+ Rút các trocar, khâu cân cơ, khâu da, cố
định dẫn lưu.
- Ghi nhận: số trocar, thời gian phẫu thuật,
lượng máu mất, tai biến trong lúc mổ nếu có.
Hậu phẫu
Ghi nhận thời điểm có trung tiện, thời gian
rút dẫn lưu, thời gian dùng thuốc giảm đau, loại
thuốc giảm đau, thời gian nằm viện, các biến
chứng gần (xì dò nước tiểu qua dẫn lưu, nhiễm
khuẩn niệu, nhiễm khuẩn vết mổ).
Đánh giá kết quả
Bệnh nhân được hẹn tái khám sau 01 tháng
để rút thông JJ qua nội soi bàng quang và siêu
âm kiểm tra, sau 03 - 06 tháng và sau 12 tháng để
để siêu âm, chụp UIV/ CT scan và/ hoặc làm xạ
hình thận.
Ghi nhận lại các biến số nghiên cứu đã nêu
trên.
Tiêu chuẩn đánh giá
+ Tốt: cải thiện lâm sàng + cải thiện trên xạ
hình và/hoặc siêu âm + UIV
+ Xấu: không cải thiện lâm sàng + không cải
thiện trên xạ hình thận
Thu thập và xử lý số liệu
Tất cả các số liệu đều được ghi lại trong mẫu
hồ sơ nghiên cứu và nhập vào máy tính để phân
tích và xử lý số liệu.
Tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS 13.0
for Windows để quản lý, tính toán, xử lý các dữ
liệu thống kê.
KẾT QUẢ
Giới tính và tuổi
16 bệnh nhi, gồm 9 nam và 7 nữ.
Tuổi trung bình là 14 ± 1, nhỏ nhất là 10, lớn
nhất là 16 tuổi.
Chi tiết phẫu thuật
Tất cả 16 trường hợp đều được phẫu thuật
thành công qua ngã nội soi sau phúc mạc.
Số trocar sử dụng: 3 trocar trong 12 trường
hợp (75%), 4 trocar trong 4 trường hợp (25%).
Tình trạng khúc nối trong mổ: hẹp rõ trong
13 trường hợp (81,3%), không hẹp trong 3
trường hợp (18,8%). Trong 3 trường hợp đánh
giá khúc nối không hẹp, có 1 trường hợp do
mạch máu cực dưới chèn ép khúc nối nên chúng
tôi chỉ cắt rời chuyển vị niệu quản ra trước mạch
máu, không cắt đoạn khúc nối gởi giải phẫu
bệnh lý, còn 2 trường hợp chúng tôi không xác
định chắc chắn nên vẫn tiến hành tạo hình kiểu
cắt rời.
Thời gian phẫu thuật trung bình là 123,13 ±
15,91 phút (95 – 195).
Lượng máu mất trung bình là 8,94 ± 3,49 ml
(3 – 30).
Mạch máu bất thường bắt chéo khúc nối
được phát hiện trong 4 trường hợp (25%).
Trong đó, có 2 trường hợp chúng tôi ghi nhận
mạch máu bắt chéo khúc nối nhưng không
chèn ép khúc nối nên chúng tôi chỉ tiến hành
tạo hình khúc nối kiểu cắt rời chứ không
chuyển vị niệu quản.
Có 9 trường hợp bị tràn khí dưới da với mức
độ nhẹ, không cần xử trí đặc hiệu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
203
Hậu phẫu và đánh giá kết quả
Thời gian lưu ống dẫn lưu ngoài trung bình
là 3,5 ± 0,54 ngày (2 – 6).
Thời gian dùng thuốc giảm đau trung bình
là 5,19 ± 0,55 ngày (4 – 7).
Thời gian nằm viện trung bình là 5,38 ± 0,63
ngày (4 – 7).
Không ghi nhận biến chứng trong hậu phẫu.
Sau xuất viện 4 – 6 tuần bệnh nhân tái khám
để rút thông JJ qua nội soi bàng quang.
Thời gian theo dõi trung bình là 29,5 ± 9,58
tháng (7 – 72).
Có 15 bệnh nhi cải thiện trên lâm sàng và
cận lâm sàng (UIV/CT scan/xạ hình).
Một trường hợp ứ nước tái phát vào tháng
thứ 20, được nội soi niệu quản xẻ hẹp bằng dao
điện, theo dõi đến 72 tháng ghi nhận kết quả tốt.
BÀN LUẬN
Ở trẻ em, phẫu thuật mở tạo hình cũng là
tiêu chuẩn vàng trong điều trị bệnh lý hẹp khúc
nối bể thận niệu quản trong nhiều thập niên.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ,
các phương pháp điều trị ít xâm lấn ra đời như
nong khúc nối bằng bong bóng, cắt xẻ khúc nối
nội soi và phẫu thuật nội soi ổ bụng với ưu
điểm là ít đau hậu phẫu, thời gian nằm viện và
hồi phục ngắn hơn(20). Tuy nhiên, nong khúc nối
bằng bóng và cắt xẻ khúc nối qua nội soi lại có tỉ
lệ thành công thấp hơn mổ mở. Phẫu thuật nội
soi ổ bụng tạo hình khúc nối qua thời gian đã
cho thấy có tỉ lệ thành công tương đương với
mổ mở, đồng thời vẫn giữ được các ưu điểm
của một phương pháp điều trị ít xâm lấn. Ravish
và cs trong một nghiên cứu tiến cứu so sánh kết
quả của phẫu thuật nội soi với phẫu thuật mở
tạo hình khúc nối đã kết luận rằng phẫu thuật
nội soi ngoài ưu điểm là ít đau, nằm viện ngắn
và nhanh hồi phục còn bao gồm một tỉ lệ thành
công cao hơn của phẫu thuật mở(16). Ở trẻ nhỏ
dưới 12 tháng tuổi, Tong và cs tiến hành nghiên
cứu so sánh giữa phẫu thuật mở với phẫu thuật
có hỗ trợ của nội soi ổ bụng đã ghi nhận các ưu
điểm của nội soi ổ bụng là thời gian nằm viện
ngắn, hồi phục nhanh và tính thẩm mỹ tốt
hơn(21). Metzelder và cs thì nghiên cứu so sánh
phẫu thuật nội soi trong phúc mạc tạo hình
khúc nối ở 3 nhóm trẻ tuổi từ 1 – 12 tháng, 1 – 7
tuổi và 7 – 18 tuổi(12). Ông kết luận không có sự
khác biệt về thời gian mổ cũng như tỉ lệ thành
công giữa 3 nhóm trẻ, ngoài ra tính khả thi của
phương pháp này ở trẻ dưới 1 tuổi là rất cao.
Trong phẫu thuật nội soi tạo hình khúc nối
ở trẻ em, vấn đề chọn đường vào trong phúc
mạc hoặc sau phúc mạc là tùy vào sở thích của
phẫu thuật viên. Đường trong phúc mạc được
đa số ưa chuộng do có ưu điểm là khoang thao
tác rộng, các mốc giải phẫu quen thuộc, việc
khâu nối thuận lợi, tuy nhiên có nguy cơ chạm
thương các tạng ổ bụng(12,17,20). Một số tác giả còn
cho rằng với việc sử dụng 1 trocar 5mm ở rốn
cho ống kính nội soi và 2 trocar 3mm để thao
tác, phẫu thuật qua đường trong phúc mạc còn
có độ thẩm mỹ cao hơn đường sau phúc mạc do
các trocar sau phúc mạc thường lớn hơn và ở vị
trí dễ thấy hơn(6). Tuy nhiên các tác giả thực hiện
phẫu thuật qua đường sau phúc mạc đã báo cáo
cho thấy không có sự khác biệt với đường trong
phúc mạc về nhiều phương diện, kể cả thời gian
mổ(4,8). Tại bệnh viện Bình Dân, chúng tôi
thường sử dụng đường sau phúc mạc trong hầu
hết các phẫu thuật nội soi ổ bụng nên chúng tôi
cũng không gặp khó khăn gì trong việc khâu nối
trong không gian hẹp. Chúng tôi cũng không có
dụng cụ nội soi nhỏ 3mm do đó chúng tôi sử
dụng các trocar 5 và 10mm, tuy nhiên theo đánh
giá chủ quan của mình, chúng tôi nhận thấy các
vết sẹo vùng hông lưng sau 1 năm thường mờ
đi, khó nhận biết.
Kỹ thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu
quản được đa số phẫu thuật viên áp dụng là kỹ
thuật cắt rời Anderson-Hynes, chúng tôi cũng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
204
thực hiện kỹ thuật này cho tất cả các bệnh nhân
trong nghiên cứu của mình. Ngoài ra, các kỹ
thuật khác như Foley Y-V, Fenger, vạt xoay bể
thận cũng được thực hiện trong phẫu thuật nội
soi. Singh và cs(17) tiến hành tạo hình khúc nối
qua nội soi trong phúc mạc cho 19 bệnh nhi theo
2 kỹ thuật cắt rời và Foley Y-V ghi nhận tỉ lệ
thành công chung là 94,7%. Tuy nhiên, Casale
và cs(5) nghiên cứu so sánh 2 kỹ thuật cắt rời và
Fenger trên 26 bệnh nhi lại ghi nhận tỉ lệ thành
công của kỹ thuật cắt rời là 94%, trong khi của
kỹ thuật Fenger chỉ là 43% (p=0,002 với phép
kiểm Fisher exact).
Trong loạt bệnh nhi của chúng tôi, tỉ lệ phát
hiện mạch máu bất thường là 25% (4/16 ca). Tỉ lệ
này là tương đương với các báo cáo ở trẻ em
khác nhung thấp hơn tỉ lệ ở người lớn(1,6,23).
Trước đây chuyển vị khúc nối ra trước mạch
máu bất thường là thường qui, tuy nhiên gần
đây nhiều tác giả cho rằng mạch máu bắt chéo
khúc nối trong đa số trường hợp không là
nguyên nhân gây hẹp khúc nối do đó không cần
chuyển vị, chỉ tạo hình khúc nối đơn thuần(3).
Ngược lại, một số tác giả khác lại chứng minh
mạch máu bất thường chèn ép từ ngoài là
nguyên nhân gây hẹp khúc nối(18). Theo quan
điểm riêng của chúng tôi, trong trường hợp phát
hiện có mạch máu bất thường bắt chéo khúc nối,
nếu mạch máu không chèn ép rõ gây gập góc
khúc nối đồng thời quan sát đại thể khúc nối
bình thường thì chúng tôi không chuyển vị, chỉ
tiến hành tạo hình kiểu cắt rời. Còn nếu mạch
máu chèn ép rõ gây gập góc khúc nối thì chúng
tôi tiến hành chuyển vị khúc nối ra trước mạch
máu kết hợp với cắt rời khúc nối hay không tùy
vào đánh giá đại thể khúc nối có hẹp hay không
sau khi đã bóc tách giải phóng khúc nối.
Việc đặt thông niệu quản lưu sau tạo hình
khúc nối ở trẻ em vẫn còn nhiều tranh cãi, nhất
là ở các trẻ dưới 5 tuổi. Le Tan Son và cs(10) thực
hiện 122 ca tạo hình khúc nối với dẫn lưu niệu
quản xuyên bể thận ra da cho kết quả tốt, không
có ca nào phải mổ lại. Tuy nhiên đa số tác giả sử
dụng thông JJ để dẫn lưu sau tạo hình do các ưu
điểm vượt trội của nó, mặc dù vẫn có những
biến chứng liên quan đến thông như tiểu máu
đại thể, thông bị di lệch, nhiễm khuẩn, tạo
sỏi(7,9,14). Một số tác giả chọn cách đặt thông
ngược dòng qua nội soi bàng quang do có tỉ lệ
thành công cao hơn và ít biến chứng hơn cách
đặt xuôi dòng trong mổ(6,7). Ngược lại,
Mandhani(11) trong nghiên cứu trên 24 bệnh
nhân tạo hình khúc nối nội soi ổ bụng đưa ra kết
luận là đặt thông JJ xuôi dòng là một kỹ thuật
đơn giản, tránh được thủ thuật soi bàng quang,
giảm nguy cơ cắt đứt đầu trên thông trong mổ,
tạo thuận lợi cho việc nhận biết, bóc tách và
khâu nối bể thận niệu quản. Trong 16 bệnh nhi
này cũng như các bệnh nhân người lớn khác của
mình, chúng tôi luôn đặt JJ xuôi dòng trong mổ
sau khi đã khâu kín mặt sau của khúc nối bể
thận niệu quản, chúng tôi không ghi nhận một
biến chứng liên quan đến thông nào trong loạt
bệnh nhi này.
Biến chứng của phẫu thuật nội soi tạo hình
khúc nối ở trẻ em được ghi nhận trong mổ và
sau mổ lần lượt là 2,91% và 11,65% (Nerli và cs,
2009)(13). Chúng tôi không ghi nhận biến chứng
hậu phẫu nào, chỉ có tình trạng tràn khí dưới da
mức độ nhẹ ở 9 trường hợp. Chúng tôi đồng
tình với nhận định của Nerli là hầu hết biến
chứng có thể được ngăn ngừa nếu phẫu thuật
viên bảo đảm các nguyên tắc như nắm rõ giải
phẫu học, tạo phẫu trường rõ ràng, rộng rãi và
bóc tách nhẹ nhàng, cẩn thận.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
205
Kết quả của phẫu thuật được đánh giá là
thành công khi có cải thiện tình trạng lâm
sàng cộng với cải thiện độ ứ nước thận trên
siêu âm, UIV hoặc cải thiện độ đào thải và
chức năng thận trên xạ hình. Trong nghiên
cứu này, có 15 trường hợp đáp ứng các tiêu
chí trên sau thời gian theo dõi trung bình là
29,5 tháng. Một trường hợp ứ nước tái phát
vào tháng thứ 20 và được nội soi niệu quản xẻ
hẹp cho kết quả tốt.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc tạo hình
khúc nối bể thận – niệu quản kiểu cắt rời là một
phẫu thuật an toàn và hiệu quả, có thể áp dụng
rộng rãi trong điều trị bệnh lý hẹp khúc nối ở trẻ
em ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên phẫu thuật viên
cần được đào tạo bài bản nhất là về kỹ thuật
khâu nối trong cơ thể, đồng thời cũng đòi hỏi
trang thiết bị phải đồng bộ, hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blanc T, Muller C, Abdoul H, Peev S, Paye-Jaouen A, Peycelon
M, Carricaburu E, El-Ghoneimi A (2012). Retroperitoneal
Laparoscopic Pyeloplasty in Children: Long-Term Outcome and
Critical Analysis of 10-Year Experience in a Teaching Center. Eur
Urol., (Epub ahead of print).
2. Bonnard A, Fouquet V, Carricaburu E, Aigrain Y, El-Ghoneimi
A (2005). Retroperitoneal laparoscopic versus open pyeloplasty
in children. J Urol., 173(5): 1710-3, discussion 1713.
3. Canes D, Desai MM, Haber GP, Colombo JR, Turna B, Kaouk
JH, Gill IS, Aron M (2009). Is routine transposition of anterior
crossing vessels during laparoscopic dismembered pyeloplasty
necessary?. J Endourol., 23(3): 469-73.
4. Canon SJ, Jayanthi VR, Lowe GJ (2007). Which is better--
retroperitoneoscopic or laparoscopic dismembered pyeloplasty
in children?. J Urol., 178(4 Pt 2): 1791-5, discussion 1795.
5. Casale P, Grady RW, Joyner BD, Zeltser IS, Figueroa TE,
Mitchell ME (2004). Comparison of dismembered and
nondismembered laparoscopic pyeloplasty in the pediatric
patient. J Endourol., 18(9): 875-8.
6. Chacko JK, Piaggio LA, Neheman A, Gonzalez R (2009).
Pediatric laparoscopic pyeloplasty: lessons learned from the first
52 cases. J Endourol., 23(8): 1307-11.
7. Chandrasekharam VV (2005). Is retrograde stenting more
reliable than antegrade stenting for pyeloplasty in infants and
children?. Urology, 66(6):1301-4, discussion 1304.
8. Chen Z, Chen X, Qi L, Chen L, Luo Y, He Y, Li N, Xie C (2011).
Retroperitoneoscopic dismembered pyeloplasty for pediatric
ureteropelvic junction obstruction: a report of 85 cases. Zhong
Nan Da Xue Xue Bao Yi Xue Ban., 36(5): 430-4.
9. Elmalik K, Chowdhury MM, Capps SN (2008). Ureteric stents in
pyeloplasty: a help or a hindrance?. J Pediatr Urol. 4(4):