Mục tiêu: So sánh hai máy OCT trong đánh giá độ dày hoàng điểm trong bệnh phù hoàng điểm do đái tháo
đường để tìm hiểu tương quan cũng như sự khác biệt giữa thế hệ máy tiêu chuẩn Stratus OCT và thế hệ máy
mới Cirrus OCT.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu quan sát cắt ngang. Có 35 bệnh nhân (35 mắt) phù hoàng điểm có ý
nghĩa trên lâm sàng do đái tháo đường (CSME) theo tiêu chuẩn của ETDRS đến khám tại Khoa Đáy Mắt Bệnh
viện Mắt TP Hồ Chí Minh tham gia nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân đều được nhỏ dãn đồng tử và được tiến
hành đo bởi một kỹ thuật viên duy nhất giàu kinh nghiệm với hai loại máy Stratus OCT (Carl Zeiss Meditec) và
Cirrus OCT (Carl Zeiss Meditec). Các thông số được phân tích bao gồm độ dày võng mạc theo 9 vùng của
ETDRS, hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai
lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC), phân tích hồi qui, đánh giá sự đồng thuận giữa hai máy và
biểu đồ Bland Altman.
Kết quả: Độ dày võng mạc các vùng đo được của hai máy có giá trị thay đổi từ 281,89±67,28µm tới
420,23±110,89µm. Hệ số tương quan hồi qui là 0,8. Hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation
coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC) đều >0,9. Kết
quả phân tích độ dày võng mạc trung tâm theo Bland Altman cho thấy sự khác biệt trung bình là 68,67µm
(p<0,001). Giới hạn đồng thuận là từ -25,73 tới 135,2µm. Khoảng thay đổi là 160,93µm
Kết luận: Cả hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT đều đáng tin cậy khi sử dụng trên lâm sàng. Tuy nhiên,
kết quả đo được của hai máy không thể dùng thay thế cho nhau. Sai biệt giữa hai máy có nhiều nguyên nhân
trong đó chủ yếu là do cài đặt giới hạn ngoài của lớp võng mạc khác nhau.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh Stratus OCT và Cirrus OCT trong đánh giá phù hoàng điểm do đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 103
SO SÁNH STRATUS OCT VÀ CIRRUS OCT
TRONG ĐÁNH GIÁ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Nguyễn Như Quân*, Trần Anh Tuấn**, Nguyễn Trọng Lộc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh hai máy OCT trong đánh giá độ dày hoàng điểm trong bệnh phù hoàng điểm do đái tháo
đường để tìm hiểu tương quan cũng như sự khác biệt giữa thế hệ máy tiêu chuẩn Stratus OCT và thế hệ máy
mới Cirrus OCT.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu quan sát cắt ngang. Có 35 bệnh nhân (35 mắt) phù hoàng điểm có ý
nghĩa trên lâm sàng do đái tháo đường (CSME) theo tiêu chuẩn của ETDRS đến khám tại Khoa Đáy Mắt Bệnh
viện Mắt TP Hồ Chí Minh tham gia nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân đều được nhỏ dãn đồng tử và được tiến
hành đo bởi một kỹ thuật viên duy nhất giàu kinh nghiệm với hai loại máy Stratus OCT (Carl Zeiss Meditec) và
Cirrus OCT (Carl Zeiss Meditec). Các thông số được phân tích bao gồm độ dày võng mạc theo 9 vùng của
ETDRS, hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai
lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC), phân tích hồi qui, đánh giá sự đồng thuận giữa hai máy và
biểu đồ Bland Altman.
Kết quả: Độ dày võng mạc các vùng đo được của hai máy có giá trị thay đổi từ 281,89±67,28µm tới
420,23±110,89µm. Hệ số tương quan hồi qui là 0,8. Hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation
coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC) đều >0,9. Kết
quả phân tích độ dày võng mạc trung tâm theo Bland Altman cho thấy sự khác biệt trung bình là 68,67µm
(p<0,001). Giới hạn đồng thuận là từ -25,73 tới 135,2µm. Khoảng thay đổi là 160,93µm
Kết luận: Cả hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT đều đáng tin cậy khi sử dụng trên lâm sàng. Tuy nhiên,
kết quả đo được của hai máy không thể dùng thay thế cho nhau. Sai biệt giữa hai máy có nhiều nguyên nhân
trong đó chủ yếu là do cài đặt giới hạn ngoài của lớp võng mạc khác nhau.
Từ khoá: Cirrus, Stratus, độ dày hoàng điểm, phù hoàng điểm, đái tháo đường, lỗi phân đoạn.
ABSTRACT
COMPARISON OF STRATUS OCT AND CIRRUS OCT IN THE DIABETIC MACULAR EDEMA
Nguyen Nhu Quan, Tran Anh Tuan, Nguyen Trong Loc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 103 - 108
Purpose: To compare Cirrus OCT with Stratus OCT regarding retinal thickness in patients with diabetic
macular edema and to correlate the results with standard time domain Stratus OCT.
Method: This was a cross – sectional, observational study. 35 eyes of 35 consecutive patients with CSME
according to ETDRS critera who visited Vitreo – retinal department of Eye Hospital of Ho Chi Minh City were
included into this study. All patients were dilated and the procedure’s sequence was performed randomly by a
single experienced technician with the two OCT devices: Stratus and Cirrus (Carl Zeiss Meditec). In each eye,
retinal thickness in 9 regions according to ETDRS criteria, intraclass correlation coefficient, intervisit correlation
coefficient, regression and Bland Altman plots were calculated.
* Bệnh viện Mắt TP.HCM, ** Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược TP.HCM.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Như Quân ĐT: 0906996368 Email: nhuquan1976@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 104
Results: Retinal thickness’ values ranged from 281.89±67.28µm to 420.23±110.89µm. Regression
coefficient was 0.8. Both intraclass correlation coefficient and intervisit correlation coefficient were >0.9. Mean
difference of central retinal thickness was 68.67µm (p<0.001). Limit of agreement was evaluated and ranging
from -25.73 to 135.2µm (Range: 160.93µm).
Conclusions: Both Stratus and Cirrus OCT are reliable in clinical practice. However, retinal thickness
values should not be used interchangeably. The reason of the difference was mainly due to the different retinal
outer border setting of each device.
Keywords: Cirrus, Stratus, macular thickness, diabetic macular edema, segmentation error.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mô hình bệnh tật của Việt Nam ngày nay có
nhiều thay đổi so với những thập kỷ trước,
trong đó có sự gia tăng đáng kể của bệnh đái
tháo đường kèm theo đó là bệnh võng mạc đái
tháo đường. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), số người bị bệnh tiểu đường ở Việt
Nam năm 2000 là 792.000 và sẽ tăng tới 2.300.000
người vào năm 2030. Chúng tôi không có số liệu
cụ thể về tỷ lệ bệnh võng mạc đái tháo đường
trong dân số Việt Nam, tuy nhiên, số lượng
bệnh nhân bị bệnh võng mạc đái tháo đường
đến BV Mắt TP. Hồ Chí Minh, một cơ sở y tế
đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc khám và
điều trị nhãn khoa tại miền Nam Việt Nam,
ngày càng gia tăng đáng kể. Trong đó, phù
hoàng điểm do đái tháo đường vẫn luôn là
nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị lực. Việc
đánh giá hoàng điểm trong thăm khám lâm
sàng vẫn dựa chủ yếu vào đèn khe, soi đáy mắt
gián tiếp, chụp đáy mắt hình nổi, chụp mạch
huỳnh quang.
Trong vài năm trở lại đây, sự xuất hiện của
OCT (Optical Coherence Tomography) chụp
bản đồ bằng phương pháp giao thoa quang học
đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong việc định
lượng việc thăm khám hoàng điểm trong đó có
bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường(11,7).
OCT là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không
xâm lấn sử dụng một chùm tia hồng ngoại quét
lên võng mạc và dựa vào thời gian quay trở về
của tia phản xạ mà tạo ra hình ảnh cắt ngang
của võng mạc với độ phân giải cao. Sự ra đời
của máy Stratus OCT vào khoảng năm 2002 đã
khiến máy này trở thành “tiêu chuẩn vàng” cho
các máy OCT nhãn khoa(4). Máy Stratus OCT
hoạt động dựa trên nguyên lý “time-domain”
cho hình ảnh có độ phân giải trục từ 8 – 10µm,
tốc độ quét là 400 A-scans/giây, với 6 lát cắt theo
trục hình nan hoa tại hoàng điểm và từ đó tính
ra độ dày của hoàng điểm và ước lượng thể tích
của hoàng điểm. Ngày nay, kỹ thuật OCT đã
sang trang mới khi ứng dụng nguyên lý
“spectral domain” đã cho phép các máy thế hệ
mới tạo ảnh có độ phân giải trục từ 5 – 7µm, tốc
độ quét lên tới 29.000 A-scans/giây và khả năng
tạo ra hình ảnh 3 chiều sống động. Sự tiến bộ
này khiến cho việc đánh giá hình thái học của
các bệnh lý ở giai đoạn sớm trở nên chính xác
hơn, việc theo dõi sự tiến triển của bệnh cũng
như phân tích định lượng độ dày và thể tích của
hoàng điểm chính xác hơn(2,8). Năm 2010, Bệnh
viện Mắt TP. Hồ Chí Minh đã đưa vào sử dụng
máy Cirrus OCT thuộc thế hệ “spectral domain”
phục vụ bệnh nhân trong đó có những bệnh
nhân phù hoàng điểm do đái tháo đường.
Ngoài những điểm thuận lợi và ưu việt nói
trên của thế hệ máy mới, sự thay đổi về công
nghệ cũng dẫn tới sự khác biệt nhất định giữa
kết quả đo của các máy với nhau và điều này đã
được đề cập đến trong y văn trong thời gian gần
đây. Việc này sẽ khiến việc theo dõi và lập phác
đồ điều trị cho người bệnh khó khăn hơn khi
người bệnh có kết quả thu được ở một máy
trong một thời điểm lại có khả năng không cùng
giá trị khi đo được đo lại trên một máy khác.
Các thử nghiệm đa trung tâm nếu sử dụng các
máy khác nhau vì thế cũng sẽ gặp nhiều trở
ngại.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh
trực tiếp giữa hai máy Stratus OCT và Cirrus
OCT trên cùng một mắt của người bệnh phù
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 105
hoàng điểm do đái tháo đường để đánh giá sự
khác biệt có thể có giữa hai máy khi đo bề dày
của hoàng điểm.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng thiết kế quan sát cắt
ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi nhận vào nghiên cứu 35 bệnh
nhân có phù hoàng điểm có ý nghĩa trên lâm
sàng do đái tháo đường (CSME) theo tiêu chuẩn
của ETDRS(5) đến khám tại khoa Đáy Mắt, BV
Mắt TP.Hồ Chí Minh. Đánh giá phù hoàng điểm
dựa vào quan sát bằng kính Volk Wide Field và
độ dày võng mạc trung tâm tối thiểu 225µm
(Stratus OCT). Nếu bệnh nhân bị phù hoàng
điểm ở cả hai mắt thì mắt nào ít bị đục môi
trường trong suốt hơn sẽ được lựa chọn (ví dụ:
đục thủy tinh thể, sẹo giác mạc, xuất huyết dịch
kính,...). Bệnh nhân sẽ không được chọn vào
nghiên cứu nếu như có bất cứ một nguyên nhân
nào khác đi kèm gây tăng độ dày hoàng điểm
(ví dụ: bệnh lý hắc võng mạc trung tâm thanh
dịch, bệnh lý mạch máu võng mạc, phù hoàng
điểm dạng nang sau phẫu thuật đục thủy tinh
thể). Tất cả bệnh nhân đều xác nhận vào văn bản
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương thức quét
Hình 1: Bản đồ hoàng điểm theo EDTRS
Đối với máy Stratus OCT chúng tôi sử dụng
phương thức quét “Fast macular thickness” là
phương thức thường được sử dụng nhất trên
lâm sàng. Phương thức này bao gồm 6 lát cắt
qua tâm dài 6mm, mỗi lát cắt bao gồm 128 điểm
đi qua đúng tâm của hoàng điểm (nếu bệnh
nhân định thị chính xác). Đối với máy Cirrus
OCT chúng tôi sử dụng phương thức Macular
Cube bao gồm 1 vùng quét có diện tích 6 x6 mm
với 128 lát cắt, mỗi lát cắt có 512 điểm.Thông tin
ghi nhận được từ các lần đo được đưa lên bản
đồ hoàng điểm gồm 9 vùng theo EDTRS (Xem
Hình 1). Tín hiệu của tất cả các lần quét đều phải
từ 7 trở lên.
Qui trình tiến hành
Tất cả các bệnh nhân đều được nhỏ dãn
đồng tử và được tiến hành đo bởi một kỹ thuật
viên duy nhất giàu kinh nghiệm với hai loại
máy Stratus OCT (Carl Zeiss Meditec) và Cirrus
OCT (Carl Zeiss Meditec). Mỗi mắt được đo 2
lượt (tương ứng với lượt thăm khám), mỗi lượt
được quét 3 lần. Như vậy một mắt được quét 6
lần. Để tránh hiện tượng mỏi mệt có thể ảnh
hưởng đến kết quả đo, thời gian nghỉ giữa hai
lượt đo là 15 phút. Trình tự đo của 2 máy OCT
trên được thực hiện ngẫu nhiên theo phương
pháp chẵn lẻ (chẵn thì đo bằng máy Stratus OCT
trước, lẻ thì đo bằng máy Cirrus OCT trước).
Trước khi lấy dữ liệu phân tích, tất cả các lát cắt
đều được kiểm tra để xác nhận không bị nhiễu
hay lỗi (ví dụ bệnh nhân nháy mắt trong khi
đo).
Phân tích thống kê
Số lần quét trong mỗi lượt đo sẽ được phân
tích “hệ số tương quan trong một lượt đo”
(intraclass correlation coefficient – ICC). Trị số
trung bình của mỗi lượt đo sẽ được phân tích
“hệ số tương quan giữa hai lượt đo” (inter visit
correlation coefficient – ICC) hay còn gọi là “hệ
số tương quan giữa hai lượt khám”. ICC được
tính dựa trên mô hình hiệu ứng hai chiều hỗn
hợp đánh giá sự đồng thuận tuyệt đối (two-way
mixed effects model for measures of absolute
agreement). Sự khác biệt giữa hai máy được
đánh giá bởi sự khác biệt giữa lần quét đầu tiên/
lượt đo đầu tiên của mỗi máy. Dữ liệu nói trên
được phân tích và vẽ biểu đồ để đánh giá sự
đồng thuận giữa hai máy theo Bland Altman(1).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 106
Ngoài ra, chúng tôi còn phân tích hồi qui để tìm
công thức qui đổi giá trị giữa hai loại máy. Tất
cả các phân tích được thực hiện trên phần mềm
IBM SPSS Statistics 19.0 với chức năng
Repeatability analysis đối với ICC và bằng lệnh
(commands) với Bland Altman vì phần mềm
không có sẵn chức năng này.
KẾT QUẢ
Chúng tôi có 35 bệnh nhân (11 nam và 24
nữ) với 35 mắt (22 mắt phải và 13 mắt trái)
được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình
của bệnh nhân là 53,6±7,3 tuổi. Giá trị trung
bình của 6 lần đo ở các vị trí khác nhau tương
đương với 9 vùng của ETDRS được thể hiện
trên Bảng 1. Sự khác biệt về độ dày trung bình
giữa hai máy xảy ra ở tất cả các vùng có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Máy Cirrus có
khuynh hướng đo bề dày cao hơn so với máy
Stratus.
Bảng 1: Độ dày võng mạc trung bình theo vùng của
ETDRS. TB: Trung bình, ĐLC: Độ lệch chuẩn
Độ dày của các
vùng (µm)
Cirrus (TB±ĐLC,
µm)
Stratus (TB±ĐLC,
µm)
Trung tâm 420,23±110,89 351,56±103,14
Trên trong 398,17±103,35 369,49±98,87
Thái dương trong 408,56±117,12 370,18±102,42
Dưới trong 401,25±92,63 355,11±91,10
Mũi trong 402,57±88,26 354,10±85,29
Trên ngoài 323,98±75,45 298,34±83,43
Thái dương ngoài 332,48±75,51 298,81±88,72
Dưới ngoài 330,29±70,29 281,89±67,28
Mũi ngoài 341,81±49,39 301,64±72,14
Hệ số tương quan trong mỗi lượt đo và giữa
hai lượt đo (giữa hai lần khám) được thể hiện
trong bảng 2. Kết quả cho thấy khả năng tái lập
kết quả (reproducibility) của cả hai máy là rất
cao (ICC>0,9).
Bảng 2: Các hệ số tương quan trong mỗi lượt đo và
giữa 2 lượt đo. KTC: Khoảng tin cậy
Cirrus Stratus
ICC đo lượt 1
(95%KTC)
0,982 (0,965-
0,989)
0,983 (0,975-
0,994)
ICC đo lượt 2
(95%KTC)
0,979 (0,962-
0,991)
0,980 (0,970-
0,991)
ICC giữa 2 lượt
(95%KTC)
0,989 (0,973-
0,999)
0,987 (0,982-
0,993)
Phân tích hồi qui cho thấy giá trị đo được
của hai máy có hệ số tương quan hồi qui tốt và
công thức qui đổi là: Cirrus
(µm)=0,8xStratus+8,1.
Kết quả phân tích độ dày võng mạc trung
tâm theo Bland Altman cho thấy sự khác biệt
trung bình là 68,67µm (p<0,001). Giới hạn đồng
thuận là từ -25,73 tới 135,2µm. Khoảng thay đổi
là 160,93µm. Biểu đồ Bland Altman được thể
hiện ở Hình 2.
Hình 2: Biểu đồ Bland Altman đánh giá sự khác biệt
giữa hai máy ở lần đo đầu tiên. Hai đường liền nét
thể hiện 95% khoảng tin cậy
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá độ dày
võng mạc ở người bị phù hoàng điểm do đái
tháo đường trên hai loại máy OCT là Stratus và
Cirrus so sánh trên cùng một mắt của người
bệnh. Kết quả cho thấy khả năng tái lập kết quả
(reproducibility) của cả hai máy là rất cao, hệ số
tương quan hồi qui tốt, tuy nhiên không thể sử
dụng thay thế cho nhau được vì sai biệt về đo
độ dày giữa hai máy là quá cao.
Có rất nhiều nghiên cứu trong y văn đã cho
kết quả tương tự về khả năng tái lập kết quả của
hai máy nói trên. Ví dụ, với máy Stratus OCT sai
số giới hạn nằm trong khoảng 5% đối với người
bình thường và 6% ở người bị phù hoàng điểm
do đái tháo đường với hệ số tương quan giữa
các lần đo (ICC) nằm trong khoảng 0,8 – 1,00.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 107
Tương tự, với máy Cirrus OCT(10) có sai số nằm
trong khoảng 0,6% tới 2,9% ở người bình
thường và ICC ở những người phù hoàng điểm
thay đổi từ 0,84 tới 1,00 (nghiên cứu của chúng
tôi ICC>0,9).
Tương tự với các nghiên cứu khác trong y
văn, hệ số tương quan hồi qui giữa hai máy là
tốt (0,8) nhưng không thể sử dụng kết quả của
hai máy này thay cho nhau được. Phân tích
Bland Altman cho thấy sai biệt trung bình trong
nghiên cứu của chúng tôi là 68,67µm và thậm
chí trong một trường hợp sai biệt lên đến
135,2µm. Tất nhiên, sai biệt này không thể được
chấp nhận được trên lâm sàng.
Sai biệt này cũng gặp trong các nghiên cứu
so sánh giữa nhiều loại OCT của nhiều hãng sản
xuất với nhau. Có giả thuyết cho rằng sự khác
nhau về thuật toán xử lý dữ liệu thô (raw data)
và hiện tượng lệch tâm ở hoàng điểm sẽ dẫn đến
sai biệt nói trên. Thực ra, nếu có hiện tượng lệch
tâm thì sự thay đổi lớn nhất sẽ ở vùng trung tâm
và khi ra các vùng phía ngoài sự thay đổi này sẽ
ít đi vì độ dày võng mạc ở các vùng phía ngoài
thay đổi không nhiều. Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy sự sai biệt này là không khác biệt
nhiều từ trung tâm ra ngoại vi. Chính vì vậy,
nếu có sự lệch tâm thì hiện tượng này không
đáng kể và không giải thích được sự sai biệt về
độ dày đo được. Mặt khác, máy Cirrus và
Stratus là do cùng một hãng chế tạo (Carl Zeiss
Meditec) do đó có thể giả định rằng thuật toán
xử lý dữ liệu thô và định tâm là không khác biệt.
Hình 3: Giới hạn ngoài của máy Stratus là IS/OS trong khi đó máy Cirrus là giữa lớp biểu mô sắc tố. Mũi tên đỏ
là độ dày võng mạc trung tâm
Đa số các tác giả đều đồng ý về nguyên
nhân chủ yếu về sự sai biệt giữa các loại máy
OCT khác nhau là do máy cài đặt giới hạn ngoài
của võng mạc khác nhau. Giới hạn ngoài lớp
võng mạc của máy Stratus là mặt giao tiếp giữa
đoạn ngoài và trong của tế bào cảm thụ quang
(IS/OS interface) trong khi đó máy Cirrus đặt
giới hạn ngoài là ở giữa lớp biểu mô sắc tố
(Hình 3). Điều này cũng lý giải kết quả đo của
Cirrus có trị số cao hơn (dày hơn) so với máy
Stratus.
KẾT LUẬN
Tóm lại, Cả hai máy Stratus OCT và Cirrus
OCT đều đáng tin cậy khi sử dụng trên lâm
sàng. Tuy nhiên, kết quả đo được của hai máy
không thể dùng thay thế cho nhau được, do đó
khi theo dõi một bệnh nhân cụ thể thì nên cho
bệnh nhân sử dụng cùng một máy trong quá
trình theo dõi. Sai biệt giữa hai máy có nhiều
nguyên nhân trong đó chủ yếu là do cài đặt giới
hạn ngoài của lớp võng mạc khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bland JM, Altman DG (1986). “Statistical methods of assessing
agreement between two methods of clinical measurement”.
Lancet, 1: 307 – 310.
2. Chen TC, Cense B, Pierce MC, et al. (2005). “Spectral domain
optical coherence tomography: ultra-high speed, ultra-high
resolution ophthalmic imaging”. Arch Ophthalmol, 123: 1715 –
1720.
3. Diabetic Retinopathy Clinical Research Network, Krzystolik
MG, Strauber SF, Aiello LP, Beck RW, Berger BB, Bressler NM,
Browning DJ, Chambers RB, Danis RP, Davis MD, Glassman
AR, Gonzalez VH, Greenberg PB, Gross JG, Kim JE, Kollman C.
(2007). “Reproducibility of macular thickness and volume using
Zeiss OCT in patients with DME”. Ophthalmology, 114(8): 1520 –
1525.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 108
4. Drexler W, Sattmann H, Hermann B, et al. (2003). “Enhanced
visualization of macular pathology with the use of ultrahigh-
resolution optical coherence tomography”. Arch Ophthalmol,
121: 695 – 706.
5. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group
(1985). “Photocoagulation for diabetic macular edema. ETDRS
report number 1”. Arch Ophthalmology, 103: 1796 – 1806.
6. Forooghian F, Cukras C, Meyerle CB, Chew EY, Wong WT
(2010). “Evaluation of time domain and spectral domain optical
coherence tomography in the measurement of diabetic macular
edema”. Invest Ophthalmol Vis Sci, 49: 4290 – 4296.
7. Hee MR, Puliafito CA, Duker JS, et al. (1998). “Topography of
diabetic macular edema with optical coherence tomography”.
Ophthalmology, 105: 360 – 370.
8. Kakinoki M, Sawada O, Sawada T, Kawamura H, Ohji M (2008).
“Comparison of macular thickness between Cirrus HD-OCT
and Stratus OCT”. Ophthalmic Surg Lasers, 39: 37 – 42.
9. Kiernan DF, Hariprasad SM, Chin EK, Kiernan CL, Rago J,
Mieler WF (2009). “Prospective comparison of Cirrus and
Stratus optical coherence tomography for quantifying retinal
thickness”. Am J Ophthalmol, 147: 267 – 275.
10. Leung CK, Cheung CY, Weinreb RN, et al. (2008). “Comparison
of macular thickness measurements between time domain and
spectral domain optical coherence tomography”. Invest
Ophthalmol Vis Sci, 49: 4893 – 4897.
11. Richard JA, Miles RS, Devinder SC, et al. (2000). “Comparison
between optical coherence tomography and fundus fluorescein
angiography for the detection of cystoid macular edema in
patients with uveitis”. Ophthalmology, 107: 593 – 599.
12. Weojtkowski M, Srinivasan V, Ko T, Fujimoto J, Kowalczyk A,
Duker J (2004). “Ultrahigh-resolution, high-speed, Fourier
domain optical coherence tomography and methods for
dispersion compensation”. Opt Express, 12: 2404 – 2422.