Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 60
RỐI LOẠN NHỊP TIM THAI: 
KINH NGHIỆM 4 NĂM TẠI VIỆN TIM TP HCM 
Lê Kim Tuyến*, Phạm Nguyễn Vinh**, Châu Ngọc Hoa*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành xem xét lại kinh nghiệm trong khảo sát và chăm sóc rối loạn nhịp 
thai nhi dựa vào siêu âm tim thai. 
Cơ sở nghiên cứu: Siêu âm tim thai có thể chẩn đoán chính xác các dạng của rối loạn nhịp. Phương thức tiếp 
cận này cho phép chăm sóc và lựa chọn thuốc chống loạn nhịp được tốt hơn. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, các thai phụ từ 16-40 tuần được gửi đến từ các bệnh viện 
phụ sản, có chẩn đoán rối loạn nhịp tim thai dựa trên siêu âm tim thai chi tiết. 
Kết quả: Từ tháng 01/2008 đến 12/2011 có 39 thai nhi có chẩn đoán rối loạn nhịp/4332 thai nhi được tiến 
hành siêu âm tim thai chi tiết tại Viện Tim TP HCM. Tỉ lệ ngoại tâm thu nhĩ và ngoại tâm thu thất chiếm đa số - 
51%, nhịp nhanh kịch phát trên thất chiếm 14%, nhịp chậm xoang chiếm 8%, block nhĩ thất chiếm 27%. 
Kết luận: Rối loạn nhịp chiếm khoảng 1% thai nhi, đa số là lành tính. Phát hiện và điều trị sớm có thể cứu 
sống thai nhi. Nhịp chậm vẫn còn là 1 thách thức lớn đối với các Bác sĩ tim mạch. 
Từ khoá: Loạn nhịp tim thai, siêu âm tim thai 
ABSTRACT 
FETAL ARRHYTHMIAS: THE 4 YEAR’S EXPERIENCE OF HEART INSTITUTE IN HCMC 
Le Kim Tuyen, Pham Nguyen Vinh, Chau Ngoc Hoa 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 60 - 65 
Objectives: We intend to review our experience with the investigation and management of fetal arrhythmia 
on the basis fetal echocardiography. 
Background: Precise prenatal identification of arrhythmia type can be achieved with the fetal 
echocardiography approach. Such information allows for a better management and a rational choice of appropriate 
anti-arrhythmic drug. 
Methods: Case series study of the women with gestational age from 16 to 40 weeks sent from obstetrical 
hospital, which has diagnosis of fetal arrhythmias by detailed fetal echocardiography. 
Results: From Jan 2008 to Dec 2011 there were 39 fetus were diagnosis of arrhythmia/4332 fetus were 
conducted detailed fetal echocardiography at Heart Institute in HCMC. The prevalence of premature atrial and 
ventricular contractions is dominant – 51%, supraventricular tachycardia – 14%, sinus bradycardia – 8%, 
atrioventricular block – 27%. 
Conclusions: Arrhythmia accounts for 1% in fetus, most cases are benign. Early detection and treatment of 
tachycardia can save the fetus. Bradycardia is still a big challenge for cardiologist. 
Keywords: Fetal arrhythmia, fetal echocardiography 
* Viện Tim TP HCM, ** Bệnh Viện Tim Tâm Đức, ***Bộ Môn Nội, ĐHYD TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Ths.Bs Lê Kim Tuyến ĐT: 0902865142 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 61
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khoảng 1-3% thai nhi có rối lọan nhịp(13). 
Phương pháp theo dõi thai nhi bằng siêu âm 
và máy ghi nhịp tim thai, cho phép phát hiện 
rối lọan nhịp và dẫn truyền ở thai nhi. Việc 
chẩn đóan rối lọan nhịp trong bào thai cần 
chính xác và đánh giá hậu quả trên huyết 
động học, để có phương pháp điều trị thích 
hợp. Rối lọan nhịp nhanh thường gặp trong 
bào thai, việc sử dụng thuốc chống lọan nhịp 
có hiệu quả nhất định (thường được dùng qua 
đường uống). Nhưng với rối lọan nhịp chậm, 
liên quan đến rối lọan dẫn truyền nhĩ thất cao 
độ, điều trị vẫn là một thách thức đối với các 
chuyên gia tim mạch tiền sản; các bác sĩ có 
nhiệm vụ xác nhận bloc nhĩ thất trước sinh để 
chăm sóc trẻ chu sinh một cách tốt nhất. Trên 
thế giới, đến nay cũng chưa có hướng dẫn 
thống nhất về theo dõi và điều trị rối loạn 
nhịp bào thai(12). Chúng tôi tiến hành báo cáo 
những ghi nhận ban đầu sau 4 năm triển khai 
đơn vị tim mạch thai nhi. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả phương thức chẩn đoán và điều trị rối 
loạn nhịp bào thai. 
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu hàng loạt ca. 
Cỡ mẫu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca từ tháng 
01/2008 đến 12/2011. 
Dân số nghiên cứu 
Dân số mục tiêu 
Các bà mẹ mang thai từ 16 tuần đến 40 tuần 
đến siêu âm tim thai tại Viện Tim. 
Dân số nghiên cứu 
Các bà mẹ mang thai từ 16 tuần đến 40 tuần 
đến siêu âm tim thai tại Viện Tim có chẩn đoán 
rối loạn nhịp tim. 
Phương pháp chọn mẫu 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Thai phụ trên 18 tuổi tại thời điểm siêu âm. 
Có chẩn đoán rối loạn nhịp trên siêu âm tim 
thai. 
Tuổi thai từ 16 tuần đến 40 tuần (được xác 
định nhờ nhớ đúng kinh chót hoặc có siêu âm 
thai ba tháng đầu). 
Đơn thai. 
Tiêu chuẩn lọai trừ 
Tim thai không còn hoạt động lúc làm siêu 
âm. 
Có từ 2 thai trở lên. 
Cách thu thập số liệu 
Thời gian tiến hành: từ tháng 01/2008 đến 
tháng 01/2011. 
Nhân lực: các bác sĩ trong nhóm nghiên cứu 
siêu âm tim thai của Viện Tim TP.HCM. 
Phỏng vấn bằng bảng câu hỏi cho tất cả 
các thai phụ. Bảng câu hỏi được xây dựng 
bằng những câu hỏi đóng và mở phù hợp để 
thu thập các thông tin của nghiên cứu. Những 
thông tin này cùng với kết quả siêu âm, hình 
ảnh đi kèm được ghi chép và đánh máy lưu lại 
trên phần mềm tự viết dưới dạng file access và 
xử lý mỗi tháng. 
Nguyên liệu: bảng câu hỏi, máy tính, phần 
mềm thu thập số liệu, máy in, máy siêu âm 2D 
và Doppler màu hiệu Philips (Viện tim TP. 
HCM). 
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 
Chuyển số liệu file access sang file SPSS và 
xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Sử dụng thống kê mô tả: Tính mối liên quan 
giữa biến độc lập và biến số phụ thuộc dựa vào 
các test kiêm định thống kê 2, Fisher’s Exact 
Test, Logistic Regression. Sự liên quan giữa hai 
biến số có ý nghĩa thống kê khi giá trị p<0,05. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 62
Kết quả 
Từ tháng 01/2008 đến 12/2011 có 4332 thai 
phụ đến siêu âm tim thai tại Viện Tim TP HCM, 
trong đó có 39 trường hợp được chẩn đoán rối 
loạn nhịp, chiếm tỉ lệ 0,9%. 
Tuổi mẹ 27 + 5 (tối thiểu 18, tối đa 37). 
Tuổi thai 30 + 6 (tối thiểu 18, tối đa 40). 
Bảng 1: Phân bố các dạng loạn nhịp chẩn đoán trước 
sinh. 
Tên bệnh Tần số Tỉ lệ (%) 
Ngoại tâm thu nhĩ 17 46 
Ngoại tâm thu thất 02 05 
Nhịp nhanh kịch phát trên thất 05 14 
Nhịp chậm xoang 03 08 
Block nhĩ thất II-III 10 27 
Bảng 2. Diễn tiến thai kì đến lúc sinh. 
Diễn tiến Tần số Tỉ lệ (%) 
Chấm dứt thai kì 05 14 
Thai lưu 01 03 
Mất sau sinh 01 03 
Mất theo dõi 05 14 
Có bệnh 05 14 
Bình thường 20 54 
*Trong 19 trường hợp ngoại tâm thu nhĩ và 
ngoại tâm thu thất, trong quá trình theo dõi sau 
đó đa số tự khỏi, mất theo dõi 3 trường hợp, sau 
sinh kiểm tra siêu âm tim và đo điện tim có kết 
quả bình thường. 
Bảng 3. Diễn tiến các trường hợp nhịp nhanh kịch 
phát trên thất. 
SHS Tuổi 
thai lúc 
chẩn 
đoán 
Tần số 
tim 
(Lần/phú
t) 
Tỉ lệ 
tim/ng
ực 
Phù 
thai 
Thuốc Cân nặng 
10800 32 282 0,28 không Digoxin CDTK 
4707 30 280 0,42 có Flecain THAI LƯU 
5441 29 180 0,34 Không Digoxin 3200 
3967 37 220 0,33 Không Digoxin 3500 
5367 38 207 0,29 không Digoxin 3200 
SHS: số hồ sơ; CDTK: chấm dứt thai kì. 
Bảng 4. Diễn tiến các trường hợp nhịp chậm xoang. 
SHS Tuổi thai lúc 
chẩn đoán 
Tần số tim 
(lần/phút) 
Tỉ lệ 
tim/ngực 
Phù 
thai 
Cân 
nặng 
(gam) 
4359 21 86 0,33 không 2950 
10790 31 71 0,23 không CDTK 
10892 37 94 0,31 không 3300 
Bảng 5. Diễn tiến các trường hợp block nhĩ thất. 
SHS Tuổi thai lúc 
chẩn đoán 
Tần số tim 
(Lần/phút) 
Tỉ lệ 
tim/ngực 
BTBS 
kèm 
Cân 
nặng 
9652 21 67 0,27 Không Mất t/d 
3948 29 75 0,39 Không 2600 
10828 33 53 0,42 Không 3700 
3698 32 45 0,49 Không 2100 
10782 31 60 0,24 Không 2300 
10240 22 46 0,29 Không 2600 
5089 23 56 0,41 Không CDTK 
10840 33 108 0,53 Không Mất t/d 
10247 23 55 0,38 KNT Mất s/s 
9817 18 50 0,35 KNT CDTK 
t/d: theo dõi; s/s: sau sinh. 
Hình 1. Các phương thức chẩn đoán rối loạn nhịp 
dựa trên siêu âm tim thai. 
BÀN LUẬN 
Tuổi thai phụ lúc nghiên cứu của chúng tôi 
trung bình là 29 tuổi, tương tự như các nghiên 
cứu khác(1,2,5,8). 
Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 30 tuần, nhưng tùy thuộc vào dạng 
bệnh. Nhìn vào bảng 3,4,5 chúng ta thấy các 
bệnh rối loạn nhịp nhanh, chủ yếu phát hiện ở 3 
tháng cuối thai kì, các bệnh rối loạn nhịp chậm 
chủ yếu ở 3 tháng giữa thai kì. 
Tỉ lệ rối bệnh loạn nhịp/thai nhi trong 
nghiên cứu chúng tôi 0,9%, thấp hơn các 
nghiên cứu khác(13). Điều này được giải thích 
bởi các lí do sau: 
Các rối loạn nhịp như ngoại tâm thu nhĩ hay 
ngoại tâm thu thất, không ảnh hưởng nhiều đến 
tiên lượng thai nhi, nên không được quan tâm 
gửi đi kiểm tra chuyên khoa. Tuy nhiên, theo ghi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 63
nhận 1 vài nghiên cứu, nhóm này có tỉ lệ BTBS 
cao hơn cộng đồng và có một số trường hợp diễn 
tiến đến rối loạn nhịp nhanh(4). 
Các trường hợp rối loạn nhịp nhanh hay 
chậm, có phù thai, đã được chỉ định chấm dứt 
thai kì ở cơ sở sản khoa. 
Trong nghiên cứu chúng tôi, ngoại tâm thu 
nhĩ gặp nhiều hơn ngoại tâm thu thất và 2 loại 
rối loạn nhịp này chiếm đa số (51%). Và diễn 
tiến sau đó tất cả đều thuận lợi (bình thường), 
chỉ có 3 trường hợp mất theo dõi, không rõ kết 
quả sau sinh. Cân nặng sau sinh ở nhóm này 
cũng tương đương với dân số chung là 3307 + 
412 gam (tối thiểu 2700, tối đa 4300). Cũng 
tương tự như các nghiên cứu khác: ngọai tâm 
thu nhĩ hoặc thất thường lành tính, chúng 
thường được ghi nhận ở ba tháng cuối của thai 
kỳ và biến mất trước sinh hoặc những tuần lễ 
sau đó. Chúng không cần phải được điều trị, 
nhưng cần theo dõi nhịp tim thai để phát hiện 
những loạn nhịp nhanh khác(4,7). 
Trong 4 năm, chúng tôi gặp 5 trường hợp có 
chẩn đoán nhịp nhanh kịch phát trên thất, với 
tần số tim lớn hơn 180 lần/phút (bảng 3). Tất cả 
đều gặp ở 3 tháng cuối thai kì. Chúng tôi chỉ gặp 
1 trường hợp có phù thai, và điều trị không 
thành công, do sản phụ đến quá trễ. Những 
trường hợp này thuốc dùng đường uống thường 
ít hiệu quả, vì thuốc khó khuyếch tán qua bánh 
nhau bị phù. Có tác giả đề nghị chích thuốc trực 
tiếp vào thai nhi qua dây rốn hoặc bánh nhau 
trong những trường hợp phù thai(4). Bốn trường 
hợp còn lại của chúng tôi đều có tràn dịch màng 
bụng. Trước khi quyết định điều trị thuốc, chúng 
tôi tiến hành làm các bilan kiểm tra tim mạch 
người mẹ bao gồm: đo huyết áp, đo điện tim, 
thử máu... . Và 4 thai phụ này được điều trị bằng 
liều tấn công Digoxin 0,25mg mỗi 8 giờ, sau đó là 
0,25mg mỗi 12 giờ trong 3 ngày và điều chỉnh 
liều Digoxin dựa vào định lượng nồng độ 
Digoxin/máu, với ngưỡng điều trị là 1-2ng/ml. 
Cả 4 trường hợp sau 1 tuần kiểm tra đều về nhịp 
xoang. Trường hợp SHS 10800, sau khi về nhịp 
xoang, thai phụ xin về Bình Thuận theo dõi tiếp, 
sau 2 tuần, bệnh nhân tự ngưng thuốc và thai 
nhi bị lên cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất lại. 
Khám lại ở bệnh viện phụ sản được kết luận là 
phù nhau thai, có chỉ định chấm dứt thai kì. Đây 
là trường hợp đáng tiếc. 
Một vài tác giả đề nghị theo dõi đơn thuần, 
không dùng thuốc chống lọan nhịp trong trường 
hợp chưa tràn dịch, không phù dưới da, bất kể 
dạng nhịp nhanh nào(7). Chiến lược điều trị bao 
gồm: lên kế họach sinh và bắt đầu điều trị sau 
sinh. Lợi điểm của thái độ này là hạn chế nguy 
cơ của việc điều trị đối với người mẹ, nhưng sự 
bất lợi cũng nhân đôi: một mặt liên quan đến 
sinh non, mặt khác khó theo dõi được “diễn tiến 
nhịp” lúc sinh do cơn nhịp nhanh hằng định. 
Digoxine có thể làm giảm giai đọan trơ của 
đường dẫn truyền phụ và tạo thuận lợi cho dẫn 
truyền xuôi dòng trong đường dẫn truyền này, 
dễ gây ra rung thất, do đó thuốc này không được 
dùng ở những trẻ có hội chứng WPW. Dù sao 
cũng cần theo dõi nguy cơ rung nhĩ ở thai nhi có 
cơn nhịp nhanh với vòng vào lại có đường dẫn 
truyền phụ (rất hiếm khỏang 1%)(7). Cần cân 
nhắc nguy cơ này với “nguy cơ” không điều trị 
đã đề cập ở phần trên (sinh non, không phân tích 
“diễn tiến nhịp tim thai” lúc sinh). 
Vì lý do này, chúng tôi vẫn khuyên nên dùng 
digoxine trong trường hợp nhịp nhanh trên thất 
liên tục hoặc gần như liên tục chưa có dấu hiệu 
suy thai. Liều khởi đầu 0,75mg/ngày chia 3 lần, 
giảm 0,5mg/ngày sau 48-72 giờ. Với cách tiếp cận 
này qua thực tế cho thấy chúng có hiệu quả và 
không gây độc cho mẹ. Mặc khác nếu không 
điều trị chúng ta “lo ngại” sẽ dẫn đến rối lọan 
huyết động, làm việc điều trị khó khăn hơn và 
làm xấu đi tiên lượng thai nhi. 
Trong nghiên cứu chúng tôi có 3 trường hợp 
nhịp châm xoang <100 lần/phút. Hai trường hợp 
diễn tiến thuận lợi, sau sinh kiểm tra cả 2 bé bình 
thường. Một trường hợp có nhịp tim khá thấp 71 
lần/phút. Kiểm tra sau 2 tuần, thai nhi bị chết 
lưu. Tham khảo 1 số tài liệu ghi nhận 1 vài 
trường hợp nhịp chậm xoang thai nhi có liên 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 64
quan hội chứng QT dài, đôi khi gây những rối 
loạn nhịp trầm trọng và tử vong thai nhi(4,9). 
Trong 10 trường hợp block nhĩ thất của 
chúng tôi, đa số phát hiện ở 3 tháng giữa thai kì 
(bảng 5). Có 2 trường hợp có bệnh tim bẩm sinh 
phức tạp kèm theo. Cả 2 trường hợp này đều bị 
BTBS phức tạp, xếp vào nhóm hội chứng đồng 
dạng trái. 1 trường hợp sau khi thảo luận gia 
đình, bố/mẹ lựa chọn chấm dứt thai kì. 1 trường 
hợp tử vong ngay sau sinh. Theo các nghiên cứu 
khác, những thai nhi bị block nhĩ thất cao độ 
kèm BTBS, thường nằm trong hội chứng đồng 
dạng trái, bất tương hợp đôi(4,7,10) Block nhĩ thất 
kèm BTBS tiên lượng nói chung rất xấu. Trong 
một nghiên cứu trên 21 bào thai, chỉ có 3 trường 
hợp sống sót(11). 
Trong nghiên cứu chúng tôi, có 8 trường hợp 
block nhĩ thất đơn thuần không có BTBS kèm 
theo, trong đó có 5 trường hợp xét nghiệm máu 
mẹ có kết quả dương tính với tự kháng thể anti-
SSA và anti-SSB (63%). Trong nghiên cứu của 
Lin và cs(9), tỉ lệ này là 56%; còn nghiên cứu của 
Lopes và cs(10) tỉ lệ này là 72%. Trong 5 trường 
hợp có kết quả xét nghiệm máu mẹ có tự kháng 
thể dương tính, chỉ có 1 trường hợp SHS 10240 
chúng tôi thử dùng Dexamethasone trong 4 
tuần, nhưng không thấy hồi phục, chúng tôi 
giảm liều và ngừng thuốc theo đúng hướng 
dẫn(9,10,12). Trường hợp này, sau đó được tham 
vấn tại bệnh viện phụ sản và đi đến quyết định 
chấm dứt thai kì ở tuần thứ 35, sau đó em bé vẫn 
còn sống, nên được chuyển qua bệnh viện nhi 
đồng. Em bé được phẫu thuật đặt máy tạo nhịp 
vĩnh viễn thượng tâm mạc, và hiện nay bé được 
3 tuổi, phát triển tốt. Các trường hợp còn lại, 
bệnh nhân đều được gửi đến chúng tôi sau 2 
tuần xuất hiện block nhĩ thất, lúc này hệ dẫn 
truyền đã bị tổn thương không hồi phục, nên 
chúng tôi quyết định không dùng thuốc 
Dexamethasone. Tất cả 8 trường hợp đều được 
sử dụng salbutamol, để làm tăng nhịp tim, theo 
ghi nhận của chúng tôi, tỉ lệ tăng nhịp lên 
khoảng 10%, nhưng cần thận trong vì làm người 
mẹ hồi hộp, mệt do thuốc làm tăng nhịp tim 
người mẹ. Trong 8 trường hợp này, có 5 trường 
hợp sống đến lúc sinh, đa số cân nặng lúc sinh 
đều thấp (bảng 5). Hiện tại chưa có thuốc nào 
điều trị hiệu quả block nhĩ thất do tự miễn. 
Những thử nghiệm bằng liệu pháp corticoide dự 
phòng hay điều trị chưa chứng minh mức độ 
hiệu quả cũng như sự vô hại của liệu pháp và 
vẫn còn đang bàn cãi(12), tuy nhiên có 1 vài báo 
cáo đơn lẻ có vẻ có hiệu quả(6,7). Tương tự, điều 
trị bằng kích nhịp trong bào thai, tuy có vẻ rất 
thuyết phục, nhưng chỉ đang ở trong giai đọan 
thử nghiệm(3,12). Trong 5 trường hợp theo dõi sau 
đó và được phẫu thuật đặt máy tạo nhịp, có 3 
trường hợp (60%) sống sau 1 năm, thấp hơn so 
với báo cáo của Lin và cs(9) (95%). Điều này làm 
chúng ta phải quan tâm hơn trong việc chăm sóc 
sau sinh và chỉ định đặt máy tạo nhịp kịp thời. 
KẾT LUẬN 
Loạn nhịp trong bào thai là bệnh cũng 
thường gặp với tần suất trong nghiên cứu chúng 
tôi là khoảng 1% thai nhi. Đa số là ngoại tâm thu 
nhĩ và ngoại tâm thu thất, với tiên lượng tốt. 
Tiên lượng nhịp nhanh bào thai nói chung là tốt, 
trong khi đó block nhĩ thất đựơc chẩn đoán 
trong bào thai có dự hậu không khả quan khi có 
bệnh TBS kèm theo, nhưng khá hơn ở bloc nhĩ 
thất do miễn dịch. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Boldt T, Andersson S, Eronen M (2002), "Outcome of structural 
heart disease diagnosed in utero". Scand Cardiovasc J, 36(2), 73-
79. 
2. Cuneo BF, Zhao H, Strasburger JF, Ovadia M, Huhta JC, Wakai 
RT (2007), "Atrial and ventricular rate response and patterns of 
heart rate acceleration during maternal-fetal terbutaline 
treatment of fetal complete heart block". Am J Cardiol, 100(4), 
661-665. 
3. Fouron JC (2004), "Fetal arrhythmias: the Saint-Justine hospital 
experience". Prenat Diagn, 24(13), 1068-1080. 
4. Friedberg MK, Silverman NH, Moon-Grady AJ, Tong E, 
Nourse J, Sorenson B et al (2009), "Prenatal detection of 
congenital heart disease". J Pediatr, 155(1), 26-31, 31 e21. 
5. Jaeggi ET, Fouron JC, Silverman ED, Ryan G, Smallhorn J, 
Hornberger LK (2004), "Transplacental fetal treatment 
improves the outcome of prenatally diagnosed complete 
atrioventricular block without structural heart disease". 
Circulation, 110(12), 1542-1548. 
6. Kleinman C S, Nehgme RA (2004), "Cardiac arrhythmias in the 
human fetus". Pediatr Cardiol, 25(3), 234-251. 
7. Kovavisarach E, Mitinunwong C (2011), "Fetal 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 65
echocardiography: a 9-year experience in Rajavithi Hospital 
(1999-2007 AD)". J Med Assoc Thai, 94(3), 265-271. 
8. Lin MT, Hsieh FJ, Shyu MK, Lee CN, Wang JK, Wu MH (2004), 
"Postnatal outcome of fetal bradycardia without significant 
cardiac abnormalities". Am Heart J, 147(3), 540-544. 
9. Lopes LM, Tavares GM, Damiano AP, Lopes MA, Aiello VD, 
Schultz R et al (2008), "Perinatal outcome of fetal 
atrioventricular block: one-hundred-sixteen cases from a single 
institution". Circulation, 118(12), 1268-1275. 
10. Machado MV, Tynan MJ, Curry PV, Allan LD (1988), "Fetal 
complete heart block". Br Heart J, 60(6), 512-515. 
11. Maeno Y, Hirose A, Kanbe T, Hori D (2009), "Fetal arrhythmia: 
prenatal diagnosis and perinatal management". J Obstet 
Gynaecol Res, 35(4), 623-629. 
12. Phạm Nguyễn Vinh, Phạm Việt Thanh, Lê Kim Tuyến, & Đồng 
nghiệp. (2010). Khảo sát tần suất dị tật tim thai nhi ở các bà mẹ tuổi 
thai từ 16-28 tuần thời gian từ 5/2007-5/2010. Đề tài nghiên cứu 
cấp bộ đã nghiệm thu, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, TP 
Hồ Chí Minh. 
13. Strasburger JF, Cheulkar B, Wichman HJ (2007), "Perinatal 
arrhythmias: diagnosis and management". Clin Perinatol, 34(4), 
627-652, vii-viii.