Mở đầu: Phình động mạch vành (ĐMV) ngay chỗ can thiệp đặt stent có thể phát hiện từ 3 ngày cho đến
nhiều năm sau đặt stent với tỉ lệ được báo cáo từ 0,3 đến 6%. Biểu hiện lâm sàng có thể từ không triệu chứng cho
đến những biến chứng nghiêm trọng như tắc stent hay tái hẹp trong stent và phương thức điều trị còn bàn cãi.
Phương pháp: Chúng tôi báo cáo bốn trường hợp quan sát thấy có phình ĐMV sau đặt stent trong số nhiều
bệnh nhân (BN) được chụp ĐMV sau can thiệp và tổng quan tài liệu về phình ĐMV sau đặt stent.
Kết quả: Trong 4 BN bị phình ĐMV sau đặt stent, có 3 nam (75%) và 1 nữ (25%), tuổi trung bình 61 (52 –
76). Thời gian phát hiện phình ĐMV sau đặt stent từ 14 ngày đến 28 tháng. 50% BN được đặt stent trong tình
huống NMCT cấp ST chênh lên và 50% BN được đặt stent trong tình huống Đau ngực không ổn định. Cả 4 BN
đều được đặt 1 stent tẩm thuốc paclitaxel ở sang thương: 50% sang thương ở đoạn đầu RCA và 50% sang
thương ở đoạn đầu LAD. 1BN tái nhập viện vì đau ngực không ổn định, chụp ĐMV thấy tái hẹp nặng trong
stent và phình ngay chỗ đặt stent ở RCA, BN này được can thiệp đặt lại một stent thường. 3 BN còn lại không
triệu chứng được phát hiện tình cờ (khi can thiệp các sang thương khác) và được điều trị bảo tồn.
Kết luận: Phình ĐMV là biểu hiện hiếm gặp sau đặt sten tẩm thuốc. Phần lớn BN không triệu chứng chỉ
cần điều trị bảo tồn. Tuy nhiên, có 1 BN phình ĐMV kèm tái hẹp nặng trong stent đòi hỏi phải can thiệp điều trị
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phình động mạch vành sau đặt stent tẩm thuốc nhân bốn trường hợp lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 20
PHÌNH ĐỘNG MẠCH VÀNH SAU ĐẶT STENT TẨM THUỐC
NHÂN BỐN TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Trần Hòa*, Vũ Hoàng Vũ*, Trương Phi Hùng*,
Lương Võ Quang Đăng*, Nguyễn Hữu Khoa Nguyên*, Trương Quang Bình*
TÓM TẮT
Mở đầu: Phình động mạch vành (ĐMV) ngay chỗ can thiệp đặt stent có thể phát hiện từ 3 ngày cho đến
nhiều năm sau đặt stent với tỉ lệ được báo cáo từ 0,3 đến 6%. Biểu hiện lâm sàng có thể từ không triệu chứng cho
đến những biến chứng nghiêm trọng như tắc stent hay tái hẹp trong stent và phương thức điều trị còn bàn cãi.
Phương pháp: Chúng tôi báo cáo bốn trường hợp quan sát thấy có phình ĐMV sau đặt stent trong số nhiều
bệnh nhân (BN) được chụp ĐMV sau can thiệp và tổng quan tài liệu về phình ĐMV sau đặt stent.
Kết quả: Trong 4 BN bị phình ĐMV sau đặt stent, có 3 nam (75%) và 1 nữ (25%), tuổi trung bình 61 (52 –
76). Thời gian phát hiện phình ĐMV sau đặt stent từ 14 ngày đến 28 tháng. 50% BN được đặt stent trong tình
huống NMCT cấp ST chênh lên và 50% BN được đặt stent trong tình huống Đau ngực không ổn định. Cả 4 BN
đều được đặt 1 stent tẩm thuốc paclitaxel ở sang thương: 50% sang thương ở đoạn đầu RCA và 50% sang
thương ở đoạn đầu LAD. 1BN tái nhập viện vì đau ngực không ổn định, chụp ĐMV thấy tái hẹp nặng trong
stent và phình ngay chỗ đặt stent ở RCA, BN này được can thiệp đặt lại một stent thường. 3 BN còn lại không
triệu chứng được phát hiện tình cờ (khi can thiệp các sang thương khác) và được điều trị bảo tồn.
Kết luận: Phình ĐMV là biểu hiện hiếm gặp sau đặt sten tẩm thuốc. Phần lớn BN không triệu chứng chỉ
cần điều trị bảo tồn. Tuy nhiên, có 1 BN phình ĐMV kèm tái hẹp nặng trong stent đòi hỏi phải can thiệp điều trị.
Từ khóa: Phình động mạch vành, Nhồi máu cơ tim cấp, Can thiệp mạch vành qua da, stent tẩm thuốc
ABSTRACT
“CORONARY ANEURYSMS AFTER DRUG-ELUTING STENT IMPLANTATION”
CASE SERIES STUDY
Tran Hoa, Vu Hoang Vu, Truong Phi Hung,
Luong Vo Quang Dang, Nguyen Huu Khoa Nguyen, Truong Quang Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 20 - 24
Background: Coronary aneurysms (CANs) after intervention have been reported from 3 days to up to 4
years after stent implantation procedures, with an incidence of 0.3 to 6.0%. The clinical course is variable from no
symptom to life-threatening complications and treatment remains a lot of controversy.
Methods: Case series study.
Results: Four patients, 3 men and 1 woman, the mean age were 61 years (range 52-76 years). The time from
stent implantation to CAN diagnosis was from 14 days up to 28 months. Clinical presentation at the initial
treatment: 50% STEMI and 50% unstable angina. All 4 patients were treated with one paclitaxel stent (drug-
eluting stent): 50% at proximal LAD and 50% at proximal RCA. A 61-year-old male presented again with a new
unstable angina after 28 months stent implantation, repeat angiography revealed a coronary aneurysm with 90%
in-stent restenosis of the proximal RCA. This patient underwent successful implantation again with a bare-metal
stent. Three other patients were no symptom, CANs are chance detected at the time of angioplasty others vessels.
* Bộ môn Nội – ĐHYD TP. HCM và Khoa Tim mạch – BV ĐHYD TP. HCM
Tác giả liên lạc: Ths BS Trần Hòa ĐT: 01267835960, Email: tranhoa1176@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 21
Conclusions: Coronary artery aneurysms after drug-eluting stent implantation are rare and may be detected
in asymptomatic patients. However, CAN can associate with adverse clinical events as a result of DES restenosis.
Keywords: Coronary aneurysm, STEMI: ST elevation myocardial infarction, PCI: Percutaneous Coronary
Intervention, drug-eluting stent
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phình động mạch vành (ĐMV) ngay chỗ can
thiệp đặt stent có thể phát hiện từ 3 ngày cho
đến nhiều năm sau đặt stent với tỉ lệ được báo
cáo từ 0,3 đến 6%(3,4,13). Cơ chế sinh lý bệnh tạo
thành phình ĐMV sau đặt stent cho tới nay chưa
được biết rõ và được giải thích với một số giả
thuyết: tổn thương thành mạch, phản ứng viêm
hay dị ứng, nhiễm trùng tại chỗ, tái định dạng
mạch máu và stent không áp sát tốt do kỹ thuật.
Biểu hiện lâm sàng có thể từ không triệu chứng
cho đến những biến chứng nghiêm trọng như
tắc stent hay tái hẹp trong stent và phương thức
điều trị còn bàn cãi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hàng loạt trường hợp. Chúng tôi
báo cáo bốn trường hợp quan sát thấy có phình
ĐMV sau đặt stent trong số nhiều bệnh nhân
(BN) được chụp ĐMV sau can thiệp. Nghiên cứu
được thực hiện tại khoa Nội Tim Mạch – bệnh
viện Đại học Y Dược TP. HCM.
KẾT QUẢ
Trong 4 BN bị phình ĐMV sau đặt stent, có 3
nam (75%) và 1 nữ (25%), tuổi trung bình 61 (52 –
76). Thời gian phát hiện phình ĐMV sau đặt
stent từ 14 ngày đến 28 tháng. 50% BN được đặt
stent trong tình huống NMCT cấp ST chênh lên
và 50% BN được đặt stent trong tình huống đau
ngực không ổn định. Cả 4 BN đều được đặt 1
stent tẩm thuốc paclitaxel, sang thương: 50%
sang thương ở đoạn đầu RCA và 50% sang
thương ở đoạn đầu LAD. Một BN tái nhập viện
vì đau ngực không ổn định, chụp ĐMV thấy tái
hẹp nặng trong stent và phình ngay chỗ đặt stent
ở RCA, BN này được can thiệp đặt lại một stent
thường. Ba BN còn lại không triệu chứng được
phát hiện tình cờ (khi can thiệp các sang thương
khác) và được điều trị bảo tồn.
Các đặc điểm chung và đặc điểm của từng
bệnh nhân được trình bày trong Bảng 1.
Bệnh án minh họa 1
BN nữ, 74 tuổi (BN 4, Bảng 1) được chẩn
đoán NMCT cấp thành trước vách, đã được
chụp động mạch vành: tắc đoạn đầu động mạch
liên thất trước (LAD) và hẹp 80% đoạn giữa
nhánh mũ (LCx). Bệnh nhân đã được can thiệp
cấp cứu thành công và đặt 1 stent tẩm thuốc vào
LAD. Sau đó 14 ngày, BN nhập viện theo hẹn để
can thiệp sang thương còn lại (LCx) và phát hiện
tình cờ phình ĐMV ngay chỗ đặt stent tẩm thuốc
ở LAD (hình 1). Sang thương phình này nhỏ và
BN không triệu chứng, được điều trị nội khoa,
tiếp tục điều trị 2 kháng tiểu cầu (aspirin và
clopidogrel) và không can thiệp gì thêm. Bệnh
nhân được theo dõi 3 năm, không có triệu chứng
đau ngực tái phát.
Hình 1: Bệnh nhân nữ, 74 tuổi, không triệu chứng,
phình ĐMV được phát hiện tình cờ sau 14 ngày đặt
stent tẩm thuốc ở ĐM liên thất trước.
Bệnh án minh họa 2
Bệnh nhân nam, 61 tuổi (BN 1, bảng 1), cách
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 22
nhập viện 28 tháng, BN nhập viện được chẩn
đoán đau thắt ngực không ổn định và đã được
đặt 1 stent tẩm thuốc vào đoạn đầu ĐMV phải
(RCA). BN nhập viện lại vì đau ngực tái phát và
cũng được chẩn đoán: đau thắt ngực không ổn
định. BN được chụp ĐMV kiểm tra phát hiện
phình ngay chỗ đặt stent ở RCA có kèm tái hẹp
trong stent khoảng 90%. BN đã được can thiệp
lại, đặt 1 stent kim loại không tẩm thuốc vào
đoạn đầu RCA và tiếp tục điều trị 2 kháng tiểu
cầu lâu dài. 6 tháng sau đó, BN đã được chụp lại
ĐMV kiểm tra và kết quả tốt. Đến nay, theo dõi
sau 2 năm, BN ổn định không có cơn đau ngực
tái phát.
Bảng 1. Đặc điểm của dân số nghiên cứu.
Đặc điểm BN 1 BN 2 BN 3 BN 4 Trung bình
Tuổi 61 55 52 76 61 (52 – 76)
Giới Nam Nam Nam Nữ 75% Nam
Lâm sàng trước đặt stent Đau ngực không
ổn định
(ĐTNKÔĐ)
ĐTNKÔĐ NMCT cấp ST
chênh lên
NMCT cấp
ST chênh lên
50% ĐTNKÔĐ,
50% NMCT cấp ST
chênh lên
Sang thương Động mạch vành
phải (RCA)
Động mạch vành
phải (RCA)
ĐM liên thất trước
(LAD)
ĐM liên thất trước
(LAD)
50% RCA
và 50% LAD
Loại thuốc của stent Paclitaxel Paclitaxel Paclitaxel Paclitaxel 100% Paclitaxel
Triệu chứng của phình
ĐMV
Đau ngực cấp Không triệu chứng, phình ĐMV phát hiện tình cờ lúc can
thiệp ĐMV khác
25% có triệu chứng
lâm sàng
Thời gian từ lúc đặt stent
đến lúc chẩn đoán
28 tháng 12 tháng 4 tháng 14 ngày 14 ngày – 28 tháng
Phình kèm tái hẹp trong
stent
+ Phình ĐMV không tái hẹp trong stent 25% có tái hẹp trong
stent
Điều trị Tái can thiệp và
đặt stent không
tẩm thuốc
Không can thiệp, điều trị nội khoa và theo dõi lâm sàng
BÀN LUẬN
Chẩn đoán phình ĐMV sau đặt stent
Phình ĐMV sau đặt stent có thể được phát
hiện tình cờ khi chụp ĐMV kiểm tra hay khi can
thiệp một sang thương khác. Đôi khi, phình
ĐMV có thể được phát hiện ở BN có triệu chứng
lâm sàng (đau ngực tái phát)(3, 5). Trong nghiên
cứu của chúng tôi, có 1 trường hợp (25%) có triệu
chứng lâm sàng với cơn đau thắt ngực không ổn
định mới xuất hiện. Chụp ĐMV qua da có thể
giúp chẩn đoán phình ĐMV, được định nghĩa
khi đường kính chỗ phình lớn hơn 50% so với
đường kính động mạch vành tương ứng(3,5).
Tuy nhiên, kết quả chụp ĐMV qua da cũng có
một số hạn chế: (1) chỉ cho thấy đường kính
trong của lòng ĐMV và không thể khảo sát các
cấu trúc khác; (2) không phân biệt được phình
thật hay giả phình (pseudoaneurysms); (3) khó
phát hiện tình trạng của stent (có áp sát thành
mạch hay không, stent bị gẫy, ).
Siêu âm nội mạch (IVUS) kết hợp với kết quả
chụp ĐMV khắc phục những hạn chế kể trên và
đã trở thành “tiêu chuẩn vàng” trong chẩn đoán
phình ĐMV(6,811). Những tiến bộ khác trong hình
ảnh tim mạch cũng có thể giúp chẩn đoán và
theo dõi phình ĐMV sau đặt stent như chụp cắt
lớp điện toán (CT scan), cộng hưởng từ tim, siêu
âm tim 3 chiều(7,15,18,)
Cơ chế sinh lý bệnh của phình ĐMV sau
đặt stent
Cho đến nay, cơ chế sinh lý bệnh của phình
ĐMV sau đặt stent chưa được biết rõ. Tuy nhiên,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 23
có một số giả thiết được nêu ra để giải thích hiện
tượng này.
(1)Tổn thương thành mạch sâu ngay sau đặt
stent do nguyên nhân cơ học, hậu quả của các
biến chứng thủ thuật như: bóc tách lớn, vỡ hay
thủng bít mạch vành(3,5). Trong nghiên cứu của
Fernando Alfonso, có 1,25% (15/1197 BN) bị
phình ĐMV sau đặt stent tẩm thuốc, trong số đó,
có đến 33% (5 BN) ghi nhận bóc tách ĐMV sau
can thiệp ĐMV(5).
(2) Phản ứng siêu nhạy cảm: Virmani và
cộng sự đã chứng minh trên tử thiết những BN
tử vong do huyết khối trong stent tẩm thuốc, có
hiện tượng viêm mạch máu siêu nhạy cảm khu
trú ngay chỗ đặt stent với sự tích tụ nhiều
lympho bào T và eosinoplil(17). Ngoài ra, phản
ứng quá mẫn toàn thân cũng được ghi nhận ở
một số bệnh nhân bị thuyên tắc sau đặt stent tẩm
thuốc. Nghiên cứu RADAR báo cáo 17 trường
hợp có phản ứng dị ứng toàn thân có thể có liên
quan đến đặt stent tẩm thuốc. Biểu hiện lâm
sàng chủ yếu là ở da và thường bắt đầu trong
vòng 2 tuần sau đặt stent tẩm thuốc. Đáng chú ý
là 4 trong số những bệnh nhân này, khám
nghiệm tử thi ghi nhận có phản ứng viêm thâm
nhiễm bạch cầu ái toan tại chỗ đặt stent(10).
(3) Nhiễm trùng tại chỗ: Một số khảo sát đã
báo cáo sự liên quan giữa nhiễm trùng tại chỗ
đặt stent và phình ĐMV sau đặt stent tẩm thuốc.
Stent tẩm thuốc với hoạt động của các chất ức
chế miễn dịch có thể là yếu tố thuận lợi cho đáp
ứng viêm tại chỗ. Tác nhân thường gặp nhất là
tụ cầu trùng (Staphylococcus aureus). Bệnh nhân
thường có sốt và biểu hiện toàn thân, bao gồm
nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng bùng phát với
tiên lượng rất kém(2,9,12).
(4) Tái định dạng mạch máu. Hiện tượng
này thường liên quan đến việc stent áp sát
không hoàn toàn vào thành mạch, thường gặp
sau đặt stent tẩm thuốc trong các tình huống:
nhồi máu cơ tim cấp, sang thương dài, sang
thương tắc mãn tính và đặt nhiều stent(1,3,4,14,16).
Nghiên cứu MISSION cho thấy sau can thiệp cấp
cứu, hiện tượng stent áp sát không hoàn toàn
gặp trong 37% các trường hợp có đặt stent tẩm
thuốc(14).
Chiến lược điều trị phình ĐMV sau đặt
stent tẩm thuốc.
Trong số 4 bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi, có 3 bệnh nhân không triệu chứng lâm
sàng, phình ĐMV đơn thuần không gây tái hẹp
trong stent ĐMV và không can thiệp thêm (chỉ
điều trị nội khoa và theo dõi lâm sàng). Tuy
nhiên, có 1 bệnh nhân phình kèm tái hẹp nặng
trong stent phải can thiệp lại và đặt 1 stent kim
loại không tẩm thuốc.
Các tổn thương sâu hay bóc tách ĐMV sau
can thiệp có thể hình thành những túi giả phình
lớn có nguy cơ vỡ ĐMV(3,4). Thêm nữa, dòng máu
chảy chậm và xoáy qua chỗ phình có stent kim
loại có nguy cơ tạo huyết khối trong stent hoặc
gây thuyên tắc xa. Cho đến nay, chưa có sự đồng
thuận hay khuyến cáo nào cụ thể cho xử trí
phình ĐMV sau đặt stent. Chính vì vậy, hầu hết
các báo cáo đều xử trí theo từng tình huống -
từng cá thể riêng biệt. Tuy nhiên, hầu hết các tác
giả xử trí dựa vào 3 dữ kiện: bản chất túi phình
(phình thật hay giả phình), triệu chứng lâm sàng
và kích thước của khối phình(3,5).
Nếu túi giả phình nhỏ (nhỏ hơn 2 lần đường
kính của ĐMV tương ứng) và không triệu chứng
lâm sàng: chỉ điều trị nội khoa và theo dõi lâm
sàng. Nếu túi giả phình lớn (lớn hơn hoặc bằng 2
lần đường kính của ĐMV tương ứng) hoặc có
triệu chứng: can thiệp qua da (đặt stent kim loại
không tẩm thuốc, stent graff) hoặc phẫu thuật.
Nếu túi phình thật nhỏ: chỉ điều trị nội khoa
và theo dõi lâm sàng. Nếu túi phình thật lớn và
có triệu chứng lâm sàng: can thiệp qua da (đặt
stent kim loại không tẩm thuốc, stent graff) hoặc
phẫu thuật. Nếu túi phình thật lớn nhưng không
có triệu chứng lâm sàng: chỉ điều trị nội khoa và
theo dõi lâm sàng.
KẾT LUẬN
Phình ĐMV là biểu hiện hiếm gặp sau đặt
sten tẩm thuốc. Phần lớn BN không triệu chứng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 24
chỉ cần điều trị bảo tồn. Tuy nhiên, có 1 BN đau
ngực không ổn định, phình ĐMV kèm tái hẹp
nặng trong stent, đòi hỏi phải can thiệp điều trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ako J, Morino Y, Honda Y, et al (2005). Late incomplete stent
apposition after sirolimus-eluting stent implantation. A serial
intravascular ultra-sound analysis. J Am Coll Cardiol; 46: 1002–
5.
2. Alfonso F, Moreno R, Vergas J (2005). Fatal infection after
rapamycin-eluting coronary stent implantation. Heart;91:e51–2.
3. Aoki Jiro, Kirtane A, Leon Martin B (2008). Coronary Artery
Aneurysms After Drug-Eluting Stent Implantation. J Am Coll
Cardiol Intv;1:14–21
4. Bell MR, Garratt KN (1992). Relation of deep arterial resection
and coronary artery aneurysms after directional coronary
atherectomy. J Am Coll Cardiol;20:1474 – 81.
5. Fernando Alfonso, Maria-José Pérez-Vizcayno, Miguel Ruiz,
Alfonso Sua´rez (2009). Coronary Aneurysms After Drug-
Eluting Stent ImplantationJ Am Coll Cardiol;53:2053–60
6. Ge J, Liu F, Kearney P, et al (1995). Intravascular ultrasound
approach to the diagnosis of coronary artery aneurysms. Am
Heart J;130:765–71.
7. Greil GF, Stuber M, Botnar RM, et al (2002). Coronary magnetic
resonance angiography in adolescents and young adults with
kawasaki disease. Circulation;105:908 –11.
8. Maehara A, Mintz GS, Ahmed JM, et al. An intravascular
ultrasound classification of angiographic coronary artery
aneurysms. Am J Cardiol 2001;88:365–70.
9. Marcu CB, Balf DV, Donouhe TJ (2005). Post-infectious
pseudoaneurysm after coronary angioplasty using drug-eluting
stents. Heart Lung Circ;14:85– 6.
10. Nebeker JR, Virmani R, Bennett CL, et al (2006).
Hypersensitivity cases associated with drug-eluting coronary
stents. A review of available cases from the Research on
Adverse Drug Events and Reports (RADAR) Project. J Am Coll
Cardiol;47:175– 81.
11. Porto I, MacDonald S, Banning AP (2004). Intravascular
ultrasound as a significant tool for diagnosis and management
of coronary aneurysms. Cardiovasc Intervent Radiol;27:666 – 8.
12. Singh H, Singh C, Aggarwal N, Dugal JS, Kumar A, Luthra M
(2005). Mycotic aneurysm of left anterior descending artery
after sirolimus-eluting stent implantation: a case report.
Catheter Cardiovasc Interv;65:282–5.
13. Slota PA, Fischman DL (1997). Frequency and outcome of
development of coronary artery aneurysm after intra-coronary
stent placement and angioplasty. STRESS Trial Investigators.
Am J Cardiol;79:1104 – 6.
14. Tanabe K, Serruys PW, Degertekin M, et al (2005). Incomplete
stent apposition after implantation of paclitaxel-eluting stents
or bare-metal stents. Insights from the randomized TAXUS II
trial. Circulation;111:900 –5.
15. Tsutsui JM, Martinez EE, Rochitte CE, Ramires JF, Mathias W Jr
(2006). Noninvasive evaluation of left circumflex coronary
aneurysm by real-time three-dimensional echocardiography.
Eur J Echocardiogr;7
16. Van der Hoeven BL, Liem SS, Jukema JW, et al (2008).
Sirolimus-eluting stents versus bare-metal stents in patients
with ST-segment elevation myocardial infarction: 9-month
angiographic and intravascular ultra-sound results and 12-
month clinical outcome. J Am Coll Cardiol; 51:618 –26.
17. Virmani R, Guagliumi G, Farb A, et al (2004). Localized
hypersensitivity and late coronary thrombosis secondary to a
sirolimus-eluting stent. Should we be cautious?
Circulation;109:701–5.
18. Weininger M, Meesmann M, Hahn D, Beissert M (2006).
Assessment of a left coronary artery aneurysm with 64-channel
multi-slice cardiac computed tomography. Eur J Cardiothorac
Surg;30:381–2.