Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 103
SO SÁNH STRATUS OCT VÀ CIRRUS OCT 
TRONG ĐÁNH GIÁ PHÙ HOÀNG ĐIỂM DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Nguyễn Như Quân*, Trần Anh Tuấn**, Nguyễn Trọng Lộc* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: So sánh hai máy OCT trong đánh giá độ dày hoàng điểm trong bệnh phù hoàng điểm do đái tháo 
đường để tìm hiểu tương quan cũng như sự khác biệt giữa thế hệ máy tiêu chuẩn Stratus OCT và thế hệ máy 
mới Cirrus OCT. 
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu quan sát cắt ngang. Có 35 bệnh nhân (35 mắt) phù hoàng điểm có ý 
nghĩa trên lâm sàng do đái tháo đường (CSME) theo tiêu chuẩn của ETDRS đến khám tại Khoa Đáy Mắt Bệnh 
viện Mắt TP Hồ Chí Minh tham gia nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân đều được nhỏ dãn đồng tử và được tiến 
hành đo bởi một kỹ thuật viên duy nhất giàu kinh nghiệm với hai loại máy Stratus OCT (Carl Zeiss Meditec) và 
Cirrus OCT (Carl Zeiss Meditec). Các thông số được phân tích bao gồm độ dày võng mạc theo 9 vùng của 
ETDRS, hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai 
lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC), phân tích hồi qui, đánh giá sự đồng thuận giữa hai máy và 
biểu đồ Bland Altman. 
Kết quả: Độ dày võng mạc các vùng đo được của hai máy có giá trị thay đổi từ 281,89±67,28µm tới 
420,23±110,89µm. Hệ số tương quan hồi qui là 0,8. Hệ số tương quan trong một lượt đo (intraclass correlation 
coefficient – ICC), hệ số tương quan giữa hai lượt khám (inter visit correlation coefficient – ICC) đều >0,9. Kết 
quả phân tích độ dày võng mạc trung tâm theo Bland Altman cho thấy sự khác biệt trung bình là 68,67µm 
(p<0,001). Giới hạn đồng thuận là từ -25,73 tới 135,2µm. Khoảng thay đổi là 160,93µm 
Kết luận: Cả hai máy Stratus OCT và Cirrus OCT đều đáng tin cậy khi sử dụng trên lâm sàng. Tuy nhiên, 
kết quả đo được của hai máy không thể dùng thay thế cho nhau. Sai biệt giữa hai máy có nhiều nguyên nhân 
trong đó chủ yếu là do cài đặt giới hạn ngoài của lớp võng mạc khác nhau. 
Từ khoá: Cirrus, Stratus, độ dày hoàng điểm, phù hoàng điểm, đái tháo đường, lỗi phân đoạn. 
ABSTRACT 
COMPARISON OF STRATUS OCT AND CIRRUS OCT IN THE DIABETIC MACULAR EDEMA 
Nguyen Nhu Quan, Tran Anh Tuan, Nguyen Trong Loc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 103 - 108 
Purpose: To compare Cirrus OCT with Stratus OCT regarding retinal thickness in patients with diabetic 
macular edema and to correlate the results with standard time domain Stratus OCT. 
Method: This was a cross – sectional, observational study. 35 eyes of 35 consecutive patients with CSME 
according to ETDRS critera who visited Vitreo – retinal department of Eye Hospital of Ho Chi Minh City were 
included into this study. All patients were dilated and the procedure’s sequence was performed randomly by a 
single experienced technician with the two OCT devices: Stratus and Cirrus (Carl Zeiss Meditec). In each eye, 
retinal thickness in 9 regions according to ETDRS criteria, intraclass correlation coefficient, intervisit correlation 
coefficient, regression and Bland Altman plots were calculated. 
* Bệnh viện Mắt TP.HCM, ** Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược TP.HCM. 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Như Quân ĐT: 0906996368 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 104
Results: Retinal thickness’ values ranged from 281.89±67.28µm to 420.23±110.89µm. Regression 
coefficient was 0.8. Both intraclass correlation coefficient and intervisit correlation coefficient were >0.9. Mean 
difference of central retinal thickness was 68.67µm (p<0.001). Limit of agreement was evaluated and ranging 
from -25.73 to 135.2µm (Range: 160.93µm). 
Conclusions: Both Stratus and Cirrus OCT are reliable in clinical practice. However, retinal thickness 
values should not be used interchangeably. The reason of the difference was mainly due to the different retinal 
outer border setting of each device. 
Keywords: Cirrus, Stratus, macular thickness, diabetic macular edema, segmentation error. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mô hình bệnh tật của Việt Nam ngày nay có 
nhiều thay đổi so với những thập kỷ trước, 
trong đó có sự gia tăng đáng kể của bệnh đái 
tháo đường kèm theo đó là bệnh võng mạc đái 
tháo đường. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế 
giới (WHO), số người bị bệnh tiểu đường ở Việt 
Nam năm 2000 là 792.000 và sẽ tăng tới 2.300.000 
người vào năm 2030. Chúng tôi không có số liệu 
cụ thể về tỷ lệ bệnh võng mạc đái tháo đường 
trong dân số Việt Nam, tuy nhiên, số lượng 
bệnh nhân bị bệnh võng mạc đái tháo đường 
đến BV Mắt TP. Hồ Chí Minh, một cơ sở y tế 
đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc khám và 
điều trị nhãn khoa tại miền Nam Việt Nam, 
ngày càng gia tăng đáng kể. Trong đó, phù 
hoàng điểm do đái tháo đường vẫn luôn là 
nguyên nhân hàng đầu gây giảm thị lực. Việc 
đánh giá hoàng điểm trong thăm khám lâm 
sàng vẫn dựa chủ yếu vào đèn khe, soi đáy mắt 
gián tiếp, chụp đáy mắt hình nổi, chụp mạch 
huỳnh quang. 
Trong vài năm trở lại đây, sự xuất hiện của 
OCT (Optical Coherence Tomography) chụp 
bản đồ bằng phương pháp giao thoa quang học 
đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong việc định 
lượng việc thăm khám hoàng điểm trong đó có 
bệnh phù hoàng điểm do đái tháo đường(11,7). 
OCT là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không 
xâm lấn sử dụng một chùm tia hồng ngoại quét 
lên võng mạc và dựa vào thời gian quay trở về 
của tia phản xạ mà tạo ra hình ảnh cắt ngang 
của võng mạc với độ phân giải cao. Sự ra đời 
của máy Stratus OCT vào khoảng năm 2002 đã 
khiến máy này trở thành “tiêu chuẩn vàng” cho 
các máy OCT nhãn khoa(4). Máy Stratus OCT 
hoạt động dựa trên nguyên lý “time-domain” 
cho hình ảnh có độ phân giải trục từ 8 – 10µm, 
tốc độ quét là 400 A-scans/giây, với 6 lát cắt theo 
trục hình nan hoa tại hoàng điểm và từ đó tính 
ra độ dày của hoàng điểm và ước lượng thể tích 
của hoàng điểm. Ngày nay, kỹ thuật OCT đã 
sang trang mới khi ứng dụng nguyên lý 
“spectral domain” đã cho phép các máy thế hệ 
mới tạo ảnh có độ phân giải trục từ 5 – 7µm, tốc 
độ quét lên tới 29.000 A-scans/giây và khả năng 
tạo ra hình ảnh 3 chiều sống động. Sự tiến bộ 
này khiến cho việc đánh giá hình thái học của 
các bệnh lý ở giai đoạn sớm trở nên chính xác 
hơn, việc theo dõi sự tiến triển của bệnh cũng 
như phân tích định lượng độ dày và thể tích của 
hoàng điểm chính xác hơn(2,8). Năm 2010, Bệnh 
viện Mắt TP. Hồ Chí Minh đã đưa vào sử dụng 
máy Cirrus OCT thuộc thế hệ “spectral domain” 
phục vụ bệnh nhân trong đó có những bệnh 
nhân phù hoàng điểm do đái tháo đường. 
Ngoài những điểm thuận lợi và ưu việt nói 
trên của thế hệ máy mới, sự thay đổi về công 
nghệ cũng dẫn tới sự khác biệt nhất định giữa 
kết quả đo của các máy với nhau và điều này đã 
được đề cập đến trong y văn trong thời gian gần 
đây. Việc này sẽ khiến việc theo dõi và lập phác 
đồ điều trị cho người bệnh khó khăn hơn khi 
người bệnh có kết quả thu được ở một máy 
trong một thời điểm lại có khả năng không cùng 
giá trị khi đo được đo lại trên một máy khác. 
Các thử nghiệm đa trung tâm nếu sử dụng các 
máy khác nhau vì thế cũng sẽ gặp nhiều trở 
ngại. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh 
trực tiếp giữa hai máy Stratus OCT và Cirrus 
OCT trên cùng một mắt của người bệnh phù 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 105
hoàng điểm do đái tháo đường để đánh giá sự 
khác biệt có thể có giữa hai máy khi đo bề dày 
của hoàng điểm. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Chúng tôi sử dụng thiết kế quan sát cắt 
ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi nhận vào nghiên cứu 35 bệnh 
nhân có phù hoàng điểm có ý nghĩa trên lâm 
sàng do đái tháo đường (CSME) theo tiêu chuẩn 
của ETDRS(5) đến khám tại khoa Đáy Mắt, BV 
Mắt TP.Hồ Chí Minh. Đánh giá phù hoàng điểm 
dựa vào quan sát bằng kính Volk Wide Field và 
độ dày võng mạc trung tâm tối thiểu 225µm 
(Stratus OCT). Nếu bệnh nhân bị phù hoàng 
điểm ở cả hai mắt thì mắt nào ít bị đục môi 
trường trong suốt hơn sẽ được lựa chọn (ví dụ: 
đục thủy tinh thể, sẹo giác mạc, xuất huyết dịch 
kính,...). Bệnh nhân sẽ không được chọn vào 
nghiên cứu nếu như có bất cứ một nguyên nhân 
nào khác đi kèm gây tăng độ dày hoàng điểm 
(ví dụ: bệnh lý hắc võng mạc trung tâm thanh 
dịch, bệnh lý mạch máu võng mạc, phù hoàng 
điểm dạng nang sau phẫu thuật đục thủy tinh 
thể). Tất cả bệnh nhân đều xác nhận vào văn bản 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Phương thức quét 
Hình 1: Bản đồ hoàng điểm theo EDTRS 
Đối với máy Stratus OCT chúng tôi sử dụng 
phương thức quét “Fast macular thickness” là 
phương thức thường được sử dụng nhất trên 
lâm sàng. Phương thức này bao gồm 6 lát cắt 
qua tâm dài 6mm, mỗi lát cắt bao gồm 128 điểm 
đi qua đúng tâm của hoàng điểm (nếu bệnh 
nhân định thị chính xác). Đối với máy Cirrus 
OCT chúng tôi sử dụng phương thức Macular 
Cube bao gồm 1 vùng quét có diện tích 6 x6 mm 
với 128 lát cắt, mỗi lát cắt có 512 điểm.Thông tin 
ghi nhận được từ các lần đo được đưa lên bản 
đồ hoàng điểm gồm 9 vùng theo EDTRS (Xem 
Hình 1). Tín hiệu của tất cả các lần quét đều phải 
từ 7 trở lên. 
Qui trình tiến hành 
Tất cả các bệnh nhân đều được nhỏ dãn 
đồng tử và được tiến hành đo bởi một kỹ thuật 
viên duy nhất giàu kinh nghiệm với hai loại 
máy Stratus OCT (Carl Zeiss Meditec) và Cirrus 
OCT (Carl Zeiss Meditec). Mỗi mắt được đo 2 
lượt (tương ứng với lượt thăm khám), mỗi lượt 
được quét 3 lần. Như vậy một mắt được quét 6 
lần. Để tránh hiện tượng mỏi mệt có thể ảnh 
hưởng đến kết quả đo, thời gian nghỉ giữa hai 
lượt đo là 15 phút. Trình tự đo của 2 máy OCT 
trên được thực hiện ngẫu nhiên theo phương 
pháp chẵn lẻ (chẵn thì đo bằng máy Stratus OCT 
trước, lẻ thì đo bằng máy Cirrus OCT trước). 
Trước khi lấy dữ liệu phân tích, tất cả các lát cắt 
đều được kiểm tra để xác nhận không bị nhiễu 
hay lỗi (ví dụ bệnh nhân nháy mắt trong khi 
đo). 
Phân tích thống kê 
Số lần quét trong mỗi lượt đo sẽ được phân 
tích “hệ số tương quan trong một lượt đo” 
(intraclass correlation coefficient – ICC). Trị số 
trung bình của mỗi lượt đo sẽ được phân tích 
“hệ số tương quan giữa hai lượt đo” (inter visit 
correlation coefficient – ICC) hay còn gọi là “hệ 
số tương quan giữa hai lượt khám”. ICC được 
tính dựa trên mô hình hiệu ứng hai chiều hỗn 
hợp đánh giá sự đồng thuận tuyệt đối (two-way 
mixed effects model for measures of absolute 
agreement). Sự khác biệt giữa hai máy được 
đánh giá bởi sự khác biệt giữa lần quét đầu tiên/ 
lượt đo đầu tiên của mỗi máy. Dữ liệu nói trên 
được phân tích và vẽ biểu đồ để đánh giá sự 
đồng thuận giữa hai máy theo Bland Altman(1). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 106
Ngoài ra, chúng tôi còn phân tích hồi qui để tìm 
công thức qui đổi giá trị giữa hai loại máy. Tất 
cả các phân tích được thực hiện trên phần mềm 
IBM SPSS Statistics 19.0 với chức năng 
Repeatability analysis đối với ICC và bằng lệnh 
(commands) với Bland Altman vì phần mềm 
không có sẵn chức năng này. 
KẾT QUẢ 
Chúng tôi có 35 bệnh nhân (11 nam và 24 
nữ) với 35 mắt (22 mắt phải và 13 mắt trái) 
được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình 
của bệnh nhân là 53,6±7,3 tuổi. Giá trị trung 
bình của 6 lần đo ở các vị trí khác nhau tương 
đương với 9 vùng của ETDRS được thể hiện 
trên Bảng 1. Sự khác biệt về độ dày trung bình 
giữa hai máy xảy ra ở tất cả các vùng có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). Máy Cirrus có 
khuynh hướng đo bề dày cao hơn so với máy 
Stratus. 
Bảng 1: Độ dày võng mạc trung bình theo vùng của 
ETDRS. TB: Trung bình, ĐLC: Độ lệch chuẩn 
Độ dày của các 
vùng (µm) 
Cirrus (TB±ĐLC, 
µm) 
Stratus (TB±ĐLC, 
µm) 
Trung tâm 420,23±110,89 351,56±103,14 
Trên trong 398,17±103,35 369,49±98,87 
Thái dương trong 408,56±117,12 370,18±102,42 
Dưới trong 401,25±92,63 355,11±91,10 
Mũi trong 402,57±88,26 354,10±85,29 
Trên ngoài 323,98±75,45 298,34±83,43 
Thái dương ngoài 332,48±75,51 298,81±88,72 
Dưới ngoài 330,29±70,29 281,89±67,28 
Mũi ngoài 341,81±49,39 301,64±72,14 
Hệ số tương quan trong mỗi lượt đo và giữa 
hai lượt đo (giữa hai lần khám) được thể hiện 
trong bảng 2. Kết quả cho thấy khả năng tái lập 
kết quả (reproducibility) của cả hai máy là rất 
cao (ICC>0,9). 
Bảng 2: Các hệ số tương quan trong mỗi lượt đo và 
giữa 2 lượt đo. KTC: Khoảng tin cậy 
 Cirrus Stratus 
ICC đo lượt 1 
(95%KTC) 
0,982 (0,965-
0,989) 
0,983 (0,975-
0,994) 
ICC đo lượt 2 
(95%KTC) 
0,979 (0,962-
0,991) 
0,980 (0,970-
0,991) 
ICC giữa 2 lượt 
(95%KTC) 
0,989 (0,973-
0,999) 
0,987 (0,982-
0,993) 
Phân tích hồi qui cho thấy giá trị đo được 
của hai máy có hệ số tương quan hồi qui tốt và 
công thức qui đổi là: Cirrus 
(µm)=0,8xStratus+8,1. 
Kết quả phân tích độ dày võng mạc trung 
tâm theo Bland Altman cho thấy sự khác biệt 
trung bình là 68,67µm (p<0,001). Giới hạn đồng 
thuận là từ -25,73 tới 135,2µm. Khoảng thay đổi 
là 160,93µm. Biểu đồ Bland Altman được thể 
hiện ở Hình 2. 
Hình 2: Biểu đồ Bland Altman đánh giá sự khác biệt 
giữa hai máy ở lần đo đầu tiên. Hai đường liền nét 
thể hiện 95% khoảng tin cậy 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá độ dày 
võng mạc ở người bị phù hoàng điểm do đái 
tháo đường trên hai loại máy OCT là Stratus và 
Cirrus so sánh trên cùng một mắt của người 
bệnh. Kết quả cho thấy khả năng tái lập kết quả 
(reproducibility) của cả hai máy là rất cao, hệ số 
tương quan hồi qui tốt, tuy nhiên không thể sử 
dụng thay thế cho nhau được vì sai biệt về đo 
độ dày giữa hai máy là quá cao. 
Có rất nhiều nghiên cứu trong y văn đã cho 
kết quả tương tự về khả năng tái lập kết quả của 
hai máy nói trên. Ví dụ, với máy Stratus OCT sai 
số giới hạn nằm trong khoảng 5% đối với người 
bình thường và 6% ở người bị phù hoàng điểm 
do đái tháo đường với hệ số tương quan giữa 
các lần đo (ICC) nằm trong khoảng 0,8 – 1,00. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 107
Tương tự, với máy Cirrus OCT(10) có sai số nằm 
trong khoảng 0,6% tới 2,9% ở người bình 
thường và ICC ở những người phù hoàng điểm 
thay đổi từ 0,84 tới 1,00 (nghiên cứu của chúng 
tôi ICC>0,9). 
Tương tự với các nghiên cứu khác trong y 
văn, hệ số tương quan hồi qui giữa hai máy là 
tốt (0,8) nhưng không thể sử dụng kết quả của 
hai máy này thay cho nhau được. Phân tích 
Bland Altman cho thấy sai biệt trung bình trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 68,67µm và thậm 
chí trong một trường hợp sai biệt lên đến 
135,2µm. Tất nhiên, sai biệt này không thể được 
chấp nhận được trên lâm sàng. 
Sai biệt này cũng gặp trong các nghiên cứu 
so sánh giữa nhiều loại OCT của nhiều hãng sản 
xuất với nhau. Có giả thuyết cho rằng sự khác 
nhau về thuật toán xử lý dữ liệu thô (raw data) 
và hiện tượng lệch tâm ở hoàng điểm sẽ dẫn đến 
sai biệt nói trên. Thực ra, nếu có hiện tượng lệch 
tâm thì sự thay đổi lớn nhất sẽ ở vùng trung tâm 
và khi ra các vùng phía ngoài sự thay đổi này sẽ 
ít đi vì độ dày võng mạc ở các vùng phía ngoài 
thay đổi không nhiều. Nghiên cứu của chúng 
tôi cho thấy sự sai biệt này là không khác biệt 
nhiều từ trung tâm ra ngoại vi. Chính vì vậy, 
nếu có sự lệch tâm thì hiện tượng này không 
đáng kể và không giải thích được sự sai biệt về 
độ dày đo được. Mặt khác, máy Cirrus và 
Stratus là do cùng một hãng chế tạo (Carl Zeiss 
Meditec) do đó có thể giả định rằng thuật toán 
xử lý dữ liệu thô và định tâm là không khác biệt. 
Hình 3: Giới hạn ngoài của máy Stratus là IS/OS trong khi đó máy Cirrus là giữa lớp biểu mô sắc tố. Mũi tên đỏ 
là độ dày võng mạc trung tâm 
Đa số các tác giả đều đồng ý về nguyên 
nhân chủ yếu về sự sai biệt giữa các loại máy 
OCT khác nhau là do máy cài đặt giới hạn ngoài 
của võng mạc khác nhau. Giới hạn ngoài lớp 
võng mạc của máy Stratus là mặt giao tiếp giữa 
đoạn ngoài và trong của tế bào cảm thụ quang 
(IS/OS interface) trong khi đó máy Cirrus đặt 
giới hạn ngoài là ở giữa lớp biểu mô sắc tố 
(Hình 3). Điều này cũng lý giải kết quả đo của 
Cirrus có trị số cao hơn (dày hơn) so với máy 
Stratus. 
KẾT LUẬN 
Tóm lại, Cả hai máy Stratus OCT và Cirrus 
OCT đều đáng tin cậy khi sử dụng trên lâm 
sàng. Tuy nhiên, kết quả đo được của hai máy 
không thể dùng thay thế cho nhau được, do đó 
khi theo dõi một bệnh nhân cụ thể thì nên cho 
bệnh nhân sử dụng cùng một máy trong quá 
trình theo dõi. Sai biệt giữa hai máy có nhiều 
nguyên nhân trong đó chủ yếu là do cài đặt giới 
hạn ngoài của lớp võng mạc khác nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bland JM, Altman DG (1986). “Statistical methods of assessing 
agreement between two methods of clinical measurement”. 
Lancet, 1: 307 – 310. 
2. Chen TC, Cense B, Pierce MC, et al. (2005). “Spectral domain 
optical coherence tomography: ultra-high speed, ultra-high 
resolution ophthalmic imaging”. Arch Ophthalmol, 123: 1715 – 
1720. 
3. Diabetic Retinopathy Clinical Research Network, Krzystolik 
MG, Strauber SF, Aiello LP, Beck RW, Berger BB, Bressler NM, 
Browning DJ, Chambers RB, Danis RP, Davis MD, Glassman 
AR, Gonzalez VH, Greenberg PB, Gross JG, Kim JE, Kollman C. 
(2007). “Reproducibility of macular thickness and volume using 
Zeiss OCT in patients with DME”. Ophthalmology, 114(8): 1520 – 
1525. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 108
4. Drexler W, Sattmann H, Hermann B, et al. (2003). “Enhanced 
visualization of macular pathology with the use of ultrahigh-
resolution optical coherence tomography”. Arch Ophthalmol, 
121: 695 – 706. 
5. Early Treatment Diabetic Retinopathy Study Research Group 
(1985). “Photocoagulation for diabetic macular edema. ETDRS 
report number 1”. Arch Ophthalmology, 103: 1796 – 1806. 
6. Forooghian F, Cukras C, Meyerle CB, Chew EY, Wong WT 
(2010). “Evaluation of time domain and spectral domain optical 
coherence tomography in the measurement of diabetic macular 
edema”. Invest Ophthalmol Vis Sci, 49: 4290 – 4296. 
7. Hee MR, Puliafito CA, Duker JS, et al. (1998). “Topography of 
diabetic macular edema with optical coherence tomography”. 
Ophthalmology, 105: 360 – 370. 
8. Kakinoki M, Sawada O, Sawada T, Kawamura H, Ohji M (2008). 
“Comparison of macular thickness between Cirrus HD-OCT 
and Stratus OCT”. Ophthalmic Surg Lasers, 39: 37 – 42. 
9. Kiernan DF, Hariprasad SM, Chin EK, Kiernan CL, Rago J, 
Mieler WF (2009). “Prospective comparison of Cirrus and 
Stratus optical coherence tomography for quantifying retinal 
thickness”. Am J Ophthalmol, 147: 267 – 275. 
10. Leung CK, Cheung CY, Weinreb RN, et al. (2008). “Comparison 
of macular thickness measurements between time domain and 
spectral domain optical coherence tomography”. Invest 
Ophthalmol Vis Sci, 49: 4893 – 4897. 
11. Richard JA, Miles RS, Devinder SC, et al. (2000). “Comparison 
between optical coherence tomography and fundus fluorescein 
angiography for the detection of cystoid macular edema in 
patients with uveitis”. Ophthalmology, 107: 593 – 599. 
12. Weojtkowski M, Srinivasan V, Ko T, Fujimoto J, Kowalczyk A, 
Duker J (2004). “Ultrahigh-resolution, high-speed, Fourier 
domain optical coherence tomography and methods for 
dispersion compensation”. Opt Express, 12: 2404 – 2422.